Động cơ điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị
Nhà quản lý có động cơ điều chỉnh lợi nhuận khi lợi nhuận thực (lợi
nhuận không điều chỉnh) khác với mục tiêu của nhà quản lý. Lợi nhuận th ực
có thể quá cao hoặc quá thấp, còn mục tiêu của nhà quản lý thì đ ược xác đ ịnh
trên cơ sở kỳ vọng của các cổ động hoặc yêu cầu đòi hỏi của h ợp đồng. Tuy
nhiên cần phải cẩn trọng khi phân biệt điều chỉnh lợi nhuận theo h ướng có
lợi và bóp méo lợi nhuận để gian lận
Nhà quản lý có thể thu về phản ứng ít tiêu cực h ơn từ nh ững ng ười s ử
dụng thông tin khi thực hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận để làm cho l ợi
nhuận được báo cáo “tốt hơn” so với lợi nhuận trước điều chỉnh.
Tại Việt Nam, Nguyễn Thị Minh Trang (2012) vận dụng mơ hình điều
chỉnh lợi nhuận của DeAngelo (1986) và Friedlan (1994) thu th ập số li ệu t ừ
báo cáo tài chính của 20 doanh nghiệp (DN). Các doanh nghi ệp này đ ược l ựa
chọn ngẫu nhiên tương ứng 4 loại hình doanh nghiệp khác nhau (doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ ph ần, công ty trách
nhiệm hữu hạn) để nhận dạng việc điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản tr ị,
qua đó cho thấy, động cơ chính để điều chỉnh lợi nhuận của t ừng lo ại hình
doanh nghiệp là khác nhau. Nghiên cứu của Phan Th ị Thùy D ương (2015) đã
khái quát đưa ra 3 động cơ chủ yếu của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt
Nam: thu hút tài trợ bên ngoài, chế độ lương thưởng và thuế lợi nhuận doanh
nghiệp
Thông thường, động cơ điều chỉnh lợi nhuận hình thành khi có s ự
xuất hiện của một số sự kiện phát sinh tại doanh nghiệp. Trong luận án
này, tác giả khái quát một số động cơ điều chỉnh lợi nhuận phổ biến nh ư
sau:
-
Điều chỉnh lợi nhuận nhằm thu hút đầu tư bên ngoài
Khi lần đầu bán cổ phiếu niên yết (IPO) hay phát hành thêm cổ phi ếu doanh
nghiệp luôn muốn thu hút các nhà đầu tư bên ngoài.
+ Lợi nhuận ảnh hưởng trực tiếp đến giá cổ phiếu và ảnh h ưởng gián
tiếp tới thị trường vốn thông qua việc chỉ tiêu lợi nhuận được s ử dụng đ ể d ự
báo dòng tiền trong tương lai.
Về thị trường vốn, việc sử dụng rộng rãi thông tin kế toán bởi các nhà đầu t ư
và các nhà phân tích tài chính có thể giúp định giá cổ phiếu và đi ều này thúc
đẩy nhà quản lý điều chỉnh lợi nhuận để tác động đến giá cổ phiếu.
+Một số nghiên cứu trước đây về vấn đề này: Graham cộng sự (2005)
khảo sát các CFO (Giám đốc tài chính) mà trong đó ph ần lớn th ừa nh ận đi ều
chỉnh lợi nhuận thực tế và/ hoặc dồn tích. Roychowdhury (2006) phát hi ện
bằng chứng của cả hai loại điều chỉnh lợi nhuận. Collins và Hribar (2000)
cho rằng một loại yếu tố thúc đẩy có thể là tăng giá cổ phiếu. Điều này có
thể được thực hiện trước khi phát hành cổ phiếu bổ sung (Cohen và Zarowin,
2010), phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu (IPO), cũng nh ư mua l ại tài
chính chứng khốn (stock-financed acquisitions) (Adams cùng cộng sự, 2009;
Erickson và Wang, 1999; Rangan, 1998; Teoh và cộng s ự, 1998). Nghiên c ứu
khác của Haw và cộng sự tại Trung Quốc cho thấy các công ty đi ều ch ỉnh l ợi
nhuận nhằm đạt đủ các tiêu chuẩn để phát hành cổ phiếu theo quy đ ịnh c ủa
Trung Quốc.
