Tải bản đầy đủ (.pptx) (40 trang)

SEMINAR (CHUYÊN đề BỆNH nội KHOA THÚ y) HEN PHỨC hợp TRÊN gà (BỆNH ORT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 40 trang )

BỆNH ORT
HEN PHỨC HỢP TRÊN GÀ


MỤC LỤC:

I.
II.
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

ĐẶT VẤN ĐỀ
NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ BỆNH
Đặc điểm chung.
Nguyên nhân gây bệnh
Cơ chế sinh bệnh
Triệu chứng
Bệnh tích
Chẩn đốn bệnh
Biện pháp phòng trị bệnh


I. ĐẶT VẤN ĐỀ.




 Chăn ni gia cầm, đặc biệt là chăn ni gà ngày càng phát triển, kèm theo đó là



Bệnh Ornithobacterium là một bệnh nhiễm trùng của gà và gà tây gây ra do vi
khuẩn Ornithobacterium rhinotracheale (ORT).

diễn biến phức tạp của dịch bệnh, ảnh hưởng không nhỏ đến người chăn nuôi. Dù
đã “nổi tiếng” ở Việt Nam từ 4 năm trước, nhưng ORT vẫn chưa có xu hướng “hết
hot” đối với các trang trại.




Mức độ nghiêm trọng của bệnh phụ thuộc vào khả năng gây bệnh của các chủng vi
khuẩn và các virus, vi khuẩn kế phát , các vấn đề thơng gió, độ tuổi bị nhiễm bệnh
và đặc biệt là thời gian can thiệp chữa trị có kịp thời hay khơng cùng với đó là việc
dùng thuốc đúng và phù hợp…

II. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ BỆNH.

1. Đặc điểm chung.
•. Bệnh ORT trên gà là một bệnh hơ hấp cấp tính do vi khuẩn có tên là

Ornithobacterium rhinotracheale gây ra. Vi khuẩn tác động trực tiếp lên đường hô
hấp và phổi với các biểu hiện điển hình như gà khó thở, khẹc, ngáp, ho, chảy nước
mắt mũi, phổi viêm có mủ và bã đậu hình ống.  





Điều trị bằng các thuốc kháng sinh thông thường như: Tylosin, Cephacilin, Enrocin…
bệnh có giảm nhưng khơng đáng kể.



Bệnh thường xảy ra vào mùa xuân, mùa hè và thời điểm giao mùa, khi độ ẩm khơng
khí tăng cao. Gà thịt thường mắc lúc 3 – 6 tuần, các loại gà khác thường từ 6 tuần
tuổi trở lên. Tỷ lệ nhiễm bệnh cao từ 50 – 100% nhưng tỷ lệ chết và loại thải thấp 5 –
20%.




Vi khuẩn này có thể sống ký sinh trên gà và ngồi mơi trường, khả năng lây lan
nhanh. Mức độ nghiêm trọng của bệnh phụ thuộc vào khả năng gây bệnh của các
chủng vi khuẩn, virus kế phát, các vấn đề về điều kiện chăm sóc, ni dưỡng cũng
như việc can thiệp chữa trị, dùng thuốc có đúng, kịp thời hay không .


2. Nguyên nhân gây bệnh.
 

+ Do Ornithobacterium rhinotracheale là một vi khuẩn
âm, hình que. Trước năm 1994, vi khuẩn 
được đặt tên giống như là Pasteurella, Kingella hoặc 
Pleomorphic Gram Negative  Rod ( PGNR ). Hiện 
nay các loại vi khuẩn thường được gọi là ORT. 

gram



+ O. rhinotracheale có thể gây bệnh cấp tính ở gia cầm. Gây hiện tượng nhiễm trùng
đường hô hấp rất nặng ở gà và gà tây.
O. rhinotracheale đã được phân lập từ nhiều lồi 
như:gà,chim đa đa, vịt, ngỗng, mịng biển, đà điểu,
chim trĩ, chim bồ câu, chim cút và gà tây.


3. Cơ chế sinh bệnh.



Bệnh ORT có thể gặp trên gà, gà tây ở mọi lứa tuổi, hay gặp nhất là ở lứa tuổi gà
giò và gà lớn. Gà thịt thường mắc lúc 3 - 6 tuần, các loại gà khác thường từ 6 tuần
tuổi trở lên.



Ở gà bệnh, vi khuẩn Ornithobacterium rhinotracheale thường có trong phổi:Túi khí,
chất tiết của đường hô hấp như nước mũi, nước mắt. Dịch nhầy khí quản và đặc
biệt có nhiều trong cục mủ ở hai phế quản gốc.






