PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cây cao su có tên khoa học là Heavea Brasiliensis thuộc Họ thầu dầu
(Euphorbraceae), Bộ ba mãnh vỏ (Euphorbrales). Cây cao su được tìm thấy
tại vùng châu thổ sông Amazone (Nam Mỹ), được trồng trên quy mô lớn tại
vùng Đông Nam Á, miền nhiệt đới Châu Phi từ năm 1876 và được du nhập
vào Việt Nam từ năm 1897.
Cây cao su là một cây cơng nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao. Sản
phẩm chính là mủ cao su là nguyên liệu cần thiết cho nhiều ngành cơng
nghiệp hiện nay. Ngồi ra, cây cao su còn cho sản phẩm phụ là gỗ và dầu hạt.
Cây cao su có thể trồng trên nền đất kém dinh dưỡng, đất dốc, giúp phủ xanh
đất trống, đồi núi trọc góp phần bảo vệ đất, tăng thu nhập và giúp cân bằng
môi trường sinh thái.
Trước nhu cầu thế giới cịn tăng và ích lợi nhiều mặt của cây cao su
(tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu nhập của người sản xuất, cải thiện an
sinh xã hội vùng trồng cao su, bảo vệ môi trường, phát triển các ngành công
nghiệp chế biến sản phẩm cao su và đồ gỗ cao su…), từ đầu năm 2007, Chính
phủ Việt Nam đã nâng mục tiêu 700.000 ha cây cao su lên 1 triệu ha vào năm
2015 hoặc 2020.
Khí hậu Tây Ngun nói chung và Gia Lai nói riêng phân làm hai mùa
rõ rệt: Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 với lượng mưa khá lớn
(1800 - 2000mm/năm), ảnh hưởng rất lớn đến việc cạo mủ và thu gom mủ.
Đây là nguyên nhân chính làm giảm năng suất mủ trong mùa mưa. Mùa khô
kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau với ẩm độ khơng khí thấp, nắng gắt
kèm theo gió mạnh là hai yếu tố ảnh hưởng đến sản lượng mủ cao su trong
mùa khô.
1
Công việc khai thác mủ được tiến hành đều đặn quanh năm. Do đặc
điểm khí hậu của vùng Gia Lai có mùa khơ hạn kéo dài nên thời gian khai
thác mủ được tiến hành từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 2 năm sau và nghỉ cạo
khi cây rụng lá hoàn toàn. Sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng nói
chung và cây cao su nói riêng đều phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên.
Trong đó, lượng mưa, số ngày mưa và sự phân bố mưa đã ảnh hưởng rất lớn
đến việc khai thác mủ của công nhân, đến việc hồn thành chỉ tiêu năng suất
của các nơng trường cao su.
Trước thực tế sản xuất và yêu cầu tiêu thụ, việc nắm bắt được diễn biến
năng suất mủ của cao su sẽ giúp các nhà quản lý lên kế hoạch quản lý sản
phẩm cũng như đưa ra các biện pháp kỹ thuật phù hợp, khoán sản lượng vườn
cây cho từng nông trường để nâng cao hiệu quả sản xuất cũng như hiệu quả
kinh tế của đơn vị sản xuất – kinh doanh.
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Theo dõi diễn biến năng suất mủ của một số dịng vơ tính cao su tại
Nông trường Thống Nhất thuộc công ty cao su Chư Prông, Gia Lai.”
1.2. Giới hạn đề tài
Cao su là cây lâu năm do đó địi hỏi phải có thời gian dài để theo dõi,
do thời gian thực hiện đề tài có hạn nên chúng tơi chỉ tiến hành thu thập, theo
dõi và đánh giá một số chỉ tiêu về năng suất mủ, điều kiện thời tiết ảnh hưởng
đến hoạt động khai thác của nơng trường để góp phần vào việc khoán sản
lượng vườn cây cho từng đội của nông trường.
2
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Giới thiệu về cây cao su
Nguồn gốc: Cây cao su được tìm thấy tại vùng châu thổ sông Amazone
(Nam Mỹ) bao gồm các nước: Brazil, Bolivia, Peru, Colombia, Ecuado,
Venezuela, Guiyane thuộc Pháp…ở khu vực 5 0 vĩ Bắc và Nam. Đây là một
vùng nhiệt đới ẩm ướt, lượng mưa trên 2000mm, nhiệt độ cao và đều quanh
năm, có mùa khơ kéo dài 3 - 4 tháng, đất thuộc loại đất sét tương đối giàu
dinh dưỡng, có độ pH = 4,5 - 5,5, tầng đất canh tác sâu, thốt nước trung
bình. Cây cao su trong tình trạng hoang dại là một cây rừng lớn, thân thẳng,
cao 30 – 50m, chu vi thân đạt 5 - 7m, tán lá rộng và sống trên 100 năm. Cây
lưỡng bội (2n) có số nhiễm sắc thể là 2n = 36, hoa đơn tính đồng chu [1], [5].
Giá trị của cây cao su: Cây cao su được trồng trên thế giới với với quy
mô lớn là nhờ vào sản phẩm đặc biệt của cây là mủ cao su, đó là một nguyên
liệu cần thiết cho nhiều ngành công nghiệp hiện nay. Ngồi ra, cây cao su cịn
cho các sản phẩm khác cũng có cơng dụng khơng kém phần quan trọng như
gỗ, dầu hạt…Cây cao su cịn có tác dụng bảo vệ môi trường sinh thái, cải
thiện điều kiện kinh tế - xã hội nhất là ở các vùng trung du, miền núi, góp
phần bảo vệ an ninh quốc phịng tại các vùng biên giới [2], [5].
2.2. Tình hình sản xuất, tiêu thụ cao su trên thế giới và trong nước
2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ cao su trên thế giới
+ Tình hình sản xuất:
Đến năm 2007, sản lượng cao su thiên nhiên toàn thế giới đạt 9,725
triệu tấn. Thái Lan là nước dẫn đầu về sản lượng với 3.056 ngàn tấn, chiếm
31,6% thị phần thế giới. Indonesia đứng thứ hai với sản lượng 2.797 ngàn tấn,
chiếm 28,8% thị phần thế giới. Malaysia đứng thứ ba với sản lượng 1.200
ngàn tấn, chiếm 12,3% thị phần thế giới. Ấn Độ là nước có sản lượng đứng
3
thứ tư thế giới với sản lượng 807 ngàn tấn. Việt Nam đứng thứ năm với 602
ngàn tấn, chiếm 6,2% thị phần thế giới.
Tính đến thời điểm năm 2009 thì sản lượng cao su thiên nhiên của thế
giới có xu hướng giảm sút. Theo Hiệp hội Các nước Sản xuất cao su Thiên
nhiên thì tính đến năm 2009, diện tích cao su của thế giới là khoảng 10,2 triệu
ha với sản lượng ước đạt 9,4 triệu tấn. Trong đó, sản lượng của Thái Lan ước
đạt 2,9 triệu tấn, giảm so với 3,09 triệu tấn năm 2008. Sản lượng của
Indonesia ước tính đạt 2,59 triệu tấn, giảm so với 2,75 triệu tấn năm trước đó.
