Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận: Những bước đột phá trong quá trình tìm tòi đổi mới của đảng (1979 1986), giá trị lịch sử và hiện thực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.21 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG

Trang
1
2

1.

Quá trình hình thành đường lối đổi mới (1979 - 1986)

2

1.1.

Bối cảnh thế giới và trong nước đặt ra yêu cầu đổi mới đất nước

2

1.2.

Đảng ta tiến hành đổi mới từng phần - quá trình hình thành đường

2

2.

lối đổi mới của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đề


8

2.1.

ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
Khái quát bối cảnh lịch sử

8

2.2.

Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới do Đại hội VI xác định

9

3.

Giá trị lịch sử và hiện thực

14

KẾT LUẬN

17

TÀI LIỆU THAM KHẢO

18

MỞ ĐẦU

Sau khi giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước (4/1975), cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội. Theo mơ hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được
Đại hội Đảng lần thứ IV xác định, trong giai đoạn 1976 - 1986, bên cạnh những


2
thắng lợi to lớn trong bảo vệ Tổ quốc và nhiều thành tựu đáng kể trong xây dựng
đất nước, tình hình kinh tế, xã hội của Việt Nam cũng đã bộc lộ nhiều sai lầm,
yếu kém và lâm vào tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng hơn. Thực
trạng đó của Việt Nam cùng với những chuyển biến sâu rộng của cục diện thế
giới đã đặt ra cho Đảng ta vấn đề đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong hành trình đi tới đường lối đổi mới của Đảng đã diễn ra qua nhiều
trăn trở, tìm tịi, khảo nghiệm, trong đó có 3 bước đột phá lớn. Bước đột phá mở
đầu là Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6, khoá IV (8/1979) chủ
trương bằng mọi cách“làm cho sản xuất bung ra”; khơng cịn xem kế hoạch hố
là hình thức duy nhất để phát triển kinh tế; khẳng định sự cần thiết phải kết hợp
kế hoạch với thị trường. Bước đột phá thứ hai là Hội nghị Trung ương 8, khóa V
(6/1985) với chủ trương dứt khốt xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp;
thực hiện cơ chế một giá; xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển
hẳn mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành, địa phương và đơn vị cơ
sở sang cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Bước đột phá thứ ba là
Hội nghị Bộ Chính trị khố V (8/1986 và cuối 1986) với "Kết luận đối với một
số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế”. Kết luận trực tiếp định hướng việc soạn
thảo lại một cách căn bản dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng.
Những bước đột phá trên có ý nghĩa lịch sử và hiện thực vơ cùng to lớn.
Nó là tiền đề quan trọng của đường lối đổi mới toàn diện đất nước được Đảng ta
khởi sướng từ Đại hội lần thứ VI (12/1986).

NỘI DUNG

1. Quá trình hình thành đường lối đổi mới (1979 - 1986)
1.1. Bối cảnh thế giới và trong nước đặt ra yêu cầu đổi mới đất nước


3
Tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp ảnh hưởng đến cách mạng
nước ta: sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ; sự điều
chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản; các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu sau thời gian dài kinh tế lâm vào trì trệ, khủng hoảng, xu thế chung
của các nước xã hội chủ nghĩa là cải tổ, cải cách và đổi mới.
Tình hình trong nước: Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IV, cách mạng nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Một là, chúng ta đã thống nhất được
nước nhà về mặt Nhà nước. Hai là, nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng trong xây dựng CNXH. Ba là, giành được những thắng lợi to lớn trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Song, nhiệm vụ, mục tiêu do
Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra đều khơng hồn thành. Đất nước lâm
vào khủng hoảng kinh tế - xã hội từ cuối những năm 70 và kéo dài trong nhiều
năm (đỉnh cao của khủng hoảng là vào những năm 1985 và đầu năm 1986). Yêu
cầu bức thiết là đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, ổn
định đời sống nhân dân.
Trong điều kiện tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động, địi
hỏi Đảng và nhân dân ta phải suy nghĩ, tìm tịi con đường đổi mới để tháo gỡ
khó khăn, đưa đất nước đi lên. Từ những tìm tịi, sáng tạo ở địa phương, cơ sở,
Đảng ta đã đề ra những chủ trương có tính chất đổi mới từng phần. Những đổi
mới này có ý nghĩa rất lớn đối với đường lối đổi mới toàn diện, có vị trí rất quan
trọng đối với q trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
1.2. Đảng ta tiến hành đổi mới từng phần - quá trình hình thành đường
lối đổi mới của Đảng
Bước đột phá mở đầu là Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6,

khoá IV (8/1979) với chủ trương bằng mọi cách “làm cho sản xuất bung ra”.
Tháng 8/1979, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
IV, đã họp ra Nghị quyết bàn về những vấn đề cấp bách của tình hình kinh tế xã hội đất nước. Đây là bước đột phá đầu tiên của q trình tìm tịi, cải tiến quản
lý kinh tế, thử nghiệm cách làm ăn mới. Hội nghị đã có những đổi mới tư duy