Bệnh lây truyền từ gà bệnh cho gà khỏe qua tiếp xúc trực tiếp. Gà bệnh hắt hơi
làm chất tiết đường hơ hấp chứa mầm bệnh bắn ra ngồi khơng khí, từ đó lây

cho gà khỏe bằng đường hít thở. Ngồi ra, con đường lan truyền bằng gió,
dụng cụ chăn nuôi, xe vận chuyển, động vật mang mầm bệnh và con người
cũng đóng vai trị lớn trong sự truyền lây của bệnh ORT.
Vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể gà chủ yếu qua đường hô hấp, sinh sôi và phát
triển ở niêm mạc đường hơ hấp sau đó đến cư trú ở cơ quan đích là phổi, hai
phế quản gốc và gây nên bệnh tích đặc trưng của bệnh ORT ở đó .




Ở những vùng chăn ni gà tập trung theo hình thức công nghiệp, môi trường bị ô
nhiễm (mùi phân, độ thơng thống kém…) hay ni gà nhiều độ tuổi khác nhau trong
cùng một khu vực luôn là điều kiện lý tưởng cho bệnh ORT bùng phát và lây lan với
tốc độ nhanh.


4. Triệu chứng.
– Gà khó thở, rướn cổ thở, ngáp gió, ho, lắc đầu, vẩy mỏ, khẹc, …


- Gà sốt rất cao, ủ rũ, giảm ăn.


– Chảy nước mắt mũi, sưng mặt.


– Có thể tiêu chảy, có dịch viêm trên nền chuồng.


– Chết trong trạng thái “ngã ngửa” (xác chết béo).



- Gà đẻ: sụt đẻ, đẻ non, vỏ trứng mỏng.
- Bệnh phát sinh từ từ theo từng ô chuồng chứ khơng xẩy ra ồ ạt.
- Thể bệnh mãn tính âm thầm: nhiều gà còi cọc, chậm lớn, tiêu tốn thức ăn tăng cao, giá
thành sản xuất tăng.
- Thể bệnh cấp tính hơn: gây chết lên tới 30% trở lên.


5. Bệnh tích.
– Bên. trong khí quản, 2 phế quản chính và phổi có bã đậu, mủ, dịch mủ.


Bã đậu hình ống


– Túi khí viêm có bọt khí, có thể có mủ màu vàng; Có màng ở túi khí, màng gan, màng
tim.


Túi khí viêm có bọt khí, có mủ màu vàng


– Phổi bị viêm hóa mủ tập trung hoặc rải rác trên bề mặt.


- Khí quản (cuống họng) gần như khơng xuất huyết hoặc có xuất huyết ít. Niêm mạc
khơ, ít nhầy.
- Vì sốt cao → xuất huyết mỡ vành tim, xoang bao tim tích nước (khơng điển hình).



Phân biệt bệnh ORT trên gà với ILT và IB:



Bệnh ORT:
– Triệu chứng: gà bị ngạt thở, khó thở nhưng không biểu hiện thành chu kỳ, không

thành từng cơn như ILT mà gà ngáp liên tục và thường xuyên khó thở.
– Bệnh tích: 
+ Bã đậu hình ống chứ khơng vón cục như ILT.
+ vị trí bã đậu: trong phổi, trong 2 ống phế quản chính và trong lịng khí quản (gà ho
đẩy bã đậu từ dưới lên ống khí quản).
+ Khí quản bình thường hoặc xung huyết nhẹ.
Điển hình của ORT: bã đậu hình ống trong phổi và 2 phế quản chính.




Bệnh ILT (viêm thanh khí quản truyền nhiễm):
– Triệu chứng: khó thở, ngạt thở theo chu kỳ: nghĩa là khi khó thở, gà tím mào, há mồm,

rướn dài cổ và khạc khạc ra đờm, thi thoảng có lẫn máu trong đờm. sau khi khạc đờm thì
gà rùng mình, vẩy mỏ và mào tích lẫn lơng lá trở lại bình thường (khơng tím tái).
– Bệnh tích:
+ Bã đậu vón cục.
+ Vị trí bã đậu: ngã 3 thanh khí quản hoặc có thể bị trơi xuống khí quản.
Như vậy: nếu thấy bã đậu có trong khí quản, ta nên dựa vào hình dạng của bã đậu (hình
ống hay vón cục) để xác định nguyên nhân gây bệnh là ORT hay ILT.



×