Sản lượng của Malaysia ước tính đạt 951.000 tấn, cũng giảm so với 1,07 triệu
tấn năm 2008.
Sản lượng cao su thiên nhiên trên thế giới chủ yếu do tiểu điền, với tỷ
lệ 76 – 78%. Những nước có diện tích cao su tiểu điền cao là Thái Lan
(99,2%), Malaysia (98,8%), Ấn Độ (89,7%) và Indonesia (85%).
Năng suất cao su năm 2007 được ghi nhận ở Ấn Độ là 1.767 kg/ha, tiếp
theo là Thái Lan với 1.702 – 1.706 kg/ha, Coote d’Ivoire với 1.700 kg/ha, Việt
Nam với 1.612 – 1.640 kg/ha và Cameroon với 1.600 kg/ha [12].
Do điều kiện thời tiết bất thuận nên năng suất cao su của năm 2009 có
sự giảm sút so với năm 2008. Cụ thể là ở Ấn Độ năng suất từ 1903kg/ha năm
2008 giảm xuống còn 1753kg/ha trong năm 2009, Thái Lan giảm từ
1698kg/ha xuống còn 1576kg/ha, Việt Nam giảm từ 1717kg/ha xuống cịn
1661kg/ha [13].
+ Tình hình tiêu thụ:
Năm 2007, Trung Quốc là nước tiêu thụ cao su nhiều nhất với mức
5.985 ngàn tấn, chiếm 21,6% so với thế giới gồm 2.550 ngàn tấn cao su thiên
thiên và 3.435 ngàn tấn cao su tổng hợp, tỷ lệ NR/SR là 43/57. Thứ hai là Hoa
Kỳ, tiêu thụ 2.959 ngàn tấn, chiếm 12,9% với tỷ lệ NR/SR là 34/66. Nhật Bản
xếp thứ ba, tiêu thụ 2.050 ngàn tấn, tỷ lệ NR/SR như Trung Quốc là 43/57. Ấn
4
Độ là nước thứ tư, tiêu thụ 1.141 ngàn tấn. Đức đứng thứ năm với mức tiêu
thụ 996 ngàn tấn.
Nhu cầu cao su thiên nhiên toàn cầu trong năm 2010 dự báo sẽ đạt 9,3
triệu tấn, tăng so với 8,69 triệu tấn năm 2009, trong khi nguồn cung sẽ đạt
khoảng 9,4 triệu tấn. Trung Quốc, nước tiêu thụ cao su lớn nhất thế giới,
dự kiến sẽ tăng cường nhập khẩu cao su tấm trong năm 2010 bởi chính
phủ giảm thuế nhập khẩu cao su nhằm giúp các hãng sản xuất lốp xe trong
nước thoả mãn nhu cầu tăng trong bối cảnh tiêu thụ xe hơi tăng lên [13].
2.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ cao su ở trong nước
+ Tình hình sản xuất:
Hạt cao su được du nhập và trồng thành công ở Việt Nam vào năm
1897. Vườn cao su kinh doanh đầu tiên được thiết lập tại miền Đơng Nam bộ
từ năm 1906. Diện tích cao su tiếp tục phát triển đến mức cao nhất là 108.400
ha vào năm 1944 trước khi suy giảm do chiến tranh và chỉ còn khoảng 68.600
ha năm 1975.
Cây cao su được trồng thử nghiệm ở miền Bắc vào năm 1958. Sau đó
được phát triển trên quy mô lớn từ năm 1961 và đạt 6.725 ha vào năm 1963.
Một số vườn bị bão tác hại, đến năm 1975 chỉ còn 4.528 ha.
Tại Tây Nguyên, cây cao su được trồng thử vào những năm 1920.
Những vườn kinh doanh đầu tiên được phát triển từ năm 1957 và đến năm
1975, diện tích cao su tại đây là 3.490 ha.
Năm 1976, tổng diện tích cao su khoảng 76.600 ha và sản lượng đạt
40.200 tấn, phần lớn là dạng cao su đại điền, cao su tiểu điền chỉ có khoảng
4.000 ha.
Từ năm 1982, Nhà nước đã có chủ trương phát triển diện tích cao su
lên đến 700.000 ha vào năm 2015 hoặc 2020 [8]. Những năm 1980, diện tích
cao su trồng mới tăng nhanh từ 5.000 ha/năm lên 20.000 ha/năm. Trong
5
những năm 1990, cao su tiểu điển được khuyến khích phát triển trong những
dự án của Nhà nước hoặc do tư nhân tự đầu tư [13].
Đến năm 2007, Chính phủ điều chỉnh mục tiêu phát triển cây cao su
tăng đến 1 triệu ha vào năm 2015 – 2020 và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư
khoảng 2.000 ha cao su tại Lào và Campuchia.
Năm 2007, diện tích cao su cả nước khoảng 549.600 ha, tăng 27.400 ha
hoặc 5,2% so với năm 2006, đạt diện tích lớn nhất trong các cây cơng nghiệp
lâu năm. Diện tích được khai thác là 373.300 ha và sản lượng đạt 610.700 tấn,
tăng 8,3% với năng suất bình quân đạt 1,612 kg/ha, tăng 3,4% so với năm
2006. Diện tích tái canh khoảng 7.000 ha, trong đó có một số diện tích bị ngã
đổ do gió bão năm 2006 là gần 2.000 ha. So với 30 năm trước (1977), diện
tích cao su đã tăng gấp 7 lần và sản lượng tăng gấp 17 lần nhờ vào năng suất
đã tăng đáng kể, gấp 2,3 lần.
Nhu cầu cao su của thế giới gia tăng và giá cả thuận lợi trong những
năm gần đây đã khuyến khích Chỉnh phủ Việt Nam hỗ trợ việc đầu tư mở
rộng diện tích cao su 100.000 ha ở Lào và 100.000 ha ở Campuchia.
Đến năm 2007, các doanh nghiệp Việt Nam đã trồng được khoảng
21.000 ha cao su tại Lào và 260 ha tại Campuchia. Kế hoạch trồng mới năm
2008 là khoảng 10.000 ha tại Lào và 1.900 ha tại Campuchia.
Theo kế hoạch đến năm 2008, Tập đồn Cơng nghiệp Cao su Việt Nam
và các thành viên trực thuộc là những doanh nghiệp có diện tích cao su tại
Lào và Campuchia chiếm tỷ lệ lớn hơn 65%. Những doanh nghiệp khác là
Công ty cao su Đăk Lăk, Cơng ty BIDINA (Bình Định) [12].
Hiệp hội cao su Việt Nam (VRA) cho biết, nhờ có một chiến lược phát
triển đúng hướng, sản xuất cao su của Việt Nam đã tăng mạnh trong ba năm
qua, từ 601.700 tấn cao su trong năm 2007 lên 662.900 tấn trong năm 2008 và
723.700 tấn vào năm 2009. Năng suất bình quân đã tăng từ 1.612 kg /ha trong
năm 2007 lên 1.661 kg/ha năm 2008 kg và 1.717 trong năm 2009.
