TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƠNG LÂM
CHUN ĐỀ: BỆNH LỞ
MỒM LONG MĨNG
I. LỊCH SỬ ĐỊA DƯ CỦA BỆNH NỞ MỒM LONG
MÓNG.
*Trên thế giới:
Năm 1897, Friedrich Loeffler đã phát hiện bệnh lở mồm long móng
đầu tiên do virus gây ra. Cho đến nay, người ta đã xác định có 7
dạng virus gây bệnh gồm các dạng A, O, C, SAT1, SAT2, SAT3 và
Asia1. Ở vùng Đông Nam Á chủ yếu là 3 dạng A, O và Asia1.
-Dịch bệnh lở mồm long móng đã xảy ra ở nhiều châu lục như châu
Á, châu Phi, châu Âu và châu Mĩ.
-Ở châu Âu, bệnh đã bùng phát tại Anh, Hà Lan và Pháp vào
năm 2001. Hàng triệu gia súc bị thiêu hủy gây tổn thất lớn cho
ngành chăn ni nói riêng và nền kinh tế các quốc gia này nói
chung.
-Cùng năm đó, dịch cũng đã xảy ra tại Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài
Loan . Đến cuối năm 2003, dịch xảy ra ở vùng Đông Nam Á (Thái
Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam). Một năm sau, dịch lan
tới Trung Quốc, Nga, Mông Cổ và tiếp tục ở Myanma.
-Trong 2 năm 2005 và 2006, dịch tràn tới Nam Mỹ ở các quốc gia
như Brasil, Argentina và Paraquay cũng như ở châu Phi (Nam Phi).
*Tại Việt Nam:
-Năm 2006 là năm bệnh dịch lở mồm long móng xảy ra rất mạnh ở
hầu hết các tỉnh thành của Việt Nam với hàng chục nghìn gia sục bị
nhiễm bệnh.
-Tuy nhiên, do điều kiện cũng như ý thức của người dân, trình độ và
sự thiếu trách nhiệm của cán bộ thú y và chính quyền địa phương mà
dịch bệnh khơng thể khống chế dễ dàng.
-Một số nơi, còn sử dụng các con vật đã chết làm thức ăn.
(Nguồn: />%93m_long_m%C3%B3ng)
II. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH.
-Bệnh lở mồm, long móng gia súc (LMLM) là bệnh truyền nhiễm, lây
lan nhanh, gây ra bởi 1 trong 7 type vi rút: Type A, O, C, Asia1, SAT1,
SAT2, SAT3, với hơn 60 phân type.
-Bệnh LMLM lây lan qua đường tiếp xúc giữa động vật khoẻ với
động vật, sản phẩm động vật, thức ăn, nước uống, khơng khí, chất
thải, dụng cụ, phương tiện vận chuyển, có măng mầm bệnh.
-Bệnh lây lan từ vùng này sang vùng khác, tỉnh này sang tỉnh khác,
nước này sang nước khác theo đường vận chuyển động vật, sản
phẩm động vật ở dạng tươi sống (kể cả thịt ướp đông, da, xương,
sừng, móng, sữa, lơng,..)
-Động vật mắc bệnh LMLM là các loài động vật có móng guốc
chẵn như: trâu, bị, lợn, dê, cừu, hưu, nai,...
Nguồn: />s/65/Default.aspx
III DỊCH TỄ HỌC.
1. Loài mắc bệnh.
-Trong tự nhiên: virus gây bệnh chủ yếu cho: trâu, bị, dê, cừu, lợn...
-Lồi vật ăn thịt ít bị mắc bệnh và thường ở thể nhẹ
-Động vật guốc lẻ như: ngựa, lừa, la không bị mắc bệnh.
2. Phương thức truyền lây.
-Virus xâm nhập vào cơ thể động vật qua đường tiêu hóa là chủ yếu, các
chất ô nhiễm virus được súc vật ăn phải, sẽ qua niêm mạc miệng mà xâm
nhập.
-Virus cũng xâm nhập vào cơ thể qua các vế thương qua da, nhất là da
vùng vú.
-Niêm mạc đường hô hấp và đường sinh dục cũng là nơi virus có thể xâm
nhập. Ở con cái có chửa, virus vào bào thai và gây xảy thai.
3. Cơ chế sinh bệnh.
-Thời gian nung bệnh trung bình 2-4 ngày, đôi khi kéo dài đến 7
ngày.
-Đầu tiên virus xâm nhập vào cơ thể qua niêm mạc miệng, niêm
mạc ống tiêu hoá, qua thức ăn, nước uống… hoặc các vết trầy ở bên
ngoài cơ thể.
-Virus sẽ nhân lên tại các vị trí xâm nhập ở lớp thượng bì của
miệng, niêm mạc ống tiêu hoá, da, tạo nên mụn nước sơ cấp,
thường các mụn nước này ít và ở giai đoạn đó thú vẫn sinh hoạt
bình thường, do đó dễ dàng bị bỏ qua không phát hiện được .
