Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

Động từ nói năng trong thơ TRẦN ĐĂNG KHOA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.62 KB, 57 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài Động từ nói năng trong thơ Trần Đăng Khoa viết
cho thiếu nhi qua tập thơ Góc sân và khoảng trời và tồn bộ nội dung khóa luận
khơng phải là sự sao chép bất cứ một cơng trình khoa học hay khóa luận nào đã
được cơng bố trong và ngồi nước. Nếu có sai phạm nào, tơi xin hồn tồn chịu
mọi trách nhiệm.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày

tháng 6 năm 2020

Tác giả khóa luận


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành được khóa luận này, người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành
tới thầy, cô giáo trong khoa Giáo dục Tiểu học, trường Đại học Hồng Đức đã tạo
điều kiện cho sinh viên làm khóa luận. Đặc biệt, người viết xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc nhất tới GVHD Lê Thu Bình – người đã tận tình giúp đỡ sinh viên trong suốt
quá trình thực hiện đề tài. Đồng thời, người viết cũng xin phép gửi lời cảm ơn tới
cán bộ trong thư viện trường Đại học Hồng Đức và cán bộ thư viện tỉnh Thanh
Hóa, đã cung cấp nguồn tư liệu bổ ích trong q trình người viết làm đề tài. Mặc
dù đã có nhiều nỗ lực song khóa luận khơng tránh khỏi những thiếu sót, kính mong
nhận được sự góp ý từ q thầy cơ để đề tài nghiên cứu này được hồn thiện hơn.
Tác giả khóa luận


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài



Một trong những phương diện quan trọng cấu thành hình tượng nhân vật là
hành vi ngơn ngữ của nhân vật đó. Đối với diễn ngơn truyện kể, người đọc có thể
hình dung hành vi ngơn ngữ của nhân vật qua lời người kể chuyện, qua phát ngơn
của chính nhân vật hoặc qua lời của một nhân vật khác, trong đó thường bao gồm
các từ ngữ chỉ hoạt động nói năng. Nó góp phần tạo nên những giá trị nghệ thuật
trong các tác phẩm văn học.
Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại so với “văn học
người lớn” thì văn học thiếu nhi hình thành một cách thầm lặng ít được người ta
quan tâm đến. Tuy vậy bộ phận văn học này đã không bỏ cuộc mà đã tự thân phấn
đấu vươn lên ngày một phong phú đa dạng và được đánh giá là một bộ phận quan
trọng của nền văn học dân tộc. Bơ phận văn học này có sự đóng góp của các bút
danh đầy tâm huyết như: Nguyễn Huy Tưởng, Tơ Hồi, Đồn Giỏi, Phạm Hổ, Trần
Đăng Khoa, Xn Quỳnh…. Họ viết cho các em với tình yêu thương sự đồng cảm
và trên hết muốn cung cấp cho các em những câu chuyện những vần thơ bổ ích mà
giá trị nhận thức và giáo dục cao. Các sáng tác viết cho thiếu nhi đã trở thành
nguồn cảm hứng dồi dào của nhiều tác giả, có những tác phẩm thơ được viết cho
thiếu nhi được các em nhỏ yêu thích như: “Những bài thơ nho nhỏ” (Phạm Hổ),
“Bầu trời trong quả trứng “(Xuân Quỳnh), “Chơi ú tim” (Phạm Hổ), “Rùa con đi
chợ” (Mai Văn Hai), “Mèo hư” (Nguyễn Lãm Thắng), “Vườn cây của ba”
(Nguyễn Duy), “Tờ lịch đỏ” (Cao Xuân Sơn)… cùng viết về đề tài thiếu nhi nhưng
mỗi nhà thơ lại có những cách thể hiện khác nhau với màu sắc, cách truyền tải
thông điệp khác nhau mang đậm phong cách riêng của từng nhà thơ. Họ viết cho
các em những câu chuyện, những vần thơ bổ ích mang giá trị nhận thức và giáo
dục cao. Đặc biệt, trong thời kì kháng chiến chống Mỹ đã xuất hiện một laotj các
em thiếu nhi làm thơ: Trần Đăng Khoa, Chu Hồng Quý, Cầm Thơ, Hoàng Hiếu
Nhân,... nhưng tiêu biểu nhất là Trần Đăng Khoa.


Tập thơ Góc sân và khoảng trời đã nhận được khơng ít ý kiến đánh giá, phê

bình, nhưng hầu hết các tác giả đều khen ngợi về nội dung và nghệ thuật thơ Trần
Đăng Khoa cũng như tài năng thiên bẩm của ơng. Chính vì vậy, với đề tài “Động
từ nói năng trong thơ Trần Đăng Khoa viết cho thiếu nhi qua tập thơ Góc sân và
khoảng trời”, chúng tơi sẽ góp phần có cái nhìn mới về thơ thiếu nhi của Trần
Đăng Khoa trên phương diện từ ngữ. Từ đó, đánh giá chính xác những đóng góp
của tác giả cho bộ phận văn học thiếu nhi nói riêng và tiến trình phát triển của văn
học Việt Nam nói chung.
2. Lịch sử
2.1.
Lịch

nghiên cứu vấn đề
sử nghiên cứu động từ nói năng

Ở thời kì trước ngữ pháp chức năng, đã có những cơng trình bàn đến động từ
nói năng nhưng lúc này, động từ nói năng khơng được nhìn nhận như một nhóm
độclập mà thường bị xếp chung vào với một số nhóm động từ khác như động từ tác
động, động từ nửa tác động, động từ hành động, động từ gây khiến, động từ phát
nhận, động từ đánh giá - nhận xét, động từ ngoại hướng, động từ cảm nghĩ- nói
năng. Trong giai đoạn này, đáng chú ý có tác giả Hoàng Văn Hành, trong bài viết
Về ý nghĩa của các từ biểu thị sự nói năng trong tiếng Việt ( Tạp chí Ngơn ngữ, Hà
Nội) đã xây dựng một số tiêu chí và từ mỗi tiểu chí phân loại được một số tiểu
nhóm thuộc động từ nói năng. Như vậy, ở thời kì này, động từ nói năng chưa được
tiếp cận và xử lý như một tập hợp biệt loại, các đặc trưng ngữ nghĩa và ngữ pháp
của nó chưa được làm rõ.
Năm 2006, tác giả Nguyễn Vân Phổ trong luận văn Một số vấn đề ngữ pháp,
ngữ nghĩa của vị từ nói năng tiếng Việt đã lấy xuất phát điểm của việc nghiên cứu
là động từ nói năng và nghiên cứu nó ở phương diện cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ pháp.
Cụ thể, tác giả đặt trọng tâm vào việc tìm hiểu và xác định các khung cấu trúc ngữ
pháp – ngữ nghĩa của các nhóm vị từ nói năng dựa trên cở sở vị từ “nói”.

