Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.11 KB, 5 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Ngọc Điệp</b>
<i>(Nhân đọc tiểu thuyết lịch sử Sắc đẹp khuynh thành - Trần thị của Kiều Thanh Tùng)</i>
<i>Gần đây khi bàn về việc làm phim kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long (Thái tổ Lý Công Uẩn, Trần </i>
<i>Thủ Độ…), nhiều chuyên gia phát biểu rằng: thời Lý - Trần không biết người ta ăn mặc thế nào? </i>
Xưng hơ ra sao? Thành trì, cung điện hình dáng cụ thể thế nào? Một số người tranh luận về việc
người Việt ngày ấy cưỡi thuyền hay ngồi xe ngựa?… Rằng khơng có tư liệu để xác định chi tiết
những thứ đó. Cách thường làm là tra cứu tài liệu của người Trung Quốc hoặc người Việt thời Lê
- Nguyễn rồi suy ra rằng người Việt thời Lý - Trần cũng na ná như thế. Theo tơi cách làm này
khơng ổn vì nước Việt thời Lý - Trần khác xa với nước Việt thời Lê - Nguyễn. Thời Lê - Nguyễn,
Nho giáo là thống trị nhưng thời Lý - Trần, Phật giáo là thống trị. Xã hội Nho giáo dĩ nhiên phải
khác xã hội Phật giáo.
<i>Tình cờ đọc tiểu thuyết lịch sử Sắc đẹp khuynh thành - Trần thị của Kiều Thanh Tùng, tôi thấy </i>
trong cuốn sách có nhiều đổi mới này, tác giả đã xử lý các vấn đề trên khá độc đáo và hợp lý. Cụ
thể là:
<b>Về giao thông: Kiều Thanh Tùng cho rằng người Việt ngày ấy chủ yếu dùng đường thủy. Quân </b>
<i>đội Việt trong Sắc đẹp khuynh thành - Trần thị được mô tả là “thủy quân lục chiến”, cơ động </i>
bằng thuyền rồi đổ bộ chiến đấu. Người và ngựa đều xuống thuyền. Kiều Thanh Tùng còn tả cảnh
võ sĩ cưỡi trâu chiến đấu, cũng độc đáo vì con trâu là biểu tượng của nước Việt ta. Lại có cảnh hai
tướng cưỡi thuyền đơn đấu võ trên mặt sông theo thể thức một tay lái thuyền một tay đánh kiếm,
cũng lạ, có chất phương Nam, không thấy trong sách Tây sách Tàu.
Trang bìa cuốn sách.
<b>Về trang phục: Kiều Thanh Tùng lấy tranh Đơng Hồ làm cơ sở. Anh nói: Thứ nhất, Việt phải </b>
khác Hán, dĩ nhiên. Ngày xưa chưa có truyền hình vệ tinh hay Internet nên bản sắc vùng miền rất
đậm. Giữa hai tỉnh, thậm chí hai huyện ăn mặc, giọng nói đã khác nhau, huống chi tận nước Việt
với nước Trung Quốc. Thứ hai, nước ta ở phương Nam nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều, ăn mặc lịe
xịe như người Hán vừa nóng bức khổ sở, vừa tốn vải vơ ích: “ngày xưa chưa có sợi tổng hợp,
chưa có máy dệt nên vải rất đắt”. Mặc đồ ngắn mỏng vừa đỡ tốn kém, dễ giặt dễ phơi, vừa khoe
được vẻ đẹp cơ thể. Kiều Thanh Tùng cho rằng bộ áo giáp của người Việt xưa có lẽ hơi giống với
bộ giáp của người La Mã khi họ đi đánh phương Nam: Một phần đùi và cánh tay để trần cho đỡ
nóng và dễ cử động, trông lại rất đẹp mắt.
nhưng tựu trung, anh thích nghiên cứu về con người: “con người làm nên tất cả, có mặt trong tất
cả: lịch sử, chính trị, quân sự, kỹ thuật, nghệ thuật, tình u…”.
<b>Về cách xưng hơ, ngơn ngữ: Kiều Thanh Tùng lấy ca dao làm cơ sở. Khác với nhiều tiểu thuyết </b>
<i>lịch sử khác, trong Sắc đẹp khuynh thành - Trần thị, nhân vật thường xưng hô với nhau bằng </i>
những từ thuần Việt: mày tao, anh tôi… Thỉnh thoảng họ cũng xưng hô theo kiểu Hán: ta ngươi,
thần trẫm… Nam nữ yêu nhau thì xưng là “anh em”. Tùng dẫn chứng ca dao cổ:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Để quên cái áo trên cành hoa sen
<i>Em được thì cho anh xin…”</i>
Tùng nói theo sử chép thì thời Lý Thái Tông, các quan không gọi vua rằng “Thưa bệ hạ!” mà gọi
rằng “Thưa triều đình!” (vua thì gọi là triều đình, cịn triều đình thì họ gọi là gì? Sẽ lại phải có từ
khác để phân biệt). Thời Lý Cao Tông người ta lại gọi vua là “Thưa Phật!”. Vua Lý Thánh Tơng
thì khơng tự xưng là “trẫm” mà xưng là “vạn thặng”… Theo Kiều Thanh Tùng, khơng nên q
Kiều Thanh Tùng nói ngơn ngữ hay áo quần, hay kiến trúc thay đổi theo thời gian. Nó như những
thứ mốt, bao giờ người ta thấy cũ, không gây được cảm hứng nữa thì người ta thay đổi nó. Quần
áo thì chán kiểu rộng thụng lại đổi sang kiểu bó chẽn, chán kiểu dài thướt tha lại đổi sang kiểu
ngắn cũn cỡn… mỗi kiểu mỗi vẻ đều đẹp cả, miễn là nó xuất hiện đúng lúc.