-
Điều chỉnh lợi nhuận do chế độ thưởng
Về hợp đồng, các hợp đồng có thể dựa vào lợi nhuận để xác định mức tiền
thưởng hoặc mức phạt vi phạm điều khoản điều này khiến nhà quản trị
điều chỉnh tăng lợi nhuận trong kỳ nhằm mục tiêu tăng m ức tiền th ưởng.
+Về vấn đề này thì nghiên cứu của Healy (1985) là nổi bật nhất, ông
cho rằng động cơ về những khoản tiền thưởng tác động đến việc điều ch ỉnh
lợi nhuận.
-
Điều chỉnh lợi nhuận nhằm thay đổi chi phí chính trị
Về chi phí chính trị, các cơng ty có thể điều chỉnh số liệu lợi nhuận được báo
cáo nhằm tránh sự can thiệp của chính phủ hoặc hưởng ưu đãi thuế, b ởi s ố
liệu kế tốn là cơ sở để tính thuế…Doanh nghiệp cũng có thể điều chỉnh lợi
nhuận nhằm tránh cơng bố các mức lợi nhuận cao, để tránh c ơ quan qu ản lý
Nhà nước có những hành động chính sách điều tiết hoạt động của doanh
nghiệp như rút bớt các chính sách ưu đãi điều tra hành vi được cho là đ ộc
quyền của doanh nghiệp. Mà đang đem lại lợi ích quá cao cho doanh nghiệp.
Các nghiên cứu trước đây về vấn đề này: Quốc gia được nghiên cứu
nhiều nhất là Trung Quốc; Chen và cộng sự (2009), Calomiris và cộng s ự
(2010), Wu và cộng sự (2012), Francis và cộng sự (2009), Fan và cộng sự
(2008), Li và cộng sự (2008), Cull và cộng sự (2015), Chan và cộng sự
(2012), tất cả đều thấy được những lợi thế khác nhau ở các cơng ty liên
quan đến chính trị ở Trung Quốc. Các lợi thế này liên quan đ ến m ột số s ự
kết hợp giữa trợ cấp và lợi ích thuế, tiếp cận thuận lợi với th ị trường vốn và
ưu đãi từ các ngân hàng.
Sự kiểm sốt của chính phủ đối với các cơng ty có thể được coi là một
sự tiêu cực, thúc đẩy đầu tư dưới mức tối ưu và hối lộ (La Porta và cộng sự,
2002; Liu và cộng sự (2014) cho rằng tác động c ủa s ự tham gia c ủa chính
phủ vào báo cáo tài chính phụ thuộc vào s ự bảo vệ nhà đầu t ư c ủa đ ất
nước: ở các quốc gia theo luật dân sự có nguy cơ sung công cao h ơn, các
công ty sẽ điều chỉnh lợi nhuận giảm, không để bị sung công; t ại các qu ốc
gia luật phổ biến với sự bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn, các công ty sẽ báo cáo
lợi nhuận tích cực hơn.
Hiệu quả chính xác của việc liên quan đến chính tr ị đ ối v ới m ức đ ộ
điều chỉnh lợi nhuận vẫn chưa rõ ràng. Braam và cộng sự (2015) cho r ằng
động lực của Các cơng ty liên quan đến chính trị khi nói đ ến đi ều ch ỉnh l ợi
nhuận là khác nhau: họ sợ bị phát hiện và bị phát hiện l ợi ích c ủa vi ệc liên
quan đến chính trị hơn. Như vậy, động lực của họ bao gồm khơng chỉ có khả
năng đáp ứng các mục tiêu lợi nhuận nhất định mà còn ch ủ đ ộng che gi ấu
các đặc quyền của việc liên quan đến chính trị. Li và cộng s ự (2016) nh ận
thấy rằng sau khi thay đổi luật thuế ở Trung Quốc, chỉ Các công ty liên quan
đến chính trị tham gia điều chỉnh lợi nhuận do thuế: họ có nhiều kh ả năng
sẽ trả ít hơn nếu bị bắt, cũng như ít bị bắt hơn trong lần đầu tiên. Trong khi
Chaney và cộng sự (2011), Ramanna và Roychowdhury (2010) và RiahiBelkaoui (2004) thấy rằng Các công ty liên quan đến chính tr ị có ch ất l ượng
lợi nhuận thấp hơn, Guedhami và cộng sự (2014) thấy Các cơng ty liên quan
đến chính trị có điều chỉnh lợi nhuận ít hơn và chi phí vốn cổ ph ần th ấp
hơn.