Tác giả Nguyễn Đức Dân trong cuốn Ngữ dụng học – NXB Giáo dục,
chương 2 – Hành vi ngôn ngữ đã chỉ ra một cách cụ thể, hệ thống kiến thức về


động từ nói năng. Tác giả đã đưa ra khái niệm về động từ nói năng cũng như cách
phân loại động từ nói năng. Hay tác giả Đỗ Hữu Châu trong Giản lược về ngữ
dụng học và Cơ sở ngữ dụng học cũng đã đưa ra những quan điểm, ý kiến riêng về
động từ nói năng.
Bên cạnh đó, trên tạp chí Ngơn ngữ, số 7 – 2009, trong bài viết Một số đặc
điểm ngữ nghĩa- ngữ dụng của nhóm vị từ biểu thị hoạt động nói năng trong tiếng
Việt, tác giả Đào Thanh Lan đã chỉ ra những đặc điểm của nhóm vị từ biểu thị hành
động khi xem xét trên các phương diện nghĩa học, dụng học và kết học. Từ đó, có
cái nhìn đa chiều về dối tượng nghiên cứu giúp cho việc tiếp cận đối tượng toàn
diện hơn để miêu tả chính xác hơn. Bài viết này đã xem xét ý nghĩa của vị từ đã
quy định khả năng kết hợp và hoạt động của nhóm vị từ nói năng trong lời nói
tiếng Việt như thế nào nhằm tìm ra đặc trưng phân biệt chúng với những nhóm vị
từ khác.
Dựa trên những cơ sở lý thuyết về động từ nói năng được các tác giả trên
nghiên cứu, có một số các tác giả đã tiếp tục tìm hiểu những đặc điểm của các động
từ nói năng trong tiếng Việt. Có thể kể đến nghiên cứu Đặc điểm của một số vị từ
biểu thị hoạt động nói năng trong các truyện thơ Nôm thế kỉ XVII- XIX của tác giả
Lê Kính Thắng và Phạm Hồng Hải. Bài viết tìm hiểu về một số đặc điểm của vị từ
nói năng trong các truyện thơ Nôm, đồng thời tập trung khảo sát đặc điểm cơ bản
của các từ “nói”, “rằng”, “hỏi”, “thưa” dựa trên cơ sở đối lập về khả năng tham
gia/ không tham gia cấu trúc chứa phát ngôn trực tiếp, có/ khơng có sắc thái biểu
cảm và tần số xuất hiện trong các văn bản khảo sát.
Hay trên báo Ngôn ngữ và đời sống, số 8 (226)- 2014, tác giả Nguyễn Thị
Hải đã có bài viết Động từ ngữ vi cầu khiến trong ca dao người Việt. Bài viết này
đề cập đến việc sử dụng động từ chỉ thị hành động cầu khiến trong thơ ca dân gian
Việt Nam. Qua nghiên cứu và phân tích, người viết đề cập đến 11 động từ chỉ hành

động cầu khiến được sử dụng nhiều trong thơ ca dân gian. Những động từ này đã


được tác giả phân tích ở nhiều khía cạnh, từ đó thấy rõ được đặc điểm của nhóm
động từ ngữ vi cầu khiến được ông cha ta sử dụng nhiều, đồng thời hiểu rõ thêm về
đặc trưng của ca dao xưa.
Hay tác giả Lê Thị Cẩm Vân trong bài viết Về các phức hợp được chuyển
nghĩa để chỉ tính chất của hoạt động nói năng trong tiếng Việt đã mơ tả đặc điểm
ngữ nghĩa của các phức hợp được chuyển nghĩa để chỉ tính chất của hoạt động nói
năng, một tiểu nhóm các ngữ vị từ được chuyển nghĩa để chỉ hoạt động nói năng
trong tiếng Việt.
2.2.

Lịch sử nghiên cứu thơ Trần Đăng Khoa

Tập thơ Góc sân và khoảng trời được viết từ năm 1966 đến 1973, in năm
1973 được rất nhiều người quan tâm. Tập thơ đã nhận được nhiều sự quan tâm của
những người yêu thơ và các nhà phê bình văn học như:
Người có cơng tìm hiểu và đưa Trần Đăng Khoa đến với bạn đọc khắp thế
giới là nhà thơ Xuân Diệu. Trần Đăng Khoa là một “hiện tượng lạ” không chỉ làm
sững sờ biết bao bạn đọc trong nước mà còn lan truyền sang nhiều nước trên thế
giới.: “Tơi đã sung sướng hướng dẫn đồn vơ tuyến truyền hình Pháp về quay
phim “Thế giới nhỏ của em Khoa” tại xã Quốc Tuấn – Hải Hưng; tơi cịn là người
đầu tiên dịch thơ Khoa ra tiếng Pháp đưa cho nữ đồng chí Madeline Riffaud
(Mađơlen Riphơ). Chị Riphô về đăng trên báo Nhân đạo của Đảng cộng sản
Pháp; sau đó tơi lại dịch ra cả tập thơ Khoa Pháp văn, từ đó giới thiệu thơ Trần
Đăng Khoa, dịch ra nhiều thứ tiếng trên nhiều thế giới. Tôi lại giúp nhà thơ Cuba
FéLix Pila Rodriguez dịch ra tiếng Tây Ban Nha, và tơi đã bình hai bài thơ
“Mưa” và “Em kể chuyện này” ở rất nhiều nơi trên miền Bắc, ở Sài Gịn và các
thành thị ở phía Nam (1975 – 1976)”.