6
Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nơng thơn,
năm 2009, tổng diện tích cây cao su đạt 674.200 ha, tăng 42.700 ha (13,5%)
so với năm 2008. Trong đó, diện tích cho khai thác là 421.600 ha (chiếm
62,5% tổng diện tích), với sản lượng đạt 723.700 tấn, tăng 9,7% so năm 2008.
Diện tích trồng cao su tập trung chủ yếu ở Đông Nam bộ (64%), kế đến là
Tây Nguyên (24,5%) và duyên hải miền Trung (10%). Diện tích cây cao su ở
vùng Tây Bắc mới đạt khoảng 10.200 ha (chiếm 1,5%).
Hiện nay, diện tích cao su của Việt Nam được xếp thứ 6 (chiếm khoảng
6,4% tổng diện tích cao su thế giới), sản lượng xếp thứ 5 (khoảng 7,7% tổng
sản lượng cao su thế giới) và xuất khẩu đứng thứ 4 (khoảng 9%). Những
thành tựu này của ngành cao su sẽ tạo bàn đạp cho sức bứt phá trong năm
2010 và những năm tiếp theo để sớm đạt mục tiêu 800.000 ha với sản lượng
1,2 triệu tấn cao su, kim ngạch xuất khẩu đạt 2 tỷ USD vào năm 2010 theo
mục tiêu của Chính phủ đề ra.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dự kiến, năm 2010 ngành sẽ
phát triển thêm 40.000 ha, đưa diện tích cao su cả nước lên 715.000 ha, tăng
sản lượng đạt khoảng 770.000 tấn [11].
+ Tình hình tiêu thụ:
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải Quan, năm 2007, cao su Việt
Nam đã xuất được 714.887 tấn, trị giá 1,39 tỷ USD với giá bình quân là 1.948
USD/tấn, tăng hơn năm trước 1% về lượng, 8,3% về trị giá và 7,2% về đơn giá.
Lượng cao su thiên nhiên nhập vào Việt Nam năm 2007 ước khoảng
130.300 tấn, chủ yếu tạm nhập để tái xuất. Thị trường nhập phần lớn ở Thái
Lan (30%) và Campuchia (29%), kế tiếp là Indonesia (7,6%) và Malaysia
(5,8%). Lượng cao su xuất khẩu ròng của Việt Nam năm 2007 khoảng
551.600 tấn quy khô. Chủng loại cao su xuất khẩu nhiều nhất trong năm 2007
là cao su khối SVR3L, đạt 308,5 ngàn tấn, chiếm 43,2%. Kế đến là cao su
SVR 10, đạt 116,3 ngàn tấn, chiếm 16,3% và latex đạt 82.428 tấn (tương
7
đương 49.457 tấn mủ khô), chiếm 11,5%. Cao su hỗn hợp chỉ đạt 42,4 ngàn
tấn, chiếm 5,9%. Những chủng loại có số lượng ít là SVR 20, cao su tờ RSS,
RSS 3 và cao su SVR CV.
Năm 2007, thị trường xuất khẩu cao su của Việt Nam có trên 40 nước,
nhưng lớn nhất vẫn là Trung Quốc, mặc dù đã giảm hơn năm trước nhưng vẫn
chiếm đến 58,2% thị phần, đạt 415,6 ngàn tấn với trị giá là 816,7 triệu USD.
Các thị trường khác chỉ ở mức 5% trở xuống, chiếm từ 4 – 5% là Hàn Quốc,
Malaysia, Đài Loan, Đức. Trong đó, thị trường Malaysia tăng rất đáng kể, gấp
hơn 2 lần so với năm 2006, đạt trên 34 ngàn tấn.
Năm 2009, Việt Nam đã xuất khẩu cao su thiên nhiên sang 71 nước,
không sụt giảm nhiều so với năm 2008 (năm 2008 là 73 thị trường). Trung
Quốc vẫn là thị trường dẫn đầu với số lượng khoảng 494,62 ngàn tấn quy khô,
chiếm 67,6 % về lượng và tăng khoảng 6,6 % so với cùng kỳ năm trước, đạt
trị giá 789 triệu USD. Ngoài thị trường Trung Quốc, một số thị trường cũng
tăng trưởng mạnh trong năm 2009 là Malaysia: 33,94 ngàn tấn (tăng 81,5%),
Đài Loan: 23,97 ngàn tấn (tăng 29,0 %), Hàn Quốc: 23,6 ngàn tấn (tăng
3,2%), Bỉ: 15,10 ngàn tấn (tăng 172,6 %), Ấn Độ: 5.800 tấn (tăng 137,2 %).
Những thị trường lớn sụt giảm là Đức: 19,34 ngàn tấn (-4,7%), Hoa Kỳ: 14,22
ngàn tấn (-12,5%), Nga: 11,1 ngàn tấn (-4,9%) và Nhật: 8,57 ngàn tấn (- 19,1%).
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, xuất khẩu cao su thiên nhiên năm 2009
đạt 731,39 ngàn tấn, trị giá 1,226 tỷ USD với đơn giá bình quân là 1.677
USD/tấn, tăng 11,1% về lượng nhưng giảm 23,5% về trị giá và giảm 31,1%
về giá so với năm 2008 [12].
2.3. Yêu cầu điều kiện sinh thái của cây cao su
2.3.1. Khí hậu
+ Nhiệt độ:
Cây cao su cần nhiệt độ cao và đều với nhiệt độ thích hợp nhất là từ 20
0
C - 30 0 C, trên 40 0 C cây khơ héo, dưới 10 0 C cây có thể chịu đựng được
8
trong thời gian ngắn nếu kéo dài cây sẽ bị nguy hại như lá cây bị héo, rụng,
chồi ngọn ngưng tăng trưởng, thân cây cao su kiến thiết cơ bản sẽ bị nứt nẻ, xì
mủ. Nhiệt độ thấp 5 0 C kéo dài sẽ dẫn đến chết cây. Ở nhiệt độ 25 0 C năng
suất cây đạt mức tối ưu. Nhiệt độ mát dịu vào buổi sáng sớm (1 – 5 giờ sáng)
giúp cây sản xuất mủ cao nhất.
Các vùng trồng cao su trên thế giới hiện nay phần lớn ở vùng khí hậu
nhiệt đới có nhiệt độ bình qn năm là 28 0 C 2 0 C và biên độ nhiệt trong
ngày là 7 0 C – 8 0 C.
+ Lượng mưa:
Cây cao su có thể trồng ở các vùng đất có lượng mưa từ 1500 –
2000mm/năm. Tuy vậy, các vùng có lượng mưa thấp hơn 1500mm/năm thì
lượng mưa cần phân bố đều trong năm, đất phải có khả năng giữ nước tốt, đất
có thành phần sét khoảng 25%. Ở những nơi khơng có điều kiện thuận lợi cây
cao su cần lượng mưa 1800 – 2000mm/năm.