4
quan trọng, thể hiện trên những nội dung cơ bản về cơ chế quản lý kinh tế, về
những chính sách phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu, trước hết là sản xuất nông nghiệp.
Tư tưởng nổi bật của Nghị quyết này là “làm cho sản xuất bung ra”,
nghĩa là phải khắc phục những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa, đề ra chủ trương phù hợp để phát triển lực lượng sản xuất. Hội
nghị cũng xác định rõ phải tận dụng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và
tập thể, kể cả kinh tế tư bản tư nhân để phát triển sản xuất, kết hợp ba lợi ích: tập
thể, cá nhân, xã hội.
Nghị quyết ra đời được nhân dân cả nước hồ hởi đón nhận, bước đầu đã
xuất hiện những điển hình về cách làm ăn mới phát huy tác dụng tích cực. Tuy
nhiên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 cịn có những hạn chế, những giải
pháp mà Hội nghị nêu ra chưa đủ sức tháo gỡ khó khăn. Sau một thời gian thực
hiện lại xuất hiện những khó khăn mới: Sản xuất bung ra nhưng không đúng
hướng; hàng lậu, hàng giả xuất hiện nhiều; giá cả ngày càng cao.
Tại Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IV
(12/1980), bàn về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1981. Hội nghị
nhận định: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
IV (8/1979) và một số nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã bước
đầu tạo ra khí thế mới cho nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, những khuyết điểm
trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội chậm được sửa chữa. Hội nghị chủ trương
chuyển mạnh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, mở rộng việc thực hiện
và hồn thiện các hình thức khốn sản phẩm trong nông nghiệp, mở rộng việc trả

lương theo sản phẩm khốn.
Rút kinh nghiệm qua khốn thí điểm cây lúa trong các hợp tác xã nơng
nghiệp, ngày 13/01/1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị 100/CT-TW về khốn sản phẩm
đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp. Chỉ thị này đã
tạo được động lực mới trong sản xuất nơng nghiệp, góp phần xố bỏ cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp; củng cố tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở
nông thôn, tạo ra hiệu quả kinh tế lớn trong nông nghiệp, tăng thu nhập cho xã


5
viên. Tốc độ tăng bình qn trong nơng nghiệp thời kỳ (1976 - 1980) là 1,9%; thời
kỳ (1981 - 1985) là 4,9%. Thực hiện Chỉ thị 100 nơng nghiệp có bước phát triển tốt
trong thời gian đầu, sau đó dần chững lại, do vẫn cịn có những hạn chế, bất cập.
Trong lĩnh vực công nghiệp, trên cơ sở tổng kết các hiện tượng “xé rào”
và làm thí điểm nhằm phát triển cơng nghiệp, nhất là ở Thành phố Hồ Chí Minh
và Long An, ngày 21/01/1981 Chính phủ đã ban hành Quyết định 25/CP về
quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các
xí nghiệp quốc doanh. Cùng ngày 21/01/1981 Hội đồng Chính phủ ban hành
Quyết định 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khốn, lương sản phẩm
và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà
nước. Những chủ trương, chính sách nêu trên giúp các cơ sở tự giải quyết một
phần khó khăn, góp phần thực hiện kế hoạch Nhà nước. Năm 1981, lần đầu tiên
sau chiến tranh sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa
phương vượt kế hoạch 7,5%.
Trên mặt trận phân phối, lưu thơng, ngày 23/6/1980 Bộ Chính trị ra Nghị
quyết 26/NQ-TW về cải tiến công tác phân phối, lưu thông. Nghị quyết nhấn
mạnh nguyên tắc giá cả phù hợp với chi phí sản xuất và lưu thơng; tạo tiền đề
cần thiết để tiến tới xoá bỏ từng bước chế độ cung cấp theo tem phiếu.
Cùng với những chủ trương đổi mới từng phần trên lĩnh vực kinh tế - xã
hội, Đảng cịn quan tâm kiện tồn bộ máy Nhà nước và tăng cường công tác xây