Trong cuốn Tạp chí Văn học – số 4, tác giả Nguyễn Văn Long đã xếp thơ
Trần Đăng Khoa vào bộ phận văn học thiếu nhi từ sau Cách mạng tháng 8 năm
1945 và có những nhận xét rất hay về tập thơ Góc sân và khoảng trời cũng như về


thơ của Trần Đăng Khoa nói chung: “Anh đã viết rất nhiều, rất hay về nơng thơn
nhỏ bé của mình. đến với thơ anh, ta được sống trong bầu không khí rất riêng,
khơng khí của làng q nơng thơn Việt Nam” . Trong đó, ơng nêu lên những ý kiến
của nhà nghiên cứu phê bình Nguyễn Đăng Mạnh về “nhà thơ mục đồng” và khen
ngợi “Trần Đăng Khoa luôn cảm nhận được vẻ đẹp trong trẻo, trinh nguyên, thuần
khiết của vùng q dân dã”.
Cịn Ngơ Văn Phú thì khẳng định tài năng của Trần Đăng Khoa: “Có lẽ cịn
lâu mới lại có một thần đồng 8 tuổi lại thành một nhà thơ để lại được sự nghiệp
trong nền thơ Việt Nam như Trần Đăng Khoa”. Và bày tỏ sự thích thú đối với một
“hiện tượng lạ” chưa từng có trong lịch sử văn học nước nhà: “Thật sung sướng
cho một nhà thơ được mãi mãi hồn nhiên và đẹp với một hồn thơ từ 8, 9 tuổi”…
Trần Đăng Xuyền đã chỉ ra những nhân tố góp phần làm nên hồn thơ cũng
như một và đặc điểm trong cái nhìn của Trần Đăng Khoa: nhân tố gia đình, cảnh
sắc thiên nhiên ở làng quê, ảnh hưởng của nhà thơ Xuân Diệu, bạn bè, thầy cơ và
khơng khí của thời đại kháng chiến chống Mĩ. Đó là những nhân tố khách quan bên
cạnh tài năng thiên bẩm của Trần Đăng Khoa. “Thơ Trần Đăng Khoa chạm đến
bản chất, cái cốt lõi của làng quê”. Quả thật, trong thơ Trần Đăng Khoa luôn có
dấu ấn của thời chiến tranh khốc liệt của của cuộc kháng chiến chống Mĩ nhưng
luôn giữ được vẻ trong trẻo, tươi tắn của tâm hồn trẻ thơ.
Hay trong cuốn Giáo trình văn học trẻ em – NXB Đại học Sư phạm, tác giả
Lã Thị Bắc Lý đã nêu những nội dung cơ bản của thơ Trần Đăng khoa, trong đó
nội dung hàng đầu là thiên nhiên nơng thơn bởi theo tác giả thì “đây là mảng nội
dung nổi bật nhất trong thơ Trần Đăng Khoa”. Đó là một cái nhìn ngộ nghĩnh,
đáng yêu nhưng lại rất sâu sắc. Thơ Trần Đăng Khoa luôn gợi cho chúng ta cảm
nhận về một thiên nhiên nông thôn thuần khiết, tinh nguyên và hết sức thơ mộng.

Thiên nhiên ấy không chỉ là sự n tĩnh thơ mộng mà cịn đầy sức sống, ln luôn
vận động và phát triển.


Ngồi những ý kiến nhận xét, phê bình về nội dung thì cịn có những ý kiến
xoay quanh giá trị nghệ thuật của tập thơ Góc sân và khoảng trởi. Tác giả Lã Thị
Bắc Lý đã nhận xét rằng Trần Đăng Khoa thường “sử dụng biện pháp nhân hóa để
miêu tả cảnh vật”. Những cảnh vật thiên nhiên trong tập thơ đều chứa đựng một
tâm hồn, một sự sống lúc nào cũng sẵn sàng đón nhận ánh sáng. Một đặc điểm dễ
thấy nhất trong nghệ thuật của tập thơ là sự liên tưởng, tưởng tượng độc đáo.
Riêng Phạm Hổ đã nhận xét thêm về thanh điệu của tập thơ Góc sân và
khoảng trời trong Tuyển tập Phạm Hổ rằng: “Trong nhiều bài, mỗi bài như có một
nhạc điệu riêng, một âm sắc riêng”. Các bài thơ của Trần Đăng Khoa có sự gần
gũi với ca dao bởi em được ru bằng những câu hát của bà, của mẹ. Nhưng khi làm
thơ thì Trần Đăng Khoa khơng đưa tất cả vào thơ mình mà có sự chọn lọc và sáng
tạo.
Chính vì thơ của Trần Đăng Khoa nói chung và đặc biệt là tập Góc sân và
khoảng trời nói riêng, chứa đựng những yếu tố nội dung và nghệ thật ấy mà vào
những năm 1994 – 1995, tác giả Phạm Hổ đã viết về Trần Đăng Khoa: “thơ Trần
Đăng Khoa viết lúc còn bé đã chịu sử thử thách khá dài trên dướu 30 năm với bao
nhiêu những đổi thay trong cuộc sống không thể lường trước... Đến nay, đọc lại
thơ Trần Đăng Khoa, tơi vẫn thấy hay, có bài cịn hay hơn”.
Qua những nghiên cứu, nhận đinh chung về tác giả Trần Đăng Khoa cùng
tập thơ Góc sân và khoảng trời, tôi nhận thấy hầu hết các tác giả tập trung vào
nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa. Đây là cơ sở để tơi
tìm hiểu rõ hơn, sâu hơn về yếu tố sử dụng động từ nói năng trong tập thơ Góc sân
và khoảng trời của tác giả Trần Đăng Khoa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên
3.1.
Đối tượng nghiên cứu


cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là động từ nói năng được sử dụng trong
tập thơ Góc sân và khoảng trời.


3.2.

Phạm vi nghiên cứu

Khóa luận này chúng tơi sẽ đi sâu vào tìm hiểu mảng động từ nói năng được
tác giả Trần Đăng Khoa sử dụng trong tập thơ Góc sân và khoảng trời.
4.