Các trận mưa tốt nhất cho cây cao su là 20 – 30mm và mỗi tháng có
khoảng 150mm nước mưa, dưới 100mm cây cao su chậm sinh trưởng, phát
triển. Số ngày mưa tốt nhất là 100 – 150 ngày/năm. Các trận mưa lớn kéo dài,
nhất là các trận mưa vào buổi sáng gây trở ngại cho việc cạo mủ đồng thời
làm tăng khả năng lây lan, phát triển của các loại nấm bệnh gây hại trên mặt
cạo cây cao su. Mưa vào buổi sáng làm cho mất mủ, làm chậm trễ việc cạo
mủ, mất mủ tạp từ đó làm giảm sản lượng mủ.
+ Gió:
Gió nhẹ 1 – 2 m/s có lợi cho cây cao su vì nó giúp vườn cây thơng
thống, hạn chế được bệnh và giúp vỏ cây mau khô sau khi mưa. Trồng cao su
ở nơi có gió mạnh thường xuyên, gió bão, gió lốc sẽ làm gãy cành, gẫy thân
do gỗ cao su dòn, dễ gãy và làm trốc gốc, đổ cây, nhất là những vùng đất cạn,
rễ cao su không phát triển sâu và rộng được.
+ Giờ chiếu sáng, sương mù:
9
Giờ chiếu sáng ảnh hưởng trực tiếp tới cường độ quang hợp của cây,
ảnh hưởng đến mức tăng trưởng và năng suất của cây. Ánh sáng đầy đủ giúp
cây ít bệnh, tăng trưởng nhanh và năng suất cao. Số giờ chiếu sáng được ghi
nhận tốt nhất cho cây cao su bình qn là 1800 – 2800 giờ/năm và tối thích là
khoảng 1600 – 1700 giờ/năm.
Sương mù nhiều gây một tiểu khí hậu ẩm ướt tạo điều kiện cho các loại
nấm bệnh phát triển và tấn công cây cao su như trường hợp bệnh phấn trắng
do nấm Oidium gây nên ở mức độ nặng ở các vùng trồng cao su Tây Nguyên
do sương mù buổi sáng xuất hiện thường xuyên [2].
2.3.2. Đất đai
+ Cao trình: Cây cao su thích hợp với các vùng đất có cao trình tương
đối thấp (<200m), càng lên cao càng bất lợi do độ cao của đất tương quan với
nhiệt độ và gió mạnh.
+ Độ dốc: Độ dốc có liên quan đến độ phì đất. Đất càng dốc xói mịn
càng mạnh khiến dinh dưỡng trong đất nhất là ở lớp đất mặt mất đi nhanh
chóng. Khi trồng cao su trên các vùng đất dốc cần phải thiết lập các hệ thống
bảo vệ đất chống xói mịn rất tốn kém như hệ thống đê, mương, đường đồng
mức…Hơn nữa các diện tích cao su trồng trên đất dốc sẽ gặp khó khăn lớn
trong cơng tác cạo mủ, thu mủ và vận chuyển mủ về nhà máy chế biến. Do
vậy trong điều kiện có thể lựa chọn được nên trồng cao su ở các vùng đất ít dốc.
+ Lý và hóa tính đất:
pH thích hợp cho cây cao su là 4,5 – 5,5. Theo Edgar (1960), giới hạn
pH đất có thể trồng cao su là 3,5 – 7,0.
Độ sâu tầng đất canh tác: Đất trồng cao su lý tưởng phải có tầng canh
tác sâu 2m trong đó khơng có tầng trở ngại cho sự tăng trưởng của rễ cao su
như lớp thủy cấp treo, lớp laterit hóa dày đặc, lớp đá tảng…Tuy nhiên, trên
thực tế các loại đất có độ sâu tầng canh tác từ 1m trở lên có thể xem là đạt yêu
cầu để trồng cao su.
10
Thành phần hạt (sa cấu): Đất có thể trồng cao su phải có thành phần sét
ở lớp đất mặt (0 - 30cm) tối thiểu 20% và lớp đất sâu hơn (>30cm) tối thiểu là
25%. Ở nơi có mùa khơ kéo dài, đất phải có thành phần sét 30 - 40% mới
thích hợp cho cây cao su.
Chất dinh dưỡng trong đất: Đối với cây cao su, các chất dinh dưỡng
không phải là yếu tố giới hạn nghiêm trọng nhưng nếu trồng cao su trên các
loại đất nghèo dinh dưỡng thì cần phải đầu tư nhiều phân bón sẽ làm tăng chi
phí đầu tư khiến hiệu quả kinh tế kém đi [2].
Bảng 2.1. Bảng thang chuẩn đánh giá đất trồng cao su tại Việt Nam
(tầng 0 – 30 cm)
Chỉ tiêu
Mùn (%)
N (%)
P2O5ts (%)
K2Ots (%)
P2O5dt (mg%)
K2Odt (mg%)
Mg++ (lđ%)
T (lđl/100g)
V (lđl/100g)
Rất thấp
<0,5
<0,05
<0,005
<0,005
<0,5
<0,47
<0,1
<1
<10
Thấp
0,5-1,0
0.05-0,10
0,005-0,025
0,005-0,024
0,5-1,0
0,7-2,63
0,1-0,5
1-2
10-20
Trung bình
1,0-2,5
0,10-0,15
0,025-0,05
0,024-0,094
1,0-3,0
2,36-4,71
0,5-2,0
2-5
20-40
Cao
2,5-6,0
0,15-0,25
0,05-0,08
0,094-0,188
3,0-9,0
4,71-9,42
2,0-6,0
5-10
>40
Rất cao
>6,0
>0,25
>0,08
>0,188
>9,0
>9,42
>6,0
>10
Nguồn: Nguyễn Thị Huệ (2007) [5].
2.4. Sinh lý của cây cao su trong thời gian khai thác mủ
2.4.1. Ảnh hưởng của việc cạo mủ đến sinh trưởng của cây cao su
Cũng như các loại thực vật khác, dù có sản xuất mủ hay không cây cao
su vẫn tăng trưởng thường xuyên và liên tục. Sự tăng trưởng của cây được
biểu diễn bằng khối lượng chất khô gia tăng của cây. Một cơng thức tính
chung về mối tương quan giữa vanh thân cây và trọng lượng khô của cây
được Webster (1989) ghi nhận như sau:
W = aG b
W: Trọng lượng cây
G: Vanh thân
a, b: hằng số
11
Shorrock (1965) đã cụ thể hóa phương trình trên: W = 0,0026G 2,76
Khi cây được cạo theo một nhịp độ đều đặn, các chất đồng hóa được
trong cây sẽ được sử dụng để vừa đảm bảo mức tăng trưởng thực vật của cây,
vừa sản xuất được một khối lượng mủ tiết ra hàng ngày qua việc cạo mủ. Do
vậy, khi cạo mủ mức tăng trưởng của cây sẽ bị giảm so với trường hợp cây
không cạo mủ. Một cách tổng quát, sản lượng cây càng nhiều có thể do cạo
cường độ cao, bơi thuốc kích thích mủ…thì mức tăng trưởng của cây càng
chậm. Có kết quả nghiên cứu cho thấy cứ 1kg mủ khô sản xuất tương đương
sự mất gia tăng 1 – 2,5kg trọng lượng thân. Ngoài ra còn ghi nhận thêm là
việc cạo mủ chẳng những làm giảm bớt sự gia tăng trọng lượng thân cây mà
còn gây nên sự thay đổi về tỷ lệ gia tăng giữa thân và tán cây, thường gia tăng
nhiều phần tán cây cho nên ở cây cạo mủ tỷ lệ ngã đổ nhiều hơn cây không
cạo mủ. Cường độ cạo mủ càng cao thì sự sụt giảm của vanh thân càng lớn [5].