- Mức thuế suất cũng là một biện pháp thay thế quan trọng cho chi
phí chính trị. Trong trường hợp này thì, các cơng ty khơng tham gia chính tr ị
thường có mức thuế suất thấp hơn. Thay vào đó, nh ững cơng ty có m ức l ợi
nhuận lớn hơn dễ bị chính phủ xác nhận và có m ức thu ế su ất cao h ơn. Do
vậy, các doanh nghiệp có tác động giảm lợi nhuận trong ngắn h ạn c ủa h ọ
để giảm khoản thuế phải nộp. El-Gazzar et al. (1986) đã ti ến hành các bài
kiểm tra và nhận thấy rằng các cơng ty có mức thuế cao th ường t ận d ụng
các hợp đồng thuê của họ. Boynton et al. (1992) đã th ực hiện m ột nghiên
cứu thực nghiệm liên quan giữa thay đổi lợi nhuận và các điều kho ản c ủa
luật cải cách thuế Hoa Kỳ năm 1986 và xác nhận sự t ồn t ại c ủa vi ệc thay
đổi lợi nhuận nhằm trốn thuế. Han và Wang (1998) đã chỉ ra rằng trong
cuộc khủng hoảng Vịnh Ba Tư năm 1990, nhiều doanh nghiệp sản xu ất dầu
ở Mỹ đã thông qua giải pháp giảm lợi nhuận ngắn hạn, nh ư là thay đ ổi
chính sách kế tốn và giảm hàng tồn kho cuối kì của h ọ, để tránh ph ải ch ịu
thuế lợi nhuận cũng như kết quả của việc gia tăng mạnh mẽ giá dầu.
Hạn chế của phần lớn những nghiên cứu trước đó vào chi phí chính tr ị
là họ không tập trung vào những sự kiện cụ thể (Wong, 1988). Tuy nhiên
theo những nghiên cứu sau này thì mối liên hệ giữa chi phí chính tr ị và thay
đổi lợi nhuận cần tập trung vào những sự kiện đặc biệt, chúng đ ược th ảo
luận dựa trên nền tảng chính trị của họ. Ví dụ, như một số nền cơng nghiệp
có khả năng thu hút sự chú ý của các cơ quan quản lí, h ọ có đ ộng l ực l ớn
hơn để giảm doanh thu nhằm tránh các cơ quan quản lí. Jones (1991) đã
điều tra 23 cơng ty chịu ảnh hưởng của chương trình Ủy ban Thương mại
Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) để hạn chế nhập khẩu và thấy rằng , trong cuộc điều
tra, các nhà quản lí giảm thiểu lợi nhuận thơng qua các thao tác dồn tích.
Cahan (1992) đã thực hiện các nghiên cứu tương tự trên nh ững công ty b ị
điều tra chống độc quyền và cũng nhận ra rằng, trong cuộc điều tra, các
khoản phải trả của cơng ty có ảnh hưởng tiêu cực đáng k ể. Cahan et al.
(1997) đã thực hiện những nghiên cứu của nền công nghiệp hố chất Mỹ
vào cuối năm 1979. Khi các cơng ty đều đối mặt v ới nh ững ch ỉ trích vì ơ
nhiễm mơi trường. Trong thời kì điều tra khi Quốc hội thảo luận về việc
thành lập quỹ dự thảo làm sạch ô nhiễm (được tr ợ cấp b ởi các công ty gây ô
nhiễm), lợi nhuận được báo cáo của các công ty gây ô nhiễm th ấp h ơn đáng
kể. Han và Wang (1998) đã nghiên cứu những chính sách kế tốn đ ược các
cơng ty dầu mỏ dùng vào những năm khủng hoảng vùng vịnh 1990 khi giá
dầu tăng. Họ thấy rằng các công ty dầu mỏ giảm các khoản l ợi nhu ận của
họ vào năm 1990 thông qua hàng tồn kho và các khoản ph ải trả đ ặc biệt
trong 3 hoặc 4 quý để giảm phần lớn chi phí chính trị liên quan đến kho ản
lớn lợi nhuận bất thường này. Monem (2003) đã nghiên cứu nền công
nghiệp khai thác vàng của Australian thời kì năm 1991. Autralian đã th ực
hiện chính sách miễn thuế cho ngành khai thác vàng. Tuy nhiên trong th ời kì
phát triển nhanh chóng những năm 1980 nền công nghiệp khai thác vàng
kiếm được nguồn lợi nhuận rất cao và chính phủ tạo áp l ực để áp thu ế lên
vàng. Nghiên cứu của Monem (2003) được bắt đầu từ năm 1985, sau khi
chính phủ đưa ra dự thảo luật về thuế đối với ngành công nghiệp khai thác
vàng. Dự thảo được thông qua năm 1988, được áp d ụng vào năm 1991. S ử
dụng mô hình của Jones (1991), Monem (2003) đã nh ận th ấy s ự c ắt gi ảm
đáng kể của những khoản phải trả trong nền công nghiệp khai thác vàng
của Autralian vào thời kì 1985 – 1988. Vì các khoản ph ải trả cũng th ấp h ơn
đáng kể so với các công ty khai thác vàng của Canada, nh ững kết quả hỗ tr ợ
cho giả thuyết chi phí chính trị.