Mục tiêu nghiên cứu

Với đề tài Động từ nói năng trong thơ Trần Đăng Khoa viết cho thiếu nhi
qua tập thơ Góc sân và khoảng trời, chúng tơi muốn tấp trung tìm hiểu thơ Trần
Đăng Khoa qua góc độ ngơn ngữ, mà cụ thể là động từ nói năng được tác giả sử
dụng trong tập thơ. Từ đó, có cái nhìn cụ thể, chính xác về sự sáng tạo, tài tình của
thần đồng thơ Trần Đăng Khoa qua phương diện sử dụng từ ngữ.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích - tổng hợp
Phương pháp thống kê - phân loại
Phương pháp tốn học
6. Cấu trúc khóa luận
5.

-


Khóa luận gồm có 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Trong đó, nội dung là phần trọng tâm, gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Đặc điểm động từ nói năng trong thơ Trần Đăng Khoa qua
tập Góc sân và khoảng trời
Chương 3: Giá trị biểu đạt của động từ nói năng trong thơ Trần Đăng
Khoa qua tập Góc sân và khoảng trời.

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.

Một số khái niệm cơ bản


1.1.1.

Khái niệm động từ

Cũng như các loại từ khác, động từ là một trong hai từ loại cơ bản nhất của
tiếng Việt hiện đại. Có một số lượng từ khá lớn trong vốn từ vựng, động từ có vai
trị hoạt động ngữ pháp hết sức quan trọng trong việc tổ chức, cấu tạo tiếng Việt.
Phạm vi hoạt động cú pháp của động từ khá rộng, đa dạng và cũng rất phức tạp.
Khi định nghĩa về dộng từ, các nhà ngôn ngữ học đã đưa ra nhiều cách hiểu:
Nhà nghiên cứu Lê Biên trong cuốn Từ loại tiếng Việt hiện đại cho rằng:
“Động từ là những thực từ chỉ quá trình, các dạng vận động của sự vật, thực thể
của sự vật tính. Q trình vận động có thể là hoạt động, hành động như: Tôi đọc
sách, Cô ấy dệt vải,...; Có thể là trạng thái cảm xúc, cảm nghĩ như: Em yêu quê

hương, Nó mong thư,...; Có thể là quá trình biến đổi như: Mẹ đi Nha Trang,...;
hoặc hoạt động ban phát như: Con biếu mẹ tấm áo,...” [7;70].
Theo Diệp Quang Ban trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt đã đưa ra cách hiểu
về động từ như sau: “Động từ là những từ biểu thị ý nghĩa khái quát về quá trình.
Ý nghĩa quá trình thể hiện trực tiếp đặc trưng vận động của thwucj thể. Đó là ý
nghĩa hành động, ý nghĩa trạng thái được khái quát trong mối liên hệ với vận động
thực thể trong không gian, thời gian” [19;90].
Tác giả Nguyễn Kim Thản trong cuốn Động từ trong tiếng Việt có viết:
“Động từ là những từ mà: về ý nghĩa biểu thị quá trình, cũng tức là biểu thi hoạt
động hay tình thái nhất định của sự vật trong q trình. Về hình thức, ngồi đặc
điểm chung của vị từ ra, cị có thể đặt sau những hư từ chỉ sự cầu khiến như: hãy,
đừng, chớ...” [11;23].
Ngoài ra cịn có nhiều quan điểm khác về động từ. Trong đề tài này, chúng
tôi lấy cách hiểu của tác giả Lê Biên làm cơ sở lý thuyết cho việc tìm hiểu về động
từ nói chung và tìm hiểu về động từ nói năng nói riêng.
1.1.2.

Khái niệm động từ nói năng


Động từ chỉ hành vi ngôn ngữ ( speech act verb – gọi tắt là động từ nói
năng) là những động từ gọi tên hoạt động phát ra thành tiếng, thành lời; ngoài việc
dùng trong chức năng miêu tả, chúng cịn có thể dùng trong chức năng ngơn hành.
Động từ nói năng cịn biểu thị, gọi tên các hành vi ngơn ngữ.
Trong các động từ nói năng có những động từ đặc biệt, đó là những động từ
có thể được thực hiện trong chức năng Ngữ vi, tức thực hiện trong chức năng ở lời.
Những động từ này được gọi tên là động từ Ngữ vi – động từ ngôn hành. Động từ
ngữ vi là những động từ khi mà phát âm chúng ta cùng với biểu thức ngữ vi là
người nói thực hiện ln cái hành vi ở lời do chúng biểu thị.
Một động từ trong tiếng Việt được gọi là động từ nói năng khi nó đáp ứng

các yêu cầu sau:
-

Kết hợp dễ dàng với từ ngữ chỉ cách thức nói năng, đặc biệt là từ chỉ âm
thanh, tiếng động.

Ví dụ: Nó nói oang oang.
-

Với cương vị vị tố phát ngơn, động từ nói năng có tham thể ngôn thể
được dẫn nhập bằng “rằng”, “là”, dấu hai chấm (về mặt văn tự) hoặc kết
hợp “rằng” và dấu hai chấm

Ví dụ: Nó nói rằng:....
-

Động từ nói năng có thể dùng trong hai chức năng miêu tả và ngôn hành,
tùy mức độ khác nhau:
+ Chỉ để miêu tả (mời mọc)
+ Chỉ để ngôn hành (đa tạ)
+ Vừa để miêu tả, vừa ngơn hành (mời)

Cho đến nay, vì chưa thấy được đầy đủ vai trị của các hành vi ngơn ngữ
trong đời sống xã hội và cá nhân, ngữ pháp tiền dụng học không ý thức được tầm
quan trọng cũng như các đặc tính chức năng- ngữ nghĩa- ngữ pháp của động từ nói
năng trong ngơn ngữ.