2.4.2. Phản ứng của cây khi khai thác mủ
Có sự khác biệt sinh lý giữa cây cạo mủ và cây khơng cạo mủ hay nói
cách khác việc cạo mủ có ảnh hưởng đến sinh lý của cây cao su.
Khi cạo mủ lấy đi một khối lượng mủ nước theo chế độ cạo khác nhau
đã bắt buộc các tế bào ống mủ phải hoạt động mạnh để tái tạo khối lượng mủ
nước đã mất đi. Khai thác cao su hợp lý sẽ tạo nên sự cân bằng giữa hoạt
động tái tạo mủ của các tế bào ống mủ với những hoạt động sinh lý khác
trong cây nhằm đảm bảo thu được khối lượng mủ nhiều mà không ảnh hưởng
đến đời sống lâu dài của cây.
Khi cạo lần đầu tiên, mủ cây chảy ra rất đậm đặc và ngưng chảy nhanh.
Cạo liên tục theo một chu kỳ nhất định sẽ làm cho mủ bớt đậm đặc và thu
được một khối lượng mủ nhất định. Lúc đó bên trong thân cây đã tạo được
cân bằng giữa sự chảy mủ và sự tái tạo mủ mới. Khi cạo liên tục, hàm lượng
cao su chứa trong mủ nước bên trong tế bào ống mủ thấp hơn cây không cạo.
12
Khi cạo mủ, lưu lượng mủ chảy ra trong thân cây rất nhiều, sau đó
giảm dần và ngừng hẳn sau khi cạo từ 1 - 3 giờ. Sản lượng mủ thu được tùy
thuộc vào hai yếu tố: lưu lượng mủ chảy ra và thời gian chảy mủ. Ở hai giống
cây có cùng sản lượng giống nhau nhưng dịng chảy mủ có thể hồn tồn khác
nhau. Lưu lượng dịng chảy mủ là một đặc tính của giống cây. Có giống có
lưu lượng chảy mủ ban đầu rất nhiều, sau đó giảm nhanh và ngưng chảy hẳn
sau khoảng 1 giờ. Trái lại, có giống ban đầu có lưu lượng chảy khơng cao
nhưng thời gian chảy mủ kéo dài [5].
2.5. Thời gian cạo mủ trong năm
Cây cao su có đặc điểm là thời gian khai thác mủ có thể tiến hành đều
đặn gần như quanh năm, chỉ nghỉ cạo vào thời gian cây rụng lá và khi tán lá
ổn định thì vườn cây mới tiếp tục được khai thác. Ở một số nước giữ công
nhân cạo mủ bằng cách cho khai thác mủ quanh năm.
Nghỉ cạo lúc cây rụng lá qua đông: Cây cao su có một đặc điểm sinh lý
là hàng năm vào một thời điểm nhất định khoảng vào tháng 12 (âm lịch), cây
rụng lá hoàn toàn và một thời gian sau cây lại ra lá mới và phát triển ổn định.
Trong thời gian ra lá non cây phải huy động một lượng lớn các chất
dinh dưỡng trong thân cây để tái tạo một khối lượng lớn tế bào thực vật. Do
vậy cần tránh cạo mủ từ lúc cây rụng lá hoàn toàn cho đến lúc tán lá phát triển
ổn định thì mới được khai thác tiếp. Thời gian rụng lá của cây cao su kéo dài
từ 40 – 50 ngày tùy từng khu vực và điều kiện thời tiết mà thời điểm rụng lá
của cây khác nhau. Ở Việt Nam, cây rụng lá vào khoảng thời gian tết Nguyên Đán.
Nghỉ cạo do mưa: Các trận mưa lớn kéo dài, nhất là các trận mưa vào
buổi sáng gây trở ngại cho việc cạo mủ và làm tăng khả năng lây lan và phát
triển của các loại nấm bệnh như: loét sọc mặt cạo, thối mốc mặt cạo…Do đó,
khi mưa kéo dài từ đêm đến trưa ngày hơm sau thì phải nghỉ cạo nguyên ngày
do vậy làm mất mủ hoàn toàn. Khi mưa kết thúc sớm vào buổi sáng (khoảng 8
– 9 giờ) thì phải cạo muộn do phải chờ cây khơ làm mất đi một phần sản
13
lượng từ 10% đến 40 – 50%. Trút mủ sớm nếu mưa ngay sau khi cạo một số
cây trong phần cây và làm mất mủ tạp nếu mưa ngay sau khi trút mủ nước. Vì
vậy, mưa trong thời gian khai thác sẽ làm mất đi một phần sản lượng mủ.
Nghỉ cạo do bệnh lá:
+ Bệnh phấn trắng: Nguyên nhân do nấm Oidium hevea. Bệnh phổ biến
vào giai đoạn cây cao su ra lá mới từ tháng 1 – 3 hàng năm. Bệnh tấn công
gây rụng lá khiến cây mất đi nhiều dinh dưỡng làm chậm thời gian khai thác.
Bệnh thường kéo dài từ 10 – 15 ngày, cá biệt có thể kéo dài 2 tháng. Ở Tây
Nguyên, do số ngày có sương mù vào buổi sáng nhiều nên tỷ lệ cây bị nấm
phấn trắng nhiều hơn ở vùng Đông Nam Bộ.
+ Bệnh rụng lá mùa mưa: Vào thời gian mưa dầm (tháng 7, 8, 9) vườn
cây có thể xuất hiện bệnh rụng lá mùa mưa. Nếu bệnh nặng sẽ làm cho sản
lượng mủ giảm do phải nghỉ cạo một thời gian [5].
2.6. Diễn biến năng suất mủ của cây cao su
Diễn biến trong năm: Mủ cao su phân bố không đều trong năm. Năng
suất mủ thấp nhất vào các tháng bắt đầu cạo sau khi cây rụng lá qua đông,
nhưng hàm lượng mủ cao. Mủ cao su tăng dần vào các tháng tiếp theo và đạt
cao nhất vào ba tháng cuối năm, sau đó cây nghỉ cạo cho đến khi tán lá phát
triển ổn định.
Diễn biến theo chu kỳ kinh doanh: Cây cao su được trồng từ 5 – 7 năm
thì có thể đưa vào khai thác mủ khi trong vườn cây có từ 50% số cây đủ tiêu
chuẩn khai thác trở lên. Khi cây mới đưa vào khai thác thì năng suất thấp sau
đó tăng dần và đạt tối đa vào năm cạo thứ 9 – 12 và kéo dài đến năm thứ 16 – 20,
sau đó sản lượng của vườn cây lại giảm dần. Khi vườn cây cho năng suất tối
thiểu thì bị thanh lý để khai thác gỗ [5].