-Sau 1-2 ngày virus từ mụn nước sơ phát xâm nhập vào máu và phủ
tạng, tạo nên triệu chứng sốt cao.
-Tuy nhiên, máu và phủ tạng không phải là nơi thích hợp cho sự
phát triển, do đó virus quay ngược trở về các vị trí trên cơ thể có
vùng thượng bì non như mơi, nướu răng, lưỡi, gờ móng, đầu vú để
phát triển, tạo các mụn nước thứ cấp.
-Đặc điểm mụn nước chỉ mọc ở phần thượng bì, khơng ăn sâu vào
lớp trung bì và hạ bì, do đó sau khi mụn nước vở sẽ rất mau lành
lại, và ít gây nhiễm trùng thành mụn mủ nếu được chăm sóc tốt.
-Mụn mọc ở miệng, lưỡi gây cảm giác đau nhức làm thú khơng nuốt
được, nước bọt bị kích thích chảy ra đầy ở miệng. Heo con, bê nghé
bỏ bú do đó sẽ chết sau vài ngày mắc bệnh.
-Mụn nước ở móng chân thường bị nhiễm trùng do thú đi đứng
trong phân, đất, vi trùng phụ nhiễm sẽ tấn công sâu vào các lớp bên
dưới gây hư hại nặng tổ chức da ở gờ móng, làm móng dễ bị bong
tróc.
- Virus có thể tạo các mụn nước ở khí quản, phế quản hoặc tấn công
vào cơ tim kéo theo sự phụ nhiễm của vi khuẩn Staphylococcus, tạo
nên các thể viêm cơ tim, thoái hoá cơ tim làm gia súc chết ngộp.
IV. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG.
1. Thể nhẹ.
- Con vật ủ rũ, dáng điệu rất mệt, sốt cao liên tục 2-3 ngày.
- Kém ăn, hoặc ăn rất khó khăn, nước bọt bắt đầu chảy ở góc
miệng.
- Sau 2-3 ngày kể từ khi mắc bệnh, mụn nước bắt đầu hình thành ở
quanh mũi, niêm mạc họng, lưỡi, lợi răng, môi, đầu vú hoặc quanh
đầu vú. Mụn nước cũng mọc ở gờ móng, kẻ móng, vùng này nhanh
chóng bị nhiễm trùng do đó sẽ tạo các chỗ lở lt làm hư móng, tốt
móng.
- Trên heo con cịn bú mẹ, bê nghé ngồi triệu chứng sốt cao, có thể
tiêu chảy và chết đột ngột trước khi xuất hiện mụn nước ở thượng
bì.
- Thơng thường các mụn nước ở miệng ít bị nhiễm trùng, do đó sau
khi mụn vỡ chừng vài ngày sẽ kéo da non và lành.
-Trong một ca bệnh sau khi các mụn ban đầu vỡ, thì các mụn nước
khác lại xuất hiện.
- Do đó thường bệnh tích ở miệng sẽ kéo dài ít nhất 1 tuần, và sau
khi khỏi bệnh 1 tuần thì nước bọt khơng cịn chứa virus.
2. Thể nặng.
-Con vật thể hiện viêm cấp tính: ỉa chảy nặng, xuất huyết đường tiêu hóa
làm cho con vật chết trong 2 – 3 ngày.
-Bệnh cũng gây viêm phế quản và viêm phổi cấp làm cho bê nghé chết sau
2 – 3 ngày.
-Bê dưới 6 tháng tuổi có thể chết đột ngột do viêm cơ tim.
3. BỆNH Ở ĐỘNG VẬT KHÁC.
3.1: Bệnh ở lợn.
-Thời gian nung bệnh từ 2 đến 12 ngày. Lợn bệnh thể hiện triệu chứng lân
sàng và bệnh tích ở miệng và móng chân. Ở nước ta, lợn thường bị lây
bệnh từ bò nhốt chúng chuồng, lợn sốt cao, kém ăn hoặc bỏ ăn, thở nhiều.
-Triệu chứng ở chân nặng hơn ở trâu bò, con vật co biểu hiện què, đi khập
khiễng.
-Trường hợp bị bệnh nặng do nhiễm tạp khuẩn, lợn có thể bị loét móng và
long móng.
3.2: Bệnh ở dê, cừu.
-Dê cừu mắc bệnh nhẹ. Mụn nước mọc ở miệng rất nhỏ, mất đi nhanh,
nhiều khi khơng biết. Mụn ở chân giống như ở bị, vỡ loét ra, làm cho con
vật đau đớn, đi lại khó khăn và có thể làm long móng.