Trong từ loại học tiếng Việt, động từ nói năng không được tách thành một
phạm trù độc lập với các động từ “phi nói năng”, tức tách khỏi các động từ biểu

thị hoạt động, quá trình vật lý, sinh lý và tâm lý. Có thể thấy rằng, động từ nói
năng có những đặc tính khác hẳn với các động từ phi nói năng, cần được nghiên
cứu riêng, sử dụng những tiêu chí phân loại riêng.
1.1.3.

Phân loại động từ nói năng

Trong các nghiên cứu về động từ nói năng, có nhiều tác giả đã đưa ra cách
phân loại động từ nói năng riêng. Có thể kể đến cách phân chia của tác giả Đỗ Hữu
Châu. Tác giả cho rằng tiếng Việt có những động từ nói năng như sau:
-

Động từ chỉ cách thức nói năng

Ví dụ: làu bàu,...
-

Động từ vừa chỉ cách thức, vừa chỉ hiệu quả mượn lời, vừa chỉ hiệu quả ở
lời

Ví dụ: hỏi vặn, vặn,...
-

Động từ nói năng thuần khiết (duy nhất chỉ có hiệu lực ở lời)

Ví dụ: hỏi,...
Cách chia này chưa kể những động từ chỉ hành vi tạo lời thuần khiết (ví dụ:
đặt câu, nêu vấn đề), những động từ chỉ hành vi mượn lời thuần khiết (ví dụ: nói
chọc tức). Nói một cách tổng quát hiệu lực (đích) ở lời, cách thức tạo lời (cách
thức nói năng) và hiệu quả mượn lười trực tiếp là ba tiêu chí lớn để miêu tả và

phân loại các động từ nói năng.
Bên cạnh cách chia này, động từ nói năng cịn có thể chia thành 2 loại:
-

Nhóm động từ nói năng chính danh: là các động từ nói năng có thể tham
gia biểu thị, gọi tên các hoạt động nói năng tái hiện, điều khiển, kết ước,
tuyên bố, biểu lộ.

Ví dụ: Nguyệt hướng dẫn cho tơi đi đúng giữa hai hàng cọc tiêu.






-

Hoạt động nói năng tái hiện
Tơi đề nghị mang hộ nhưng chị ta nhất định khơng chịu.
Hoạt động nói năng điều khiển
Tơi khen thực thà: “Cậu này có hoa tay thật. Mà lại cả tiếng Anh nữa cơ
đấy!”.
Hoạt động nói năng biểu lộ
Nhóm động từ nói năng khơng chính danh: căn cứ vài mức độ đáp ứng các tiêu chí
về động từ nói năng, có thể thấy, trong giao tiếp bằng tiếng Việt, ba nhóm nhỏ sau
đây thường được dùng với nghĩa chuyển chỉ sự nói năng:
+ Nhóm từ chỉ cách thức nói năng: về ngữ nghĩa, chúng dùng để thể hiện
cách thức nói, cách thức tạo ra lời nói; về ngữ pháp, chúng có thể là thành tố phụ
cho động từ nói năng chính danh (ấp úng nói, ân cần bảo,..), nhưng có thể là thành
tố trung tâm, thành tố đỉnh trong cấu trúc nghĩa của phát ngôn; về cấu tạo, chúng

phần lớn là những từ láy, đa phần là các từ tượng thanh (gợi tả âm sắc khi nói: lè
nhè, bơ bơ,..), từ tượng hình (gợi tả khn hình của miệng khi phát âm hoặc hình
dáng, điệu bộ khi nói: ấp úng, lắp bắp,...).
Ví dụ: Hắn gườm gườm nhìn vợ, rồi hục hặc:
- Cái giống nhà mày khó bảo!
=> Động từ chỉ cách thức nói năng
+ Nhóm động từ hành động vật lý: về mặt hình thức, đây là nhóm các động
từ vốn thuộc sự tình hành động và quá trình vật chất nhưng trong điều kiện và ngữ
cảnh nhất đinh, chúng được dùng với nghĩa VTPN; về cơ chế chuyển nghĩa, lấy nét
nghĩa con người dùng vật, chủ động tác động mạnh mang tính cơ học lên một thực
thể vật chất làm cho nó thay đổi hình dạng của một số động từ vật lý để dùng sang
biểu thị nghĩa nói năng. Khi đó động từ vật lý có nghĩa của động từ nói năng.
Ví dụ: tâng, kích, châm, chọc, quạt, giã, băm,...
+ Nhóm động từ chỉ tiếng kêu của động vật: Cơ chế chuyển nghĩa của nhóm
này là căn cứ vào ý nghĩa của âm thanh, sắc thái ý nghĩa mà âm thanh (tiếng kêu
hoặc tên gọi tiếng kêu của con vật đem lại) để dùng sang biểu thị nghĩa nói năng.
Khi đó động từ chỉ tiếng kểu của động vật mang nghĩa của động từ nói năng.


Ví dụ: hót, gáy, be be, rống, sủa, gầm,....
Chúng ta cũng có thể phân chia từ chỉ hoạt động nói năng làm 3 nhóm:
- Nhóm có ý nghĩa chỉ hành động của hoạt động nói năng: chê, xin, dặn,
mắng, hỏi, mời, chào, địi, thổ lộ,…
Ví dụ: Tơi những muốn thổ lộ nỗi lo lắng của tôi cho chị nghe nhưng xấu hổ
khơng sao nói được. (Chị Hai ơi)
- Nhóm có ý nghĩa chỉ tính chất của hoạt động nói năng: tính chất của giọng
nói: (tiếng nói) trầm ấm, (giọng) khàn đục, (buông mấy tiếng) đanh, gọn,…; tốc độ
của hành động nói năng: (nói) thong thả, chậm rãi, (nói) liến thoắng,…; độ lớn của
tiếng nói: (hét) to,(nói) nhỏ, v.v…; tính chất của nội dung câu nói: (nói) ngờ
nghệch,…; thái độ của người phát ngơn: (giọng) buồn, cáu kỉnh, bực dọc, dịu

dàng,…
Ví dụ: Ngân đối với tôi thực chẳng ngọt ngào, nhưng khơng hiểu sao trong
giọng nói bực dọc cáu kỉnh vẫn có một âm hưởng trầm trầm, buồn buồn, dịu dàng,
… (Đêm tái sinh)
- Nhóm có ý nghĩa vừa chỉ tính chất vừa chỉ hành động của hoạt động nói
năng: thì thầm, xì xào, bơ bơ, láu táu, xt xoa, nghẹn ngào,…
Ví dụ: “Một ngày kia anh sẽ là một hoạ sĩ vĩ đại”. Cơ thì thầm với vẻ u
thương sùng kính. (Người bán linh hồn)
Trong đề tài này, tơi sử dụng cách phân chia của tác giả Đỗ Hữu Châu Biên
làm cơ sở lý thuyết cho việc tìm hiểu về động từ nói năng trong thơ thiếu nhi của
Trần Đăng Khoa.
1.2.