2.7. Những nghiên cứu trong và ngoài nước
2.7.1. Những nghiên cứu ngoài nước
14
Sanjeevaras, Tayarathnan, Sethuraj (1990) nghiên cứu một số chỉ tiêu
để đánh giá sự thích nghi với chế độ mưa và nhiệt độ của các vùng trồng cao
su ở Ấn Độ đưa ra nhận xét:
+ Lượng mưa phân bố đều và nhiệt độ tối ưu là hai yếu tố khí hậu chính
cho sự tăng trưởng và sản xuất mủ của cây cao su.
+ Những vùng có nhiệt độ trung bình tối thiểu < 10 0 C và nhiệt độ tối
đa > 40 0 C ở bất cứ tháng nào, lượng mưa < 1400mm/năm và cao độ > 600m
so với mặt biển được gọi là giới hạn không thể trồng cao su [10].
Mak.S, Yin.S và Pookpakdi (2006) nghiên cứu ảnh hưởng của tưới
nước và phân bón đến năng suất và chất lượng mủ cao su tại Thái Lan cho
thấy: tưới nước và bón phân làm tăng năng suất mủ. Tuy nhiên, hàm lượng
cao su khơ trong mủ có giảm so với khơng tưới nước [7].
2.7.2. Những nghiên cứu trong nước
Viện nghiên cứu cao su trong nhiều năm đã thực hiện nhiều đề án
nghiên cứu về cơ cấu giống thích hợp cho từng địa phương. Trong đó có
nhiều đề án mang tầm vĩ mô như: “Xây dựng và triển khai cơ cấu bộ giống
cao su địa phương hóa năm 1996 - 2000”, “Xây dựng và triển khai cơ cấu bộ
giống cao su Đông Nam Bộ giai đoạn 2000 - 2002”, “Thực nghiệm giống cao su
triển vọng ở miền Bắc”, “Nghiên cứu chọn giống cao su vùng Tây Nguyên và
miền Trung”. Từ đây, Viện đã đưa ra khuyến cáo quan trọng cho từng giống:
* GT1: Sinh trưởng và sản lượng trung bình, ổn định trong các điều
kiện khác nhau nên được sử dụng làm giống đối chứng trong vườn so sánh ở
nhiều nước. Ở Việt Nam nên hạn chế trồng GT1 ở vùng thuận lợi (Đơng Nam
Bộ) do thành tích kém hơn nhiều giống hiện có. GT1 thích hợp ở vùng bất
thuận tại Tây Nguyên và miền Trung. Mủ có thể sơ chế thành nguyên liệu có
giá trị cao.
* RRIM600: Năng suất mủ khá và rất ổn định, sinh trưởng bình thường
nhưng tăng trưởng trong khi cạo khá. Giống này trước đây có vấn đề về bệnh
15
nấm hồng và loét sọc mặt cạo, nhưng hiện nay bệnh đã phịng trị được nên có
thể trồng ở hầu hết các vùng. Mủ sơ chế được nguyên liệu có giá trị cao đồng
thời mủ nước đôi khi để dành phối trộn với các giống khác vì RRIM600 là
một giống có độ nhầy Mooney thấp đến trung bình.
* PB235: Thành tích biến động, nổi bật hẳn so với các giống khác ở
điều kiện thuận lợi nhưng giảm sút rõ trong điều kiện bất thuận. Hiện được
khuyến cáo trồng ở mức độ hạn chế ở nhiều nước do dễ bị khô miệng cạo và
kháng gió kém, nên hạn chế trồng PB235 ở Đông Nam Bộ do đã chiếm tỷ lệ
rất cao. Khơng nên trồng ở Tây Ngun có do cao trình cao, bệnh phấn trắng
nặng và vùng miền Trung hay xảy ra gió bão [14].
Đỗ Kim Thành (1998), nghiên cứu biến thiên năng suất mủ theo mùa
vụ của cây cao su tại những vùng trồng cao su chính ở Việt Nam cho thấy:
năng suất mủ của tất cả các dịng vơ tính cho năng suất thấp ở 6 tháng đầu
năm và năng suất tăng cao trong mùa mưa, đạt cao nhất vào 3 tháng cuối năm [8].
Trần Ngọc Duyên (2000), nghiên cứu diễn biến năng suất mủ cao su
theo mùa của một số dịng vơ tính cao su tại Đăk Lăk cho thấy: Mùa khô kéo
dài nên năng suất mủ 6 tháng đầu năm thấp. Trong mùa mưa, năng suất mủ
tăng khá đều nhưng do lượng mưa lớn và số ngày mưa nhiều đã ảnh hưởng
đến năng suất vườn cây, nghiêm trọng nhất là tháng 9. Vào 3 tháng cuối năm,
cây cho năng suất cao nhất do các điều kiện khí hậu thuận lợi: ít mưa, nhiệt
độ và độ ẩm thích hợp cho thời gian chảy mủ của cây cao su [3].
Phạm Thi Hịa (2004), tìm hiểu diễn biến năng suất mủ cao su theo mùa
vụ của một số dịng vơ tính tại Cơng ty cao su Chư Prơng, Gia Lai cho thấy:
năng suất của một số dịng vơ tính tăng cao trong các tháng mùa mưa và năng
suất tăng cao nhất vào 3 tháng cuối năm đặc biệt là tháng 12 [4].
PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
16
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các dịng vơ tính cao su: GT1, PB235, RRIM600.
- Loại hình vườn cao su: Vườn cao su kinh doanh nhóm II (trồng năm 1990).
3.2. Tổng quan khu vực nghiên cứu
Công ty Cao su Chư Prông (thuộc Tập đồn Cơng nghiệp Cao su Việt
Nam) thành lập ngày 3 tháng 2 năm 1977, có diện tích cao su 6.600 ha, nằm
trên địa bàn 11 xã, thị trấn biên giới vùng sâu vùng xa huyện Chư Prông, tỉnh
Gia Lai. Mặc dù là một đơn vị có quy mơ nhỏ, nằm ở một địa bàn giáp biên
giới tương đối phức tạp nhưng những năm qua Công ty cao su Chư Prơng đã
vượt qua mọi khó khăn để trở thành một trong những doanh nghiệp hàng đầu
của Tập đồn Cơng nghiệp cao su Việt Nam ở khu vực Tây Nguyên. Hiện
cơng ty có 6 nơng trường, 1 nhà máy chế biến cao su công suất 6.000 – 7.500
tấn/năm, 1 nhà máy sản xuất phân hữu cơ vi sinh công suất 5.000 tấn/năm, 1
nhà máy chế biến gỗ cao su và rừng trồng công suất 6.000m 3/năm và 1 trung
tâm y tế với tổng cộng hơn 2.000 cán bộ, công nhân viên.