dựng Đảng.
Đại hội V của Đảng (3/1982), đánh dấu bước phát triển mới về chủ nghĩa
xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội V xác định cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược: “Một
là, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; Hai là, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ
mật thiết với nhau. Xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt những kết quả thiết thực làm
cho đất nước ta mạnh lên về mọi mặt và trong mọi hồn cảnh thì mới có đủ sức
đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Ngược lại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc thì mới có điều kiện để xây dựng thành


6
công chủ nghĩa xã hội. Mỗi nhiệm vụ chiến lược có vị trí riêng: “Trong khi khơng
một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và
nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Đại hội V nêu lên chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Theo quan điểm của Đại hội V, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta là lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường, hiện nay nước ta đang ở
chặng đường đầu tiên, đồng thời chỉ ra nội dung kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội
của chặng đường đầu tiên. Đây chính là sự nhận thức và vận dụng đúng đắn quan
điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ và sự phân kỳ thời kỳ quá độ vào
điều kiện thực tiễn nước ta. Đại hội xác định: Chặng đường trước mắt bao gồm
thời kỳ 5 năm 1981 - 1985 và kéo dài đến những năm 1990 là khoảng thời gian có
tầm quan trọng đặc biệt. Việc khẳng định trên thực tế cách mạng nước ta đang ở
chặng đường nào trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa quyết định
việc tìm ra và nắm vững quy luật khách quan và là cơ sở để cụ thể hoá đường lối,
xác định chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn cách mạng; chống chủ
quan, nơn nóng, đốt cháy giai đoạn. Đại hội V chỉ rõ: “Kinh nghiệm của 5 năm
1976 - 1980 cho thấy phải cụ thể hoá đường lối của Đảng - đường lối chung của

cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, vạch ra chiến lược kinh tế, xã hội cho chặng đường đầu tiên của q trình
cơng nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội xác định nội dung chính cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa trong
chặng đường đầu tiên là: Tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa; ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số
ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng
tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nơng nghiệp hợp lý. Nội
dung đó phản ánh đúng bước đi của cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, phù hợp
với thực tiễn nước ta; nhằm khai thác, phát huy thế mạnh, tiềm năng của đất
nước về lao động, đất đai, ngành nghề... giải quyết đúng đắn mối quan hệ công
nghiệp với nông nghiệp làm cơ sở để thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của chặng


7
đường đầu tiên, tạo ra những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh cơng nghiệp
hố xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
Đại hội V có bước tiến mới về đổi mới tư duy trong việc tìm tịi con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên Đại hội cịn có những hạn chế: chưa
thấy được sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời
kỳ quá độ, chưa xác định được những quan điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với
thị trường, công tác quản lý lưu thông phân phối vẫn một chiều theo kế hoạch
Nhà nước quyết định; coi phát triển nơng nghiệp là mặt trận hàng đầu, nhưng
chưa có chính sách, giải pháp cụ thể và đồng bộ để giải phóng các lực lượng sản
xuất trong nơng nghiệp.
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khoá V (6/1985) bàn về
vấn đề giá, lương, tiền. Đây là bước đột phá thứ hai của Đảng trong q trình
tìm tịi, đổi mới.
Hội nghị chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liệu, bao cấp;

thực hiện cơ chế một giá; xoá bỏ chế độ bao cấp bằng hiện vật theo giá thấp;
chuyển hẳn mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành, địa phương và đơn
vị cơ sở sang cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Giá, lương, tiền được
chọn làm khâu đột phá để chuyển đổi cơ chế; thừa nhận sản xuất hàng hóa và
những quy luật sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế quốc dân.
Hội nghị đánh dấu sự đổi mới tư duy một cách căn bản trên lĩnh vực phân
phối lưu thông của Đảng. Tinh thần cơ bản là thừa nhận sản xuất hàng hoá, coi
trọng thị trường. Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (14/9/1985) Chính phủ tiến
hành cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền lần thứ hai, bắt đầu từ việc đổi tiền, ban
hành một số giá mới và lương mới, xóa bỏ hồn tồn giá cung cấp và chế độ tem
phiếu, chỉ giữ lại sổ gạo cho người hưởng lương. Chủ trương đổi tiền nhằm tăng
khả năng chi trả của Ngân hàng bảo đảm yêu cầu đủ tiền cho tăng lương, tăng giá.
Đánh giá về cuộc cải cách giá, lương, tiền lần hai các Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 9 (12/1985) và lần thứ 10 (5/1986) đều cho rằng: Việc khẳng
định một lần nữa sự đúng đắn của chủ trương bù giá, thực hiện chính sách bán lẻ
theo một giá là cần thiết, phù hợp với quy luật của nền sản xuất hàng hoá, nhưng