Vài nét cơ bản về tác giả Trần Đăng Khoa và tập thơ Góc sân và
khoảng trời
1.2.1. Tác giả Trần Đăng Khoa

Trần Đăng Khoa sinh ngày 26 tháng 4 năm 1958, quê làng Trực Trì, xã Quốc
Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, là một nhà thơ, nhà báo, biên tập


viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông nguyên
là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, Giám đốc Hệ Phát thanh có hình VOVTV
của Đài tiếng nói Việt Nam, Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt
Nam. Hiện nay, ơng giữ chức Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Phó Chủ
tịch Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Ông cũng là Trưởng Ban Chung khảo,
Hội đồng Giám khảo Quốc gia của cuộc thi Viết thư quốc tế UPU tại Việt Nam từ
năm 2016 đến nay, thay cho Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (Nguyễn Trí
Huân).
Từ nhỏ, ông đã được nhiều người cho là thần đồng thơ văn. Bố mẹ Trần

Đăng Khoa thuộc rất nhiều truyện và thơ ca cổ. Anh trai và em gái của Trần Đăng
Khoa đều là những người say mê văn học. Riêng Trần Đăng Khoa, khi học hết vỡ
lòng (tương đương lớp 1 bây giờ) đã ham đọc sách, đã thuộc rất nhiều ca dao và
thơ ca cổ. Lên 8 tuổi, ông đã có thơ được đăng báo. Năm 10 tuổi, ơng đã cho xuất
bản tập thơ đầu tiên với nhan đề Từ góc sân nhà em (1968). Cũng trong năm 1968,
ơng đã cho ra mắt tập thơ thứ hai là Góc sân và khoảng trời do nhà xuất bản Kim
Đồng ấn hành. Có lẽ tác phẩm nhiều người biết đến nhất của ông là bài thơ Hạt
gạo làng ta, sáng tác năm 1968, được thi sĩ Xuân Diệu hiệu đính, sau được nhạc
sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc (1971).
Ơng cũng được biết đến nhiều với câu chuyện khi mới hơn 10 tuổi đã đề
nghị đổi câu thơ "Đường ta đi rộng thênh thang tám thước" thành "Đường ta rộng
thênh thang ta bước" trong bài thơ Ta đi tới của nhà thơ nổi tiếng thời bấy giờ
là Tố Hữu.
Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngày 26 tháng 2 năm 1975 khi đang học lớp 10
Trường phổ thông cấp 3 Nam Sách, quân số tại Tiểu đoàn 691 Trung đoàn 2 Quân
tăng cường Hải Hưng. Sau khi thống nhất, việc bổ sung quân cho chiến trường
khơng cịn cần thiết nữa, ơng được bổ sung về Qn chủng Hải qn. Sau đó ơng
theo học Trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện Văn học Thế


giới M. Gorki thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi trở về nước ông làm
biên tập viên Tạp chí Văn nghệ quân đội. Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân
hàm thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang công tác tại Đài
tiếng nói Việt Nam, giữ chức Phó Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, sau đó là
Trưởng ban Văn học Nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam. Năm 2008, khi Đài tiếng
nói Việt Nam thành lập Hệ phát thanh có hình VOVTV (tiền thân của Kênh truyền
hình VOV và nay là Kênh truyền hình Văn hóa - Du lịch Vietnam Jouney), ơng
được phân công làm Giám đốc đầu tiên của hệ này. Đến khoảng giữa năm 2011,
chức vụ này được chuyển giao cho ơng Vũ Hải – Phó Tổng Giám đốc của Đài
kiêm nhiệm để ơng chuyển sang làm Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Đài Tiếng

nói Việt Nam VOV. Hiện nay ơng là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khóa IX.
Trần Đăng Khoa khơng có nhiều tác phẩm, và danh hiệu "thần đồng thơ trẻ"
của nhà thơ thời thơ ấu không hề liên quan hay được nối tiếp đến quãng đời về sau
khi nhà thơ tham gia nhập ngũ, theo học ở Nga, khi về nước làm biên tập viên, làm
báo. Thi hứng một thời không là động lực cho cảm xúc khi tác giả đã cao tuổi.
Những tác phẩm nổi bật của Trần Đăng Khoa có thể kể đến như:
+ In ở trong nước
• Từ góc sân nhà em(1968)
• Thơ Trần Đăng Khoa, tập 1 (tuyển 1966-1969, 1970)
• Khúc hát người anh hùng (trường ca, 1975)
• Kể cho bé nghe (1979)
• Thơ Trần Đăng Khoa, tập 2 (tuyển 1969-1975, 1983)
+ In ở nước ngồi:
• Tiếng hát cịn tiếp tục (Pháp 1971)
• Góc sân và khoảng trời của tơi (Cuba, 1973)
• Cánh diều no gió (CHDC Đức, 1973)


• Con bướm vàng (Hunggari, 1973)
Các giải thưởng mà Trần Đăng Khoa vinh dự được nhận, có thể kể đến như:
• Giải thưởng thơ Báo Thiếu niên Tiền Phong (1968, 1969, 1971)
• Giải thưởng văn học của Bộ lao động - thương binh xã hội (1975) với
Trường ca Khúc hát người anh hùng.
• Giải A cuộc thi thơ Báo Văn nghệ (1981 - 1982) với bài Đợi mưa trên
đảo Sinh Tồn.
• Giải thưởng Báo Người giáo viên nhân dân (1987)
• Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (đợt I năm 2001) với tập
thơ Góc sân và khoảng trời.
1.2.2.


