Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.63 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>A</b>
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Ðàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
<b>B</b>
Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Ðã chết đêm rằm theo nước xanh.
<b>C</b> Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời, Ðàn ghê như nước, lạnh, trời ơi ...
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người ...
<b>D</b>
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê,
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
Xuân Diệu
Bài <b>Nguyệt Cầm</b> của Xuân Diệu, ảnh hưởng Tỳ Bà Hành, hòa hợp với
<i>thuyết giao ứng (correspondance) của Baudelaire, là một bài thơ mới, âm </i>
hưởng cổ điển và lãng mạn.
Xuân Diệu nghe đàn trên sông Hương, trạnh nhớ hận tình Trương Chi - Mỵ
Nương mà làm nên <b>Nguyệt Cầm</b>. Cảm xúc lời thơ, Cung Tiến sáng tác <b>Nguyệt </b>
<b>Cầm</b>, tình khúc lãng mạn giá trị, mang những cung bậc Tây phương.
những ánh hào quang ẩn sau cõi chết. Người thi sĩ bằng trực giác mẫn cảm nắm
bắt giây phút hội ngộ thiêng liêng giữa thực tại và siêu hình, giữa nội tâm và
ngoại giới để đạt tới thăng hoa trong tác phẩm nghệ thuật.
Chúng ta tìm thấy cấu trúc nội dung trên đây qua sự phân tích cấu trúc hình
thức.
Bài <b>Nguyệt Cầm</b> mang những tính chất cơ bản của thi ca. Nguyên lý song
song xuất hiện liên tục dưới nhiều dạng:
<b>- Về mặt hình thức</b>, thơ 7 chữ, 4 câu, 4 khổ. Trong 112 chữ, có 5 trăng, 2
nguyệt, 4 đàn, 3 lạnh, 3 nhạc, 2 nước v. v.... Ðặc biệt, khổ một (A) có tới 4
thủy
tinh
-pha
lê - trong
lặng vắng
-buồn - hận - sầu
ghê - rợn
hỡi - ôi - trời ơi
tàn - chết - nhập - hồn
thương - nhớ
lung
linh -long lanh
lệ - giọt - sương
<b>- Về mặt nội dung</b>, khổ một (<b>A</b>) song song với khổ ba (<b>C</b>): bầy ra sự đối diện
(hay nội cảnh) giữa trăng và đàn. Khổ hai (<b>B</b>) song song với khổ bốn (<b>D</b>): dàn
phần ngoại cảnh (thiên nhiên, trời đất), và tâm cảnh người nghe hoặc người
ngắm nguyệt cầm.
Trước hết, <b>nguyệt cầm</b> là gì? Ngay tựa đề đã vơ cùng hàm súc. <b>Nguyệt </b>
<b>Cầm</b>. Nguyệt và cầm: hai yếu tố tương đồng ngữ nghĩa, trùng phùng hình ảnh.
Từ vừa đơn, vừa ghép, tuy hai mà có thể trở thành một, hoặc biến hố đến vơ
cùng: Trăng là nguyệt, là đàn (đàn hình trịn như trăng), mà cịn có thể là người
kỹ nữ, là thi sĩ, là anh, là em, là tơi, là ta, ....
1. Nếu nhìn nguyệt cầm như một cấu trúc tỉnh lược chủ từ và hư từ, thì <b>Nguyệt </b>
<b>cầm</b> là <b>đàn trăng</b>: đàn trăng mở ra ít nhất ba bối cảnh:
- (đánh) đàn (dưới) trăng
- (nghe) đàn (dưới) trăng
- đàn (ngắm) trăng
<b>Nguyệt cầm</b> còn là <b>trăng đàn</b>: trăng đàn mở ra ba cảnh khác:
- trăng (đánh) đàn
- trăng (nghe) đàn
- trăng ( ngắm) đàn
2. Nếu nhìn nguyệt cầm dưới dạng cấu trúc ẩn dụ, thì <b>Nguyệt</b> có thể là <b>em</b>:
<b>Nguyệt cầm</b> = <b>em đàn</b>. <b>Nguyệt</b> cũng có thể là <b>anh</b>, và <b>đàn</b> là <b>em</b>:
- Anh (nghe) đàn
- Anh (nghe) em (đàn)
- Anh (ngắm) đàn
- Anh (ngắm) em (đàn)
Tóm lại mười một bối cảnh trên đây có thể hàm ngụ trong hai chữ <b>nguyệt cầm</b>.