Huyện Chư Prông là một trong 16 đơn vị hành chính cấp huyện của
tỉnh Gia Lai. Trung tâm huyện cách thành phố Pleiku khoảng 40 km về phía
Tây Nam, có đường biên giới kéo dài giáp với nước bạn Campuchia, do đó
huyện khơng những có thế mạnh về phát triển kinh tế mà cịn có vị trí đặc biệt
quan trọng trong việc giữ vững an ninh quốc phòng và chủ quyền biên giới
quốc gia. Huyện có 20 xã, thị trấn với 174 thôn, làng gồm 21.501 hộ với
97.472 nhân khẩu, tỷ lệ đói nghèo chiếm 19,17%. Trên địa bàn huyện có 13
dân tộc anh em sinh sống, trong đó có 9.727 hộ với 49.606 khẩu, chiếm
46,99% dân số toàn huyện [9].
Địa bàn cơng ty chịu ảnh hưởng của khí hậu vùng cao với địa hình
nhiều đồi và thung lũng, cao trình 300-350m, nằm trong khu vực nhiệt đới gió
mùa và chia làm hai mùa rõ rệt (mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô
từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau), nhiệt độ trung bình năm là 21,9 0C. Theo kết
17
quả theo dõi khí tượng tại trạm khí tượng thành phố Pleiku thì khí hậu ở khu
vực cơng ty cao su Chư Prơng nói riêng và huyện Chư Prơng nói chung là phù
hợp cho sự sinh trưởng, phát triển của cây cao su. Tuy nhiên, ở đây có lượng
mưa phân bố không đều trong năm, mùa mưa chiếm khoảng 90% lượng mưa
cả năm gây hiện tượng thừa nước, xói mịn và rửa trôi đất. Ngược lại vào mùa
khô lại thiếu nước trầm trọng, nhất là vào tháng 2 và tháng 3 gây ảnh hưởng
lớn đến năng suất vườn cây.
Nông trường Thống Nhất là một trong 6 nông trường của Công ty cao
su Chư Prông. Hiện nông trường đang quản lý 5 đội sản xuất với 1350 ha cao
su, trong đó gồm 825,4 ha cao su kinh doanh bao gồm các giống GT1,
RRIM600, PB235 và 524,6 ha cao su kiến thiết cơ bản bao gồm các giống
GT1, RRIM600, PB235, RIV3.
3.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 3 đến tháng 6/2010.
- Địa điểm nghiên cứu: Vườn cao su kinh doanh tại Nông trường Thống
Nhất thuộc Công ty cao su Chư Prông, Gia Lai.
PHẦN 4. MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
18
4.1. Mục tiên nghiên cứu
Theo dõi diễn năng suất mủ của một số dịng vơ tính cao su tại Nơng
trường Thống Nhất thuộc công ty cao su Chư Prông, Gia Lai nhằm làm cơ sở
định mức khoán sản lượng vườn cây theo từng tháng, quý, năm góp phần ổn
định sản xuất và tăng hiệu quả sản xuất của nông trường.
4.2. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá một số yếu tố khí khí hậu ảnh hưởng đến năng suất mủ của
một số dịng vơ tính cao su tại Nơng trường Thống Nhất thuộc Công ty cao su
Chư Prông, Gia Lai.
- Xác định diễn biến năng suất mủ của một số dòng vơ tính cao su theo
từng tháng và từng năm tuổi tại Nông trường Thống Nhất thuộc Công ty cao
su Chư Prông, Gia Lai.
- Xây dựng biểu đồ phân bố năng suất mủ của một số dịng vơ tính cao
su tại Nông trường Thống Nhất thuộc Công ty cao su Chư Prông, Gia Lai.
- Xác định quan hệ giữa các yếu tố khí hậu với năng suất mủ cao su.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
4.3.1. Chọn lơ chọn điểm
- Mỗi dịng vơ tính chọn 2 lơ, các lơ được chọn có cùng năm khai thác,
mỗi lô chọn 3 phần cạo tương ứng với 3 lần lặp lại.
4.3.2. Phương pháp thu thập số liệu
* Số liệu sơ cấp:
- Thu thập số liệu kiểm kê vườn cây (số cây ghép, số cây thiết kế, số
cây thực cạo) trong 7 năm tại phòng kỹ thuật của nông trường.
- Thu thập số liệu về sản lượng mủ trong 7 năm (2003 – 2009) của các
phần cây được chọn tại phịng kỹ thuật của nơng trường.
19
- Thu thập số liệu khí tượng đặc trưng cho huyện Chư Prông trong 7
năm (2003 – 2009) tại trạm khí tượng Pleiku – Gia Lai. Các chỉ tiêu thu thập:
Lượng mưa, số ngày mưa, nhiệt độ, ẩm độ, lượng bốc hơi, vận tốc gió.
* Số liệu thứ cấp: thu thập số liệu từ nghiên cứu khảo nghiệm giống của
Viện nghiên cứu cao su Việt Nam về năng suất mủ từ năm cạo thứ nhất đến
năm cạo thứ 6 của 3 dịng vơ tính GT1, PB235, RRIM600 tại cơng ty cao su
Chư Prông.
4.3.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm Excel 8.0.
- Số liệu sản lượng mủ thu thập được tại nông trường được xử lý bằng
các cơng thức tính năng suất sau đây:
+ A (gam/cây/ngày cạo):
{(V x DRC) + 1/2P}
A =
x 100
E
V
: Thể tích mủ nước (lít/phần cạo/ngày cạo)
DRC
: Hàm lượng cao su khô (%)
P
: Trọng lượng mủ tạp (kg/ngày cạo/phần cạo)
E
: Số cây thực cạo/phần cạo.
+ B (gam/cây/tháng):
B=AxF
F: Số ngày thực cạo/tháng.
+ Tỷ lệ sản lượng hàng tháng (%) = B/C x 100
C: gam/cây/năm
- Phân tích hồi quy tương quan đơn giữa năng suất của dịng vơ tính
GT1 với 6 yếu tố khí hậu trong vịng 7 năm (2003 - 2009).
20
PHẦN 5. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
5.1. Đánh giá ảnh hưởng của một số yếu tố khí hậu đến sinh trưởng
và phát triển của cây cao su tại nông trường
5.1.1. Lượng mưa và số ngày mưa (biểu đồ 5.1)
+ Lượng mưa:
Tổng lượng mưa trung bình năm tại Chư Prơng là 2086,3mm và tập
trung chủ yếu vào mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10.
Lượng mưa trong năm tập trung vào mùa mưa với 1921,8mm, chiếm
92,1% tổng lượng mưa cả năm, trong đó tháng 8 là tháng có lượng mưa lớn
nhất: 488,9mm. Mùa khơ có lượng mưa rất thấp (164,4mm), chiếm 7,9%
tổng lượng mưa cả năm, riêng tháng 1 lượng mưa đạt cực tiểu (0,4mm).
Số ngày mưa
(ngày)
Biểu đồ 5.1: Diễn biến lượng mưa và số ngày mưa tại Chư Prông
21
+ Số ngày mưa:
Số ngày mưa trung bình năm tại Chư Prông là 149,9 ngày và tập trung
chủ yếu vào mùa mưa. Trong đó, tháng 7, 8, 9 là các tháng có số ngày mưa
nhiều nhất.
Trong mùa khơ, số ngày mưa rất thấp với lượng mưa khơng đáng kể.