Tập thơ Góc sân và khoảng trời

Tập thơ Góc sân và khoảng trời của tác giả Trần Đăng Khoa được xuất bản
lần đầu tiên năm 1968, khi tác giả mới 10 tuổi, gồm 52 bài với số lượng 10.000
cuốn; năm 1973, tập thơ được bổ sung thành 66 bài, in với số lượng lên tới 50.000
bản. Tập thơ mới đầu có tên là Từ góc sân nhà em, sau nhiều lần tái bản và chỉnh
sửa, nay tập thơ có tên là Góc sân và khoảng trời. Thế là từ đấy, tập thơ này mỗi
năm đều được bổ sung thêm và in lại nhiều lần ở nhiều nhà xuất bản khác nhau.
Cho đến lần in năm 2002 là lần thứ 50, một con số có lẽ là kỷ lục cho những cuốn
sách được tái bản nhiều lần ở nước ta. Tập thơ như những trang kí ức, nhật kí của
tác giả thời thơ ấu. Một số bài thơ nổi tiếng trong tập thơ này là: Con bướm vàng,
Trăng sáng sân nhà em, Ò ó o..., Khi mẹ vắng nhà, Trăng ơi...từ đâu đến, Kể cho
bé nghe, Hạt gạo làng ta, Lời của than, Thơ vui, Mưa, Cây dừa,...
Trong bản in lần thứ 23, đoạn “Đôi lời của tác giả”, Trần Đăng Khoa đã bộc
bạch:
“...Làng tôi là một trạm nghỉ chân trên đường đi B của các trung đoàn đồng
bằng Bắc bộ, trong suốt thời chống Mỹ sau khi huấn luyện ở núi rừng Yên Tử.


Hàng ngàn chú bộ đội đã lần lượt rải chiếu ngủ trên nền đất nhà tôi, đã mắc võng
nằm trong vườn cây nhà tôi. Các chú nghe thơ tôi, chép thơ tơi vào sổ tay và mang
nó ra mặt trận. Sự tiếp xúc có phần ngẫu nhiên đó đã dậy tôi một cách nghiêm túc
phải viết như thế nào. Đấy là điều lý giải vì sao thơ tơi đã có mặt từ những năm
chiến tranh..."
"...Trong tập thơ, có bài tơi viết trong lúc sát hạch, nghĩa là các cô chú đến
chơi, vây quanh rồi ra đề cho tôi làm, như bài "Bên sơng Kinh Thầy", "Sao khơng
về Vàng ơi?" Có bài tôi viết nhanh theo những thông tin và yêu cầu của báo Văn
nghệ, như bài "Lời một bạn gái 12 tuổi". Có bài tơi viết để thay một bức thư trả
lời, như bài "Thơ vui."
"Con bướm vàng là bài thơ đầu tiên tôi viết vào tháng 2 năm 1966, khi tôi 8

tuổi, đang học ở học kỳ II lớp 1 trường làng. Suốt 10 năm học phổ thông, tôi đã
được đăng báo in sách khoảng trên 200 bài thơ và 4 trường ca."
Đọc Góc sân và khoảng trời, chúng ta sẽ thấy hiện lên cả một thế giới con
người và sự vật mà trong đó con người nào cũng đều để lại một dấu ấn tốt đẹp
trong con mắt của thi sĩ tí hon Trần Đăng Khoa; cịn sự vật thì hầu như tất cả đều
đã được nhân cách hóa, trở thành những bạn bè thân thiết, khơng thể xa rời, và
điều đặc biệt là tất cả đều nằm trong tầm nhìn của tác giả, tầm nhìn của đơi mắt trẻ
thơ.
Tiểu kết chương 1
Ở chương 1, đề tài đã đi sâu vào nghiên cứu những cơ sở lý thuyết và thu
được những kết quả như sau:
Động từ nói năng được sử dụng rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày. Khi
được sử dụng vào các tác phẩm văn học, động từ nói năng là một trong những
phương diện quan trọng cấu thành hình tượng nhân vật. Đối với diễn ngơn truyện
kể, người đọc có thể hình dung hành vi ngơn ngữ của nhân vật qua lời người kể
chuyện, qua phát ngơn của chính nhân vật hoặc qua lời của một nhân vật khác,


trong đó thường bao gồm các động từ chỉ hoạt động nói năng. Nằm trong chỉnh thể
tác phẩm, nó cũng là phương tiện đắc lực thúc đẩy sự phát triển của mạch thơ, trực
tiếp nhất là sự vận động trong lời nói của các nhân vật. Những đặc diểm của động
từ nói năng ở chương 1 là cơ sở lí luận chung chúng tôi thực hiện đề tài ở các
chương sau

Chương 2
ĐẶC ĐIỂM ĐỘNG TỪ NÓI NĂNG TRONG THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA
QUA TẬP GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI
2.1. Khảo sát động từ nói năng trong tập Góc sân và khoảng trời
Tần
STT


Động từ nói

Câu thơ

số xuất

Ghi

hiện

chú

năng
Số

Tỉ lệ

lượn

(%)

g


1
2
3

4

5

Khoe
Rủ
Dạy

Đùa
Nói

-

Muốn khoe có mặt trịn

2

1.1%

-

Nhung nhăng khoe áo trắng
Muốn rủ em đi chơi
Em nghe như Bác dạy lời

1
4

0.5%
2.2%

-


Nhớ bao tháng năm ròng, thầy dạy

-

Dạy cho cháu học làm người Việt Nam...

-

Bài tập đọc dạy chúng em còn dang dở
Bướm con đùa với nụ hồng đỏ hoe
Phi lao mới nói rầm rì

1
31

0.5%
17.7%

-

Chắc hoa muốn nói mà khơng nói gì...

-

Nhưng đêm đêm nghe gió nói

-

Hay nói ầm ĩ


-

“Nhà thơ” thì nói ngắn

-

“Nhà báo” thì nói dài

-

Bạn muốn nói gì thêm nữa?