8
vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh giá, lương trong tình hình chưa chuẩn bị sẵn
sàng về mọi mặt là một sai lầm. Hậu quả lớn nhất của cuộc cải cách giá, lương, tiền
lần này đã dẫn đến tình trạng lạm phát “phi mã” trong 3 năm (1986 - 1988), tỷ lệ
lạm phát hàng năm lên tới ba con số. Vì vậy, Nhà nước đã phải lùi lại một bước,
thực hiện chính sách hai giá năm 1986.
Hội nghị Bộ Chính trị khố V (8/1986) với "Kết luận đối với một số vấn
đề thuộc về quan điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thứ ba
Trước những đòi hỏi bức bách của thực tiễn được phản ánh tại Đại hội
Đảng các cấp vòng I, cuối tháng 8/1986, Hội nghị Bộ Chính trị đã họp dưới sự
chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh. Bộ Chính trị đã tập trung thảo luận và kết
luận về một số vấn đề quan điểm kinh tế. Đó là ba vấn đề lớn về kinh tế của thời

kỳ quá độ: cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý kinh tế.
Về cơ cấu kinh tế: Hội nghị chủ trương điều chỉnh lớn cơ cấu kinh tế và
cơ cấu đầu tư theo hướng lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển
công nghiệp nhẹ.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa: Đây là nhiệm vụ phải tiến hành thường xuyên,
liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cần lựa chọn bước đi và
hình thức thích hợp, qua các bước trung gian từ thấp lên cao, từ nhỏ đến lớn, làm
cho quan hệ sản xuất ln phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tồn tại nhiều thành phần kinh tế; kinh tế xã hội
chủ nghĩa (quốc doanh và tập thể) giữ vai trò chủ đạo.
Về cơ chế quản lý: Đổi mới kế hoạch hóa theo ngun tắc phát huy vai trị
chủ đạo của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa; sử dụng đúng đắn các quy
luật của quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất
kinh doanh. Phân biệt chức năng quản lý hành chính - kinh tế của Nhà nước với
chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Phân công, phân
cấp quyền tập trung thống nhất của Trung ương trong những khâu then chốt về
kinh tế, quyền chủ động của địa phương, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của
cơ sở. Kế hoạch phải kết hợp chặt chẽ với thị trường. Chính sách giá cả phải vận
dụng tổng hợp nhiều quy luật, trong đó, quy luật giá trị có tác dụng trực tiếp.


9
Những kết luận tại hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8/1986) có giá trị quan
trọng về lý luận và thực tiễn, là cơ sở cho việc soạn thảo lại Dự thảo Báo cáo
chính trị trình Đại hội VI của Đảng.
Như vậy, từ năm 1979 - 1986 là những năm đất nước phải đương đầu với
hai cuộc chiến tranh biên giới rất phức tạp, phải đối phó với chính sách bao vây
cấm vận của các thế lực thù địch, đồng thời cũng là những năm mà nhược điểm
của mơ hình và cơ chế quản lý cũ đã bộc lộ ra rất rõ và trở thành lực cản lớn đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để khắc phục tình trạng khủng

hoảng kinh tế - xã hội ngày càng trầm trọng, Đảng và nhân dân ta đã liên tục
tiến hành những tìm tịi, thử nghiệm nhằm tháo gỡ khó khăn, đưa đất nước thốt
khỏi khủng hoảng, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Những tìm tịi thử
nghiệm về đường lối của Đảng và nhân dân ta ở thời kỳ này tuy chưa khắc phục
được khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng đã tạo ra những tiền đề cần thiết cho
việc hình thành đường lối đổi mới toàn diện mà Đại hội VI là mốc mở đầu.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(12/1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
2.1. Khái quát bối cảnh lịch sử
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được tiến hành tại Thủ đô
Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986. Đại hội diễn ra trong bối cảnh tình
hình thế giới và trong nước có nhiều biến đổi nhanh chóng, phức tạp.
Tình hình thế giới: Chủ nghĩa xã hội thế giới hơn 70 năm qua đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn trên nhiều mặt, song cũng đang đứng trước nhiều khó
khăn, thách thức gay gắt. Nhiều nước đang tiến hành công cuộc cải tổ, cải cách
và đổi mới nhằm khắc phục sự trì trệ của chủ nghĩa xã hội, đưa chủ nghĩa xã hội
vào giai đoạn phát triển mới.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại phát triển nhanh đã tạo ra
bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất, đẩy nhanh quá trình quốc tế
hoá nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội. Chủ nghĩa tư bản đã có sự điều