V. BỆNH TÍCH.
-Cơ tim biến chất, mềm, dễ nát, có vết trắng xám nhạt hay vàng nhạt. Màng
bao tim sưng to, trong chứa dịch vàng. Tâm nhĩ có lốm đốm xuất hiện từng
mảng. Bệnh tích ở tim thường thấy ở con vật mắc bệnh thể nặng.
-Viêm khí quản, cuống phổi, màng phổi và viêm phổi.
-Mụn nước mọc ở kẽ móng, xung quanh móng và dễ làm long móng. Các
trường hợp vật bị biến chứng nhiễm khuẩn, thường chân móng bị thối loét
và viêm khớp.
VI. CHẨN ĐOÁN.
-Dựa vào tiền sử của bệnh trong trại, các triệu chứng lâm sàng, kết quả
phân lập virus và huyết thanh học.
-Những mụn nước xuất hiện đầu tiên ở xoang miệng ngay trong vòng 24h
sau khi nhiễm Virus, sau đó ở các vành móng, miệng và trên đầu núm vú.
-Bệnh tích thể hiện ở chân, miệng và mũi, lưỡi.
-Viêm cơ tim có thể nhìn thấy trên heo con sau khi chết.
-Virus từ mụn nước được xác định bằng phương pháp nuôi cấy mô, PCR,
ELISA, và cấy truyền cho động vật thí nghiệm.
-Có thể sử dụng phương pháp ELISA để xác định kháng thể do vaccine
hay do nhiễm virus tự nhiên.
VII. PHỊNG BỆNH.
-Bệnh LMLM có thể hạn chế được thiệt hại đáng kể bằng các biện
pháp vệ sinh phòng dịch, kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật,
tiêm phòng vắcxin.
- Tăng cường công tác tuyên truyền để mọi người hiểu biết về
nguyên nhân, triệu chứng, tác hại và cách phòng, chống bệnh bệnh
LMLM.
- Thực hiện tiêm phòng vắcxin, nhất là vùng khống chế, vùng đệm,
vùng có dịch xảy ra trong vòng 2 năm gần đây.
-Thực hiện tiêm phòng hai lần trong một năm, lần thứ nhất cách lần
thứ hai 6 tháng, lần thứ nhất nên tiêm vào tháng 3 - 4 trong năm, lần
thứ hai nên tiêm vào tháng 9 - 10 trong năm.
- Vận động mọi người chăn nuôi gia súc cam kết thực hiện “5
không”: không dấu dịch; không mua gia súc, sản phẩm gia súc mắc
bệnh; không bán chạy gia súc mắc bệnh; không thả rông gia súc,
không vận chuyển gia súc bị bệnh ra khỏi vùng dịch; không vứt xác
gia súc bừa bãi ra môi trường.
- Cách ly triệt để gia súc ốm, không cho chăn thả tập trung; thường
xuyên thực hiện vệ sinh chuồng trại, bãi chăn thả, dụng cụ chăn
ni, phương tiện vận chuyển, diệt lồi gậm nhấm,...
-Thực hiện tiêu độc, khử trùng khu vực có gia súc bị ốm, chết. Có
thể dùng một trong các hố chất sau để tiêu độc, khử trùng: Formol
2%, NaOH 2%, Crezin 5%, nước vôi 20%, vôi bột và một số hoá
chất khác được sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất, cán bộ
thú y.
-Con giống đưa vào chăn nuôi phải khoẻ mạnh, có nguồn gốc rõ
ràng, đã được tiêm phịng LMLM.
-Trước khi nhập đàn phải được ni cách ly 21 ngày. Thức ăn, nước
uống dùng trong chăn nuôi phải đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh thú y.
-Người vào thăm quan, nhân viên thú y,... trước khi ra, vào khu vực
chăn nuôi phải phải được vệ sinh, khử trùng và trang bị bảo hộ.
-Thực hiện kiểm dịch động vật nghiêm ngặt để khỏi bị lây lan theo
địa lý.
-Khi phát hiện có dịch phải cơng bố dịch theo qui định và thực hiện
các biện pháp hành chính, kỹ thuật kịp thời, triệt để nhằm ngăn
chặn sự lây lan.
VIII. ĐIỀU TRỊ.
-Vi rút LMLM dễ bị bởi ánh nắng mặt trời, nhiệt độ cao (như nước
đun sôi 100oC), các chất có độ toan cao như quả khế chua (pH ³ 3)
và các chất kiềm mạnh như xút (pH ³ 9).
-Vi rút có thể sống nhiều ngày trong chất thải hữu cơ ở chuồng
ni, các chất có độ kiềm nhẹ (pH từ 7,2 - 7,8); trong thịt ướp đông
vi rút có thể sống trong nhiều tháng.
-Khi bị nhiễm bệnh LMLM, nếu không được điều trị kịp thời, gia
súc non thường bị chết ở tỷ lệ từ 20 – 50%, gia súc trưởng thành
thường bị chết từ 2 – 5%, tỷ lệ mắc bệnh trong một đàn thường là
100%.