<b>Về câu chữ: người ta thường thích đổi mới ý nghĩa của từ ngữ, nhất là lớp thanh thiếu niên </b>
trong đó nhân vật nào đó gọi Chu Văn An rằng “Thưa bác sĩ…” thì hẳn nhiều người xem sẽ
tưởng ơng Chu Văn An là thầy thuốc!
<i>Sách Đại Việt Sử Ký Tồn Thư có chép năm Bính Ngọ (1006) vua Lê Ngọa Triều ban lệnh “sửa </i>
đổi quan chế và triều phục của các quan… theo đúng như người Tống”, Kiều Thanh Tùng cho
rằng nên hiểu câu này theo nghĩa là giống về phân cấp, về thứ bậc thôi: thí dụ chia các quan chức
thành chín bậc (từ nhất phẩm đến cửu phẩm), chia chính phủ thành sáu bộ… mỗi phẩm cấp, mỗi
ban ngành một màu áo, một kiểu đai thắt lưng khác nhau chứ không phải là mỗi ông quan Việt
mặc áo giống một ông quan Tống. Ai lại bắt chước như trẻ con thế! Vả lại khí hậu ta cũng khơng
hợp với quần áo Tống. Mà ông vua Ngọa Triều này thường làm nhiều điều bậy bạ, lệnh của ông
ta chắc chỉ có hiệu lực vài năm thơi vì Ngọa Triều chỉ làm vua có bốn năm. Áo quần của vua
quan có mục đích là tạo sự thán phục của dân, của cấp dưới. Nếu dân hâm mộ kiểu Hán thì vua
quan sẽ mặc theo kiểu Hán. Nếu dân chê là “bắt chước Tàu” thì vua quan sẽ đổi kiểu khác. Cung
điện cũng vậy, không nhất thiết phải giống Trung Quốc vì người xưa có thể học theo kiểu Chiêm
Thành, kiểu Xiêm hay Tây vực (Ấn Độ, Tây Á), hoặc tạo kiểu riêng của mình.
<b>Về thành trì, cung điện: Kiều Thanh Tùng cho rằng cung điện của Đại Việt nhỏ nhắn hơn nhưng</b>
lộng lẫy hơn cung điện Trung Quốc: “Sử chép cung điện của Lê Đại Hành lấy bạc đúc thành
những viên ngói, lấy vàng dát thành tấm ốp cho các cây cột, còn sừng tê giác, ngà voi lớn, kỳ
<i><b>Đàn Xã Tắc: Sắc đẹp khuynh thành - Trần thị miêu tả Đàn Xã Tắc là nơi thờ trời đất và phối thờ </b></i>
cả mẫu Âu Cơ nữa. Thời Âu Cơ phụ nữ hay cởi trần nên khi làm lễ cầu mưa ở Đàn Xã Tắc có các
cơ gái cởi trần nhảy múa.
<i><b>Sự nhảy múa: Trong tiểu thuyết Sắc đẹp khuynh thành - Trần thị, người Việt thường nhảy múa </b></i>
<i><b>Về tơn giáo: Đây là điều đáng nói nhất vì nó ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực khác. Trong Sắc </b></i>
<i>đẹp khuynh thành - Trần thị, Phật giáo khi ấy là quốc đạo. Kiều Thanh Tùng nói, sử chép rằng số </i>
phận các triều đại Đinh, Lý, Trần đã được các nhà sư tiên liệu trước. Ngày ấy các nhà sư rất giỏi.
Đức Thái tổ Lý Cơng Uẩn là học trị của sư Vạn Hạnh. Vạn Hạnh đánh giá tình trạng nước Việt
khi ấy, cho rằng Lý Cơng Uẩn có thể và cần phải lên ngơi vua thay họ Lê, từ đó Lý Cơng Uẩn có
ý định làm vua. Các vua Lý, vua Trần xây không biết bao nhiêu chùa, đúc không biết bao nhiêu
chuông và tượng Phật. Sử gia Lê Văn Hưu nói các vua Lý “xây tháp cao ngất trời, điện thờ Phật,
chùa cột đá… lộng lẫy hơn cả cung vua”, có khi “quá nửa dân chúng đi làm sư sãi”, hịa thượng
quốc sư thì cùng xử kiện với quan tể tướng.