-Về động cơ cá nhân, nhà quản lý mới được bổ nhiệm có thể điều ch ỉnh
lợi nhuận giảm trong năm thay đổi nhân sự và điều chỉnh l ợi nhu ận tăng
lên trong năm tiếp theo…
*Thể chế ảnh hưởng đến điều chỉnh lợi nhuận
- Nhiều nghiên cứu về điều chỉnh lợi nhuận coi hiện tượng tham
nhũng là yếu tố ảnh hưởng đến điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên, ph ần l ớn
trong số họ làm điều này theo cách gián tiếp bằng cách s ử d ụng một bi ến đo
lường sức mạnh của môi trường pháp lý - điểm trung bình c ủa ba biến h ợp
pháp được sử dụng trong La Porta và cộng sự. (1998): hiệu quả c ủa h ệ
thống tư pháp, đánh giá về quy định pháp luật và mức độ tham nhũng (Leuz
và cộng sự., 2003; Shen và Chih, 2005, 2007; Chih và cộng s ự, 2008;
Doupnick, 2008; Van Tendeloo và Vanstraelen, 2008; Li và cộng s ự, 2011).
González và García-Meca (2014) đã sử dụng thước đo m ức độ quản tr ị
của một quốc gia xem xét ba chỉ số chính sau đây: kiểm soát tham nhũng,
quy định pháp luật và hiệu quả của chính phủ. Theo các tài liệu hiện có, các
tác giả này cho rằng các chỉ số này là yếu tố quan trọng đ ể đo l ường cách
thức quản trị của một quốc gia ảnh hưởng đến hành vi cơ hội trong các
công ty.
Mặc dù vậy, và mặc dù có rất nhiều tài liệu về cả tham nhũng và chất
lượng kế tốn, các nghiên cứu phân tích mối quan hệ có th ể có giữa hai
điều này là rất hiếm. Chúng tơi chỉ có thể xác đ ịnh đ ược năm nghiên c ứu
trong lĩnh vực này: Kimbro (2002), Riahi-Belkaoui (2004), Wu (2005),
Riahi-Belkaoui và AlNajjar (2006), Malagueño và cộng sự (2010) và Houqe
và Monem (2013).
*Bên cạnh những động cơ điều chỉnh lợi nhuận phổ biến như
đề cập ở trên, trong thực tế, các sự kiện kinh tế - chính trị - xã hội
diễn ra rất đa dạng, vì thế hành vi điều chỉnh lợi nhu ận cũng đ ược
thực hiện với nhiều động cơ khác nhau. Một số nghiên cứu dưới đây
thể hiện sự đa dạng của động cơ điều chỉnh lợi nhuận gắn với các
sự kiện phát sinh.