Bước vào bài thơ, câu đầu:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Hai chữ dây cung mập mờ ý nghĩa, làm mơi giới cho tình và ý. Dây vừa là
dây đàn mà cũng là dây tơ. Cung vừa là cung Hằng, vừa là cung tơ. Câu thơ đưa
ra nhiều hình ảnh chập trùng: Trăng nhập vào trăng? Trăng nhập vào dây đàn?
Trăng nhập vào cung tơ? Mà trăng là ai? Nếu trăng là anh: Anh nhập vào cung
trăng? Anh nhập vào cung đàn? Hay anh nhập vào em? <b>Nguyệt</b> còn đồng âm
với <b>huyệt</b>. "Trăng - nguyệt" -ẩn dụ cổ điển- nhờ sự táo bạo và mãnh lực của chữ
<b>nhập</b>, vướng mắc vào d<b>ây</b>, vương tơ (ngầm). Trăng đắm trong ẩm ướt của vùng
nguyệt lạnh, gợi lên hình ảnh nồng nàn đầy nhục cảm mà cũng vô cùng dịu
dàng, tế nhị, thanh khiết, mà cũng có thể là cõi chết, nơi hội ngộ của những âm
hồn.
Chuyển sang câu hai:
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
tính cách đối xứng giữa trăng thương và thương trăng, trăng nhớ và nhớ trăng,
tạo nên sức tương ái nhớ thương - thương nhớ giữa đôi bên. Sự kết hợp với chữ
hỡi - là tiếng gọi xa, gọi mà không chắc người nghe có nghe tiếng mình khơng
(Trời hỡi! làm sao cho khỏi đói. -Hàn Mạc Tử) - tạo nên khoảng cách muôn
trùng giữa hai đối tượng: trăng và đàn.
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
bỗng chuyển sang vị trí chủ thể ở câu 3, câu 4:
Ðàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân (1)
Nhận xét thứ nhì: Tuy "Ðàn buồn, đàn lặng, ơi đàn chậm" vẫn giữ nguyên
cấu trúc hình thức như "Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần", nhưng ở đây
tĩnh từ <b>buồn</b> và <b>lặng</b> đã thay thế động từ, biến trạng thái tĩnh thành động, khiến
cho mệnh đề <b>đàn buồn</b> trở nên đa nghĩa: tiếng đàn buồn? người đánh đàn buồn?
hay đàn đang gẩy khúc nhạc buồn?... và <b>đàn lặng</b> cũng mang những ngụ ý:
tiếng đàn lặng đi? người kỹ nữ ngưng đàn? hay khúc nhạc bỗng dưng im bặt? ...
cho thấy cách tạo hình ở "Ðàn buồn, đàn lặng, ơi đàn chậm" khácvới cách tạo
hình của "Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần". Câu thơ kế tiếp "Mỗi giọt
rơi tàn như lệ ngân" tiếp tục mô tả tiếng đàn và tâm cảm người gẩy đàn. Chữ tàn
gieo vào giữa câu thơ như nỗi trớ trêu của định mệnh. Tàn: Tàn cung? Tàn
canh? Tàn phai? mà cũng có thể là tàn nhẫn, rơi vào chính giữa câu thơ, chia
loan, rẽ thúy, tạo nên những tác dụng:
- Phân chia câu thơ làm hai vế so sánh: Mỗi giọt rơi = như lệ ngân.