-

Nói tranh nhau, lộn xộn

-

Tiếng nói cười âm vang

-

Hơm nay mẹ chẳng nói cười được đâu

-

Tiếng nói

-


À m Ếch nói ao chm

-

Rào rào, Gió nói cái vườn rộng rênh

-

Âu âu, Chó nói đêm thanh

-

Te...te... Gà nói sáng banh ra rồi

-

-


-

Vi vu, Gió nói Mây trơi

-

Thào thào, Trời nói xa vời Mặt Trăng...

-


Nói với con gà mái

-

Hãy nói cho ta rõ

-

Hãy nói cho ta rõ

-

Nói điều chi với trời?

-

Biết bao điều em khơng nói được bằng thơ...

-

Biết bao điều em khơng nói được bằng thơ...

-

Chú ngồi lặng nghe cháu nói

-

Nói với cháu


-

Tiếng ai thấp thống, nói cười xơn xao...

-

Cháu đau lịng nghe bác nói thơ ca

-

Đất muốn nói điều chi thế

-

Mà khơng nói được với người

-

Đất ơi, hãy nói giùm tôi, núm nhau tôi mẹ vùi ở
nơi nào?

-

Héo hon năm xưa khơng biết nói sao cho hết
Nó kêu vang vang

-

Con chim quên không kêu


-

Con sâu quên không kêu

-

Ve kêu, muôn lá quạt...

-

Tiếng chim kêu

-

6

Kêu

19

10.5%


-

Bay lên kêu chíp chíp

-

Kêu bụi này bụi kia


-

Chú trống làng kêu to

-

Cuốc kêu chưa dứt mà cành đầy hoa

-

Tiếng võng kêu

-

Đầy tiếng võng kêu

-

Mổ tiếng võng kêu

-

Đầy tiếng võng kêu

-

Ngang trời kêu một tiếng chuông

-


Ve kêu rung trời sao

-

Kêu chi kêu mãi trên đầu

-

Các bạn có nghe thấy tiếng kêu từ dưới mộ của
tôi?

-

Những muốn kêu to một tiếng
Mời bác cứ nghỉ

-

Mời bác cứ ăn

-

Mời bác cứ uống

-

-

7


8

Mời

Xin

4

2.2%

Cháu mời chú bát nước chè
Muốn xin mấy lá trầu

2

1.1%

-

Mẹ ơi, xin mẹ đừng già
Lá cây vẫy gió như là gọi chim...

20

10.5%

-

Lá cây vẫy gió như là gọi trăng...


-

Cây đa gọi gió đến

-

9

Gọi


10

11
12

Dặn

Hoan hô
Reo

-

Ta nghe chim gọi đấy

-

Gọi mọi người chạy ra


-

Gọi ơng Trời

-

Tiếng trống gọi ngồi trụ sở

-

Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng

-

Gọi đàn gió đến cùng dừa múa reo

-

Tiếng gọi nhau

-

Hú gọi trâu đến giờ

-

Sông nước gọi tên

-


Cho đến khi tiếng trống gọi về trường

-

Ngô dang tay vẫy gọi...

-

Tiếng mày gọi con, tiếng còn tiếng mất

-

Mày chưa kịp gọi con, đã bị vùi trong đất

-

Nghe âm vang tiếng gọi của chiến trường

-

Nghe tiếng gọi những bờ bến mới

-

Rảo thưa, tiếng ai cười gọi

-

Bài hát gọi cây lúa
Dặn em


-

Dặn em đừng có chơi xa

-

Chú ngồi dặn cháu trong phịng
Hoan hô anh nhé
Phi lao reo trập trùng

-

3

1.7%

1
9

0.5%
5.2%


-

Cánh đồng vui reo

-


Gọi đàn gió đến cùng dừa múa reo

-

Nước reo trong lịng máng

-

Con sóng vẫn reo trên xác giặc

-

Sóng ơm bờ đá reo

-

Nghe bạt ngàn qn reo

-

Điện hồng mái ngói, bạn bè hị reo

Lúa reo vàng đất. Mây bay trắng trời
Chúc mừng- Chúng em thơ thẩn vào ra chúc mừng
Hỏi - Hỏi hoa rằng có nhớ thầy khơng?
-

13
14


15

Giục

-

Hỏi đường

-

Hay hỏi đâu đâu

-

Còn Tư? - Các bạn hỏi

-

Chú hỏi, cháu mếu máo

-

Nhưng đừng hỏi, cháu ơi, sao đầu bà bạc trắng

-

Hỏi ai? Đường tạnh bóng người
Giục quả na

-


Giục hàng tre

-

Giục buồng chuối

-

Giục hạt đậu

-

Giục bông lúa

-

Giục con trâu

1
7

0.5%
3.9%

7

3.9%



-

Giục đàn sao
Nhảy lên thuyền như trêu
Mẹ bảo em: Dạo này ngoan thế!

-

Chẳng ai bảo ai chúng em đổ cả xuống ao

-

Bà bảo các chú bận

-

Chúng minh thường bảo nhau

-

Sao bà bảo trăng non?...

-

Ai bảo em là hoa dại?

-

Ta sẽ khuyên trời bảo bão đừng giật gió


-

Ta sẽ bảo chim đừng đập cánh vào bơng mày

-

mẩy đẹp
Há miệng địi uống sương

2

1.1%

Cháu cứ đòi chụp...
Làm thằng gà trống huyên thuyên một hồi

1

0.5%

-

Tiếng hơ dội từ mái ngói
Khóc than Kiến Cánh khốc màu áo tang

1
3

0.5%
1.7%


-

Em nghe tiếng than

-

Tiếng than ngỡ tiếng quê hương ngọt ngào
Em nghe có tiếng thơ ngâm

2

1.1%

-

Ngâm thơ, kể chuyện, rồi thì múa ca
Nhạc trời réo vang
Em nghe mẹ kể đêm sâu

1
12

0.5%
6.7%

-

Em kể chuyện này...


-

Kể cho bé nghe

-

16
17

18

Trêu
Bảo

Địi

-

-

19

Hun

-

20
21

thun


Than

-

22

Ngâm

-

23
24

Réo
Kể

-

1
8

0.5%
4.6%


×