-DeAngelo (1986) kiểm chứng việc nhà quản trị thay đổi dồn tích
khi họ tìm cách mua lại tồn bộ cổ phiếu của các cổ đông. Thông qua m ột
số các kỹ thuật kế toán, các nhà quản trị điều chỉnh giảm lợi nhuận nh ằm
giảm giá phải trả khi mua cổ phiếu với mục đích tăng tài sản cá nhân. Tuy
nhiên, kết quả nghiên cứu của DeAngelo (1986) không ủng hộ giả thuy ết
về việc các nhà quản trị có xu hướng điều chỉnh giảm lợi nhuận công ty
trước khi muốn mua lại tồn bộ cổ phần từ cổ đơng. Trong khi đó Perry và
Williams (1994) cho kết quả ngược lại, họ tìm thấy bằng ch ứng c ủa s ự
tồn tại hoạt động điều chỉnh lợi nhuận khi công ty mua lại c ổ phiếu t ừ c ổ
đông, họ cũng nhấn mạnh rằng sự khác biệt về kết quả này so v ới
DeAngelo (1986) là do sự khác nhau về mẫu điều tra ch ứ không ph ải do
phương pháp. Trueman (1990), trong bối cảnh nhà quản trị muốn trì hỗn
việc cơng bố một thơng tin xấu, điều chỉnh phần dồn tích được sử d ụng
để tạm thời tránh việc ảnh hưởng đến uy tín doanh nghiệp. Fern, Brown
và Dickey (1994) điều chỉnh số liệu kế toán để đạt lợi nhuận kỳ v ọng
theo các dự đoán của các nhà phân tích hoặc để giảm thi ểu vi ệc vi ph ạm
điều khoản hạn chế trong hợp đồng vay nợ (chia lãi nhi ều h ơn khi đ ưa l ợi
nhuận tương lai về kỳ hiện tại).
- Ảnh hưởng của chất lượng kiểm tốn và quy mơ ki ểm tốn đ ối v ới
điều chỉnh lợi nhuận
Có nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã hỗ trợ quy mô dùng kiểm toán viên
như một đặc điểm cho chất lượng kiểm tốn. Ví dụ, Davidson và Neu
(1993) đã lập luận rằng những nhà quản lí khuyến khích làm sai l ệch báo
cáo lợi nhuận trên những phân tích dự báo. Do đó, nếu những cơng ty
kiểm tốn lớn cung cấp chất lượng kiểm tốn cao hơn nh ững cơng ty nh ỏ
hơn, chúng ta có thể mong đợi rằng những sai lầm trong d ự đốn của
những cơng ty kiểm tốn lớn phải lớn hơn. Sử dụng những dữ liệu từ
những công ty của Canada, những kết quả của ông hỗ trợ nh ững mong đ ợi
của ông, chỉ ra rằng quy mơ kiểm tốn là một đặc tr ưng tốt của chất
lượng kiểm toán.
Lợi nhuận, được coi là một trong nh ững m ục báo cáo tài chính quan
trọng nhất, là cơ sở của các tiêu chí quyết định để các công ty đánh giá
hiệu suất của họ và xác định giá trị của tài sản. Mục đích của báo cáo l ợi
nhuận bao gồm cung cấp thơng tin hữu ích để đo lường hi ệu quả của
quản lý, dự đoán hiệu suất và phân phối lợi nhuận trong tương lai c ủa
thực thể, xác định cơ sở để xác định thuế, tính đến giá của sản ph ẩm, v.v.
(Hajizadeh và Rahimi, 2012).
Trong việc xem xét lợi nhuận thì khơng chỉ số lượng quan tr ọng mà
chất lượng cũng quan trọng vì các cách trình bày các sự ki ện kinh tế khác
nhau của một thực thể cho phép ban quản lý có nhiều lựa ch ọn h ơn khi x ử
lý các báo cáo lợi nhuận. Tuy nhiên ưu điểm này có th ể gây bất l ợi cho
chất lượng lợi nhuận. Do đó, việc xem xét chất lượng lợi nhuận và các quy
trình giám sát sau đây là rất quan trọng. Một trong nh ững quy trình giám
sát là kiểm toán độc lập được thực hiện bởi các cá nhân chuyên nghi ệp đ ể
tăng sự đảm bảo thông tin tài chính cho người dùng (Hajizadeh và Rahimi,
2012: 58). Piot và Janin (2005) lập luận rằng kiểm tốn có th ể góp ph ần
giảm thay đổi lợi nhuận, từ đó ngăn cản những thông tin sai lệch trong
báo cáo lợi nhuận. Nói cách khác, những cơng ty đã kiểm tốn báo cáo tài
chính của họ sẽ có nội dung thơng tin có chất lượng cao về lợi nhuận. Các
khoản phải trả thay đổi tùy theo các quyết định của người quản lý và các
khoản phải trả sẽ dẫn đến việc kiểm tốn khó khăn hơn. Khi chất l ượng
kiểm tốn cao, khả năng nhận ra lỗi kiểm toán cũng cao bởi vì ch ất l ượng
và chun mơn hóa của một công ty tăng lên, các nguồn lực và sự khuy ến
khích cho việc nhận biết lỗi sẽ đồng thời tăng lên.