- Chia rẽ chủ ngữ "giọt lệ" ra làm hai nhân cách khác, hai hình ảnh khác: giọt
rơi, lệ ngân.
- Hai hình ảnh này và dư âm này tác động một lần nữa xuống nỗi đau thương ly
cách giữa trăng và đàn.
- Tàn cịn có nghĩa tàn cung là bặt tiếng đàn, là tàn tạ như tiếng đàn rơi xuống,
tan đi, vỡ ra ... như khối hận tình mang xuống tuyền đài chưa tan...
- Và tàn cịn có thể là tàn phai, như nhan sắc người kỹ nữ trong khoảnh khắc tàn
canh, rỏ mỗi tiếng đàn như ngân một giọt lệ.
Tồn bộ bốn câu thơ có cấu trúc song song, đối đẳng, nhà thơ tận dụng sự
đối xứng giữa những cặp phạm trù (trăng - đèn), (gần - xa), (ngoại cảnh - tâm
Sang tiết đoạn <b>B</b>, tác giả đổi thay phong cách:
<b>B</b>
Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Ðã chết đêm rằm theo nước xanh.
trình tự nhất định:
"Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh lung linh bóng sáng bỗng rung mình vì
nghe nương tử trong câu hát đã chết đêm rằm theo nước xanh"
Tuy nhiên, câu trên vẫn là thơ vì những mệnh đề tuy liên tục và có trình tự
trong ý, nhưng thiếu chủ ngữ và vị ngữ nên không "thành văn": Mây vắng, trời
trong, đêm thủy tinh là ba hình ảnh độc lập, dị biệt nhưng song song về nghĩa:
Mây vắng = trời trong = đêm thủy tinh.
Nhịp cầu thứ nhất liên kết <b>đêm thủy tinh</b> với <b>lung linh bóng sáng</b>, bật ra
hai khả năng diễn nghĩa:
- hoặc là có hai cảnh tượng song song: <b>Ðêm thủy tinh lung linh</b> và <b>bóng sáng </b>
<b>bỗng rung mình.</b>
- hoặc là cả cái "<b>đêm thủy tinh lung linh bóng sáng</b>" đó bỗng rung mình.
Giải thích thứ hai này ngụ ngầm ý nghĩa: Mây vắng và trời trong cũng rung
mình như đêm thủy tinh vì ba yếu tố trên cùng một chức năng ngữ nghĩa và cấu
trúc trong câu.
Tại sao rung mình? Vì tất cả đều nghe nương tử trong câu hát. Ðến đây sự
bắc cầu trở nên huyền nhiệm: Ðộng từ "đã chết" bơ vơ, bng lỏng, khơng có
chủ ngữ. Ai đã chết? Nương tử đã chết? Câu hát đã chết? hay là tất cả những
nhân vật: mây, trời, đêm thủy tinh, bóng sáng kia, vì nghe nương tử hát mà cùng
tự tử trong đêm rằm dưới nước xanh, như huyền thoại Lý Bạch ơm trăng nhẩy
xuống dịng Dương Tử?
Tiết đoạn <b>B</b> kết hợp hài hòa khái niệm thẩm mỹ giữa Ðông -Tây, trong cấu
trúc hình thức và nội dung thi ca.
Tiết đoạn <b>C</b> trở lại cuộc tương kiến giữa Ðàn và Trăng:
<b>C</b>
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Ðàn ghê như nước, lạnh, trời ơi ...
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người ...