Tháng có số ngày mưa thấp nhất là tháng 1 (0,4 ngày), kế đó là tháng 2 (1 ngày).
Nhìn chung, với lượng mưa trung bình năm 2086,3mm và số ngày mưa
149,9 ngày/năm là khá thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của cây cao su.
Tuy nhiên sự phân bố mưa lại tập trung chủ yếu trong các tháng mùa mưa nên
cũng ảnh hưởng nhiều đến sản lượng vườn cây, cụ thể như sau:
+ Số ngày mưa buổi sáng nhiều sẽ gây trở ngại cho việc cạo mủ và tùy
từng thời điểm mưa mà có thể dẫn đến: cạo trễ, trút mủ sớm, mất mủ chén hay
nghỉ cạo.
+ Mưa nhiều tạo điều kiện thuận lợi cho các loại nấm bệnh lây lan và
phát triển, phổ biến là các bệnh loét sọc mặt cạo, thối mốc mặt cạo, rụng lá
mùa mưa. Nếu không phịng trị kịp thời để bệnh nặng thì phải ngưng khai
thác, chờ cây phục hồi mới được cạo lại.
+ Vào mùa khơ thì hầu như khơng có mưa làm cho đất thiếu ẩm, khô
kiệt, cây cao su hút nước và dinh dưỡng rất khó khăn.
5.1.2. Nhiệt độ và ẩm độ khơng khí (biểu đồ 5.2)
+ Nhiệt độ:
Nhiệt độ trung bình năm tại Chư Prông là 21,9 0C, tháng 4 là tháng có
nhiệt độ cao nhất (24,10C), sau đó giảm dần qua các tháng và giảm thấp nhất
vào tháng 2 (18,20C). Trong mùa mưa thì vào đầu và cuối mùa mưa thì nhiệt
độ có phần cao hơn, nhiệt độ giảm thấp nhất vào tháng 8 đạt 22,4 0C. Vào mùa
khơ thì nhiệt độ lại có sự biến động khá rõ nét: Đầu mùa khô nhiệt độ giảm
dần từ 22,10C vào tháng 11 xuống cịn 18,2 0C vào tháng 2, sau đó lại tăng dần
và đạt cực đại vào tháng 4.
22
Theo kết quả nghiên cứu của Jaco.A, 1960 thì cây cao su có thể sinh
trưởng bình thường trong phạm vi nhiệt độ từ 22 - 30 0C, song để cây cao su
sinh trưởng tốt và đạt năng suất cao thì yêu cầu nhiệt độ khá nghiêm khắc
trong khoảng 25 - 280C và biên độ nhiệt giữa các tháng không được quá lớn.
Như vậy, với nhiệt độ trung bình năm tại Chư Prơng 21,90C thì nhiệt độ là yếu
tố hạn chế năng suất của cây cao su tại được trồng tại đây.
Biểu đồ 5.2: Diễn biến nhiệt độ và ẩm độ tại Chư Prơng
+ Ẩm độ khơng khí:
Ẩm độ khơng khí tỷ lệ thuận với lượng mưa. Vào đầu mưa ẩm độ
khơng khí tăng cao, tăng dần từ tháng 5 đạt 82,1%, đến tháng 8 thì đạt cực đại
với 92,6%, sau đó giảm dần vào các tháng mùa khơ và đạt cực tiểu vào tháng 1
với 77,1%. Ẩm độ khơng khí cao là điều kiện thuận lợi cho các loại nấm bệnh
phát triển cho nên vào các tháng mưa nhiều (tháng 7, 8, 9) thì vườn cây
thường bị gây hại bởi các bệnh như: thối mốc mặt cạo, loét sọc mặt cạo, rụng
lá mùa mưa làm giảm mật độ cây cạo dẫn đến giảm sản lượng vườn cây.
5.1.3. Lượng bốc hơi và vận tốc gió (biểu đồ 5.3)
+ Lượng bốc hơi:
23
Tổng lượng bốc hơi trung bình năm tại Chư Prơng là 931,8mm. Vào
mùa mưa, khí hậu mát mẻ, ẩm độ đất và ẩm độ khơng khí cao nên lượng bốc
thốt hơi nước thấp, đặc biệt là các tháng mưa nhiều. Lượng bốc hơi đạt cực
tiểu vào tháng 8 (38,1mm) sau đó tăng dần và đạt cực đại vào tháng 3
(125,3mm). Nếu sự bốc thoát hơi nước qua lá diễn ra mạnh sẽ hạn chế nước
từ mạch gỗ thấm sang mạch mủ làm giảm hiệu ứng pha loãng mủ, dẫn đến
thời gian chảy mủ ngắn làm cho năng suất mủ thấp.
Biểu đồ 5.3: Diễn biến lượng bốc hơi và vận tốc gió tại Chư Prơng
+ Vận tốc gió:
Vận tốc gió trung bình năm tại Chư Prơng là 2,7m/s. Vận tốc gió tương
đối cao về mùa khô. Như vậy, lượng bốc hơi và vận tốc gió lớn vào mùa khơ
kèm theo hiện tượng rụng lá qua đông từ tháng 2 đến tháng 3 hàng năm là
nguyên nhân hạn chế năng suất mủ trong mùa khơ.
Vào mùa mưa thì vận tốc gió nhìn chung là thấp hơn nhưng riêng vào
tháng 7 và tháng 8 thì vận tốc gió tăng cao hơn hẳn (3,3 - 3,6m/s). Vào thời
24
điểm này, vận tốc gió cao kèm theo mưa lớn là nguyên nhân gây gãy đổ cao
su nên cũng làm ảnh hưởng khá lớn đến năng suất vườn cây.
5.2. Diễn biến năng suất mủ theo mùa vụ của một số dịng vơ tính
cao su tại nơng trường (biểu đồ 5.4)
Cây cao su là cây công nghiệp dài ngày và việc khai thác mủ được tiến
hành quanh năm. Năng suất mủ của cây cao su trong một năm có sự biến
động theo mùa do ảnh hưởng của sự biến động của các yếu tố khí hậu như:
lượng mưa và số ngày mưa, nhiệt độ và ẩm độ khơng khí, lượng bốc hơi và
vận tốc gió. Do vậy, việc nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu đến
năng suất mủ sẽ tạo cơ sở giúp ta đưa ra các giải pháp khắc phục hợp lý để
việc khai thác đạt hiệu quả cao hơn.
Qua thu thập số liệu năng suất tại nông trường, chúng tôi nhận thấy
diễn biến năng suất mủ của các dịng vơ tính có sự chênh lệch nhưng đồng
dạng với nhau. Để tiện theo dõi, chúng tôi xin trình bày diễn biến năng suất
mủ của các dịng vơ tính GT1 đại diện cho vùng khí hậu Chư Prơng trong 7
năm (2003 - 2009). Năng suất được tính bằng g/cây/tháng để bao gồm luôn
tác động của các yếu tố khí hậu.
Biểu đồ 5.4: Diễn biến năng suất mủ theo mùa vụ của dịng vơ tính GT1
tại nơng trường
25