Bartov et al. (2000) đã kiểm tra sáu công ty kiểm toán l ớn đ ể đánh giá
chất lượng kiểm tốn. Họ đưa ra giả thuyết rằng các cơng ty này có chất
lượng kiểm tốn cao và các cơng ty khơng được kiểm tốn bởi các cơng ty
này đang cố gắng trình bày nhiều khoản phải trả hơn để sửa đ ổi thu
nhập. Kết quả nghiên cứu đã xác nhận giả thuyết
Sự khác biệt về chất lượng kiểm toán giữa các cơng ty kiểm tốn Big
Four và Non-Big Four đã nhận được sự chú ý đáng kể trong nghiên c ứu
trước đó (Tandeoloo và Vanstraelen, 2008). Những nghiên cứu trước đây
đã sử dụng những sự khác nhau trong kiểm toán của Big Four/non-Big
Four để nắm bắt được sự khác biệt trong chất lượng kiểm toán. Nghiên
cứu trước đây (Becker et al., 1998, Francis et al., 1999) cho th ấy ki ểm toán
Big Four hạn chế đáng kể việc thay đổi lợi nhuận của nh ững công ty niêm
yết. Theo cách tương tự, Tandeloo và Vanstraelen (2008) đã nghiên c ứu
các cơng ty kế tốn tư nhân để nhận ra sự khác biệt giữa Big Four và nonBig Four.
Vì thay đổi lợi nhuận trong các cơng ty tư nhân sẽ không cho ng ười
sử dụng báo cáo tài chính quyền được biết thơng tin chính xác, nên nhi ệm
vụ của kiểm toán viên là bảo vệ các bên có liên quan. Các đ ộng c ơ của các
cơng ty kiểm tốn (đặc biệt là cơng ty lớn) cung cấp kiểm toán ch ất l ượng
cao xuất phát từ rủi ro kiện tụng khi phát hiện ra lỗi kiểm tốn, do đó làm
tổn hại đến uy tín của kiểm tốn viên (Tandeloo và Vanstraelen, 2008:
448). Các cơng ty kiểm tốn Big Four có động cơ để cung cấp chất l ượng
kiểm toán đồng đều ở các phân khúc thị trường khác nhau và do đó sẽ có
xu hướng kiểm tốn chất lượng cao trong các cơng ty khác hàng t ư nhân.
Do đó, đây là một câu hỏi thực nghiệm rằng liệu mối quan tâm v ề danh
tiếng của các kiểm tốn viên Big Four có đủ mạnh để kiểm soát các rủi ro
về đạo đức trong phân khúc khách hàng tư nhân.
Ở Mỹ, những nghiên cứu về chất lượng kiểm toán đều đề nghị rằng,
liên quan đến các công ty nhỏ, những công ty CPA l ớn cung cấp ch ất l ượng
kiểm toán cao hơn, cứ như vậy họ có thể hạn chế một cách mạnh mẽ các
khách hàng của họ trong nỗ lực thay đổi lợi nhuận. Nghiên cứu quan tr ọng
ở Hoa Kỳ cho thấy rằng các cơng ty kiểm tốn lớn cung cấp kiểm tốn
chất lượng cao hơn các cơng ty nhỏ. Điều này một phần nh ờ vào vi ệc đào
tạo nhân sự và chun mơn trong ngành lớn hơn có lẽ tồn tại v ới các công
ty CPA lớn cùng với mong muốn mạnh mẽ hơn để bảo vệ danh tiếng c ủa
họ và tránh kiện tụng tốn kém từ các cuộc kiểm tốn th ất bại so v ới các
cơng ty kiểm tốn nhỏ. Một dịng nghiên cứu chất lượng kiểm toán c ụ th ể
ở Hoa Kỳ cho thấy thêm rằng, liên quan đến các cơng ty kiểm tốn nh ỏ,
những cơng ty kiểm tốn lớn tích cực kiềm chế những khoản ph ải trả tuỳ
ý của họ cũng như khả năng thay đổi thu nhập của họ nói chung (Jordan
et al., 2010:19, 20).