Âm hưởng và giai điệu trong tiết đoạn này ngẫu hứng từ tiếng đàn của người
kỹ nữ trong Tỳ Bà Hành, nhất là "Ðàn ghê như nước, lạnh, trời ơi ..." và "Long
lanh tiếng sỏi vang vang hận":
Nước tn róc rách, chẩy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt
Uyết tuyền lưu thủy hạ thán
Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
vãng, làm cho sự cách biệt giữa không gian và thời gian, nghệ thuật và tình
người ngắn lại, nhưng cũng lại trải ra biền biệt đến vô cùng, và mở đường cho
bốn câu thơ cuối:
<b>D</b>
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê,
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
Tiết đoạn <b>D</b>, song song với tiết đoạn <b>B</b>, trở lại quang cảnh vũ trụ và tâm cảnh
người nghe đàn, ngắm trăng: Câu 1 mở ẩn dụ thành ấn tượng so sánh:
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê,
Thi sĩ giao hòa âm nhạc với ánh trăng thành một biển sáng có âm thanh pha
lê.
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.
Lần đầu tiên, nhân xưng tôi xuất hiện trong thơ. Sự hiện diện của thi sĩ, đơn
côi tuyệt đỉnh. Ẩn dụ <b>"chiếc đảo hồn tôi"</b> và tâm cảm "<b>rợn bốn bề</b>" phù trợ
nỗi hoang lạnh cho hai đoản ngữ "<b>chiếc đảo</b>" và "<b>hồn tơi</b>", kèm thêm bốn hình
vị độc lập <b>chiếc - đảo - hồn - rợn</b> đều mang ẩn nghĩa đơn chiếc, hoang vắng,
âm hồn, ghê rợn, ... nói lên sự lạc lõng gây gây của thi nhân trong cõi trần âm u
hoang lạnh. Niềm tâm sự ấy đắm trong khung cảnh:
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Tình huống "Sương bạc làm thinh, khuya nín thở" trên đây nối tiếp với
"Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề", như để giới thiệu thiên nhiên "Sương bạc" với
không và thời gian "khuya", những nhân tố mới này cùng "làm thinh" và "nín
thở" để:
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
Thi sĩ đã đem nội tâm của con người hòa cùng âm nhạc, ném vào vũ trụ hành
tinh. Cịn lại một mình đối diện với cõi chết, âm u, hoang lạnh. Bềnh bồng ngoài
thực tại, trong vị trí giao tiếp giữa khơng gian và vũ trụ. Lưỡng lự, nửa thăng
thiên về một hành tinh lý tưởng, nửa hạ huyệt về cõi độc dược, Ác Hoa. Sự đối
chất giữa Lý tưởng (Idéal) và Nỗi sầu (Spleen, Ennui) trong Baudelaire, không
chỉ truyền sang Xn Diệu, thấm vào Huy Cận, mà cịn thơng suốt cả một thế hệ
thi nhân, biến thành nỗi sầu nhân thế, tận diệt thế nhân trong cảm giác nghẹt
thở, bất lực, hoang mang, muôn đời buồn bã.
<b>Paris 3/1995</b>
(1) Tỳ Bà Hành:
Ngưng tuyệt bất thơng
thanh tạm yết
Ngừng đứt nên phút
bặt tiếng tơ
Biệt hữu u sầu ám hận
hữu thanh giờ càng hay.
(2) Theo lời Xuân Diệu kể trong <b>Confession d'un poète</b>, thì Huy Cận là người
đầu tiên sử dụng enjambement avec rejet:
Thức dậy nắng vàng ngang mái nhạt
Buồn gieo theo bóng lá đung đưa
Bên thềm - Ai nấn lịng tơi rộng
Cho trải mênh mông buồn xế trưa.
Thực ra, trong Kinh Thi, người xưa "tình cờ" cũng đã "bắc cầu":
Khiêu hề thoát hề
Tại thành khuyết hề.
dịch:
Em nhẹ nhàng nhẩy lên
Lầu trên thành.
và Thế Lữ là người đầu tiên sử dụng bắc cầu như một kỹ thuật du nhập từ
phương Tây, trong thơ mới:
Trời cao xanh ngắt - ô kìa!
Hai con hạc trắng bay về bồng lai