Môn học: Bệnh Nội Khoa Thú Y
Chuyên Đề:
Bệnh Đậu Gà
Mục Lục
I. Đặt Vấn Đề
II. Nội Dung Nghiên Cứu
1, Nguyên nhân gây bệnh
3, Cơ chế sinh bệnh
4, Triệu chứng lâm sàng
5, Bệnh tích
6, Chuẩn đốn bệnh
7, Biện pháp phịng bệnh
8, Điều trị bệnh
III. Kết Luận.
I. Đặt Vấn Đề
Bệnh đậu gà (Fowl pox) là một bệnh truyền nhiễm do virus gây nên phổ biến trên
gà từ 25-50 ngày tuổi với các biểu hiện đặc trưng là ở các niêm mạc mắt, miệng mọc
mụn “bâu”, mụn chín chảy mủ làm loét các niêm mạc, bệnh nặng biến chứng làm
mù mắt, tiêu chảy, viêm phổi, giảm tăng trọng, tăng tỷ lệ chết trong đàn.
II. Nội Dung Nghiên Cứu
1, Nguyên nhân gây bệnh
-
Bệnh do virus thuộc giống Avipoxvirus gây ra,
Là một bệnh truyền nhiễm mạnh ở gà và các loài cầm hoang dã
Avipoxvirus là một giống thuộc họ Poxviridae. Các virus trong họ Poxviridae là
virus mang nhân ADN sợi đôi.
2, Truyền nhiễm học
-
Tính đặc trưng trên lồi giống: Virus đậu có tính đặc hiệu cho mỗi loài thú và
ngay cả mỗi chi trong cùng một lồi
Virus đậu gây bệnh trên người, bị, dê, cừu, hay gia cầm đều khác nhau và chúng
không gây bệnh trên loài khác
Đối với gia cầm, mỗi typ virus đậu chỉ gây bệnh cho 1 loại gia cầm, rất hiếm khi
typ virus này gây bệnh cho loại gia cầm kia.
-
Đối tượng mẫn cảm: Thủy cầm không bị bệnh đậu. Các gia cầm khác cũng không
lây bệnh đậu từ gà, bồ câu, gà tây.
Trong các loại gia cầm thì gà tây mẫn cảm nhất và dễ bị nhiễm bệnh nhất, sau đó
là gà nhà.
Đường truyền lây: Virus đậu khơng truyền dọc (qua phôi) mà chỉ truyền ngang
từ gà này sang gà khác qua đường miệng và hô hấp hoặc do côn trùng hút máu
mang mầm bệnh đến.
-
Bệnh xảy ra nhiều ở các nước có khí hậu nhiệt đới hơn các nước vùng ôn đới và
hàn đới.
Ở nước ta bệnh đậu gà xảy ra quanh năm, nhưng dễ phát và nặng nhất vào mùa
đông xuân hoặc cuối xuân đầu hè khi thời tiết khô hanh.
Bệnh xảy ra ở gà mọi lứa tuổi nhưng nặng nhất và hay gặp nhất là ở gà con 1 - 3
tháng tuổi.
3, Cơ chế sinh bệnh
-
Virus lây lan qua đường miệng hoặc đường hô hấp hoặc các vết xước trên da
virus xâm nhập vào các tế bào biểu bì và sinh sản rất nhanh, kích thích sự tăng
trưởng của tế bào biểu bì, từ đó tạo thành nốt đậu.
- Sau một thời gian ngắn các tế bào biểu bì đã nhiễm virus sẽ thối hóa, thối rữa,
hoặc bong tróc sau khi đã hóa sừng tạo thành vảy màu nâu nhạt hoặc nâu đen.
-
Những tổn thương ở niêm mạc vùng miệng cũng thể hiện tương tự như ở trên
da, chỉ khác là không tạo thành vẩy nâu.
-
Các vết loét vùng họng tạo thuận lợi cho các nhiễm trùng thứ phát gây viêm
họng có màng làm cho bệnh nặng lên rất nhiều và gây chết gà.
4, Triệu chứng lâm sàng
Thể ngoài da:
- Mụn đậu thường hình thành ngồi da tại những vùng da khơng lơng như mào,
tích, kh mắt, kh miệng, mặt trong cánh, quanh hậu môn và da chân.
- Lúc đầu là những nốt sần nhỏ, có màu nâu xám hay xám đỏ, sau đó to dần như hạt
đậu, sần sùi.
-
Nốt đậu mọc ở mắt làm gà khó nhìn, viêm kết mạc mắt, chảy nước mắt, nước
mũi, làm gà khó thở.
-
Nếu bệnh nặng thì các nốt đậu mọc dày liền dính với nhau thành cục lớn, tảng
nhăn nheo lớn gây mù mắt.
nVi mào gà giống White Plymouth Rock
Virus Đậu gà gâ y nốt mụn do bội triển tế bào trên
NnNhững vùng không lông xuất hiện mụn đậu ( mào gà)
Xuất hiện mụn đậu ở rìa mỏ của gà
- Nốt đậu từ từ chuyển sang màu vàng, mềm, vỡ ra có chất mủ giống như kem.
- Mụn đậu khơ đóng vảy, vảy màu nâu sẫm rồi dần dần tróc đi để lại nốt sẹo nhỏ
màu vàng xám, mụn đậu lành nhanh chóng.
Virus
Virus Đậu
Đậu gà
gà gây
gây bội
bội triển
triển biểu
biểu bì
bì và
và nang
nang lông
lông trên
trên da
da vùng
vùng đùi
đùi
Thể niêm mạc (yết hầu)
- Thường xảy ra trên gà con. Gà có biểu hiện khó thở, biếng ăn do niêm mạc hầu
và họng bị đau
-
Gà sốt, từ miệng chảy ra nước nhờn có lẫn mủ, màng giả
Trong niêm mạc hầu họng, khoé miệng, thanh quản phủ lớp màng giả màu trắng
Khi lớp màng giả tróc đi thấy lớp niêm mạc màu đỏ. Sau đó là q trình viêm lan
ra ở mũi và mắt.
Thể hỗn hợp
- Triệu chứng bệnh bao hàm cả thể ngoài da và yết hầu, thường xảy ra trên gà con.
- Thông thường thể đậu hỗn hợp này gây chết gà khá cao 5 – 10% trên tổng đàn,
có khi bị bệnh kế phát tỷ lệ chết còn cao hơn nhiều 20 – 25%.
Thể hỗn hợp xảy ra ở gà
-
Ngoài ra, cũng xảy ra thể nhiễm trùng huyết: Con vật khơng có bệnh tích ở da,
chỉ sốt cao, bỏ ăn, tiêu chảy, thể trạng sa sút nghiêm trọng.
Bệnh diễn biến trong 3 - 4 tuần, phần đông gia cầm vẫn có thể lành bệnh. Nhưng
nếu vệ sinh khơng tốt thì có nguy cơ cao về viêm nhiễm kế phát của các vi trùng
cơ hội làm bệnh sẽ nặng hơn, tỉ lệ chết có thể đến 50%.
5, Bệnh tích
-
Gà ốm gầy, nổi mụn đậu trên da, viêm cata ở niêm mạc miệng, thanh quản.
Các vết viêm này loang dần thành các nốt phồng, dày dần lên, cuối cùng tạo
thành lớp màng giả dính chặt vào niêm mạc.
-
Niêm mạc ruột có thể tụ máu đỏ từng đám. Phổi tụ máu và tích nước. Khí quản
chứa nhiều dịch xuất lẫn bọt.
Gà gầy gọc, chậm lớn