10
chỉnh thích nghi và đã đạt được những thành tựu quan trọng trên về kinh tế và
khoa học, cơng nghệ.
Tình hình trong nước: Sau 10 năm cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (1975 - 1985), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã
giành được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và những thành tựu to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Song, tình hình
kinh tế - xã hội cịn nhiều khó khăn gay gắt, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh

tế - xã hội từ cuối những năm 70 và kéo dài trong nhiều năm.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do những sai lầm, khuyết
điểm về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức
thực hiện. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là
những sai lầm về chính sách kinh tế là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và
hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh
hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh
đường lối và nguyên tắc của Đảng. Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa “tả” khuynh
vừa “hữu” khuynh. Tình hình đó, đặt ra những thách thức mới, địi hỏi Đảng
phải có những quyết sách đúng đắn để đưa đất nước vượt qua khó khăn, thử
thách, tiếp tục phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
2.2. Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới do Đại hội VI xác định
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là Đại hội đổi mới, với
tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Đại hội đã
khẳng định những thành tựu quan trọng trong 5 năm 1981 - 1985. Đồng thời,
Đại hội cũng nghiêm khắc chỉ ra những khuyết điểm sai lầm còn mắc phải là:
Sản xuất tăng trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng trong kế hoạch 5 năm
không đạt được, tài ngun lãng phí, phân phối lưu thơng rối ren, nhiều lao động
khơng có việc làm, hàng tiêu dùng thiếu nghiêm trọng. Thiếu sót lớn nhất là
chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời
sống nhân dân. Đại hội chỉ ra khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai
lầm, đặc biệt sai lầm về chính sách kinh tế là do bệnh chủ quan, duy ý chí, lối


11
suy nghĩ giản đơn, nóng vội; là khuynh hướng bng lỏng quản lý kinh tế - xã
hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng. Đó là
biểu hiện của tư tưởng tiểu tư sản, vừa “tả” khuynh, vừa “hữu” khuynh. Từ sự
phân tích trên. Đại hội rút ra bốn bài học kinh nghiệm quý báu, có ý nghĩa quan
trọng đối với hoạt động chỉ đạo của Đảng từ đó về sau:

Một là, trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng
“lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
trong điều kiện mới.
Bốn là, phải chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền
lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội cũng nêu rõ ba quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới ở nước ta là:
Thứ nhất, Đổi mới là tất yếu khách quan, là yêu cầu bức thiết của cách
mạng nước ta. “Chỉ có đổi mới thấy đúng, thấy hết sự thật, thấy những nhân tố
mới để phát huy, những sai lầm để sửa chữa”.
Thứ hai, Đổi mới không phải là phủ định sạch trơn, đổi mới phải biết kế
thừa thành tựu, kết quả đã thu được trong q khứ. “Đổi mới ... khơng có nghĩa
là phủ định những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ
biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã
được xác định, trái lại chính là sự bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”.
Thứ ba, Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội, nhưng phải có hình thức, bước đi, cách làm thích hợp.
Đại hội đề xướng chủ trương đổi mới đường lối xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta với những nội dung cơ bản sau:
Đổi mới tư duy lý luận: Nhận thức rõ về chủ nghĩa xã hội, về các quy luật
khách quan những đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong nhiều năm qua, những
quan niệm lạc hậu về chủ nghĩa xã hội, nhất là về công nghiệp hóa, về cải tạo xã


12
hội chủ nghĩa, về cơ chế quản lý kinh tế, về phân phối lưu thơng chính là ngun
nhân chậm phát triển và cụ thể hóa đường lối chung và đường lối kinh tế trong

chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Vì vậy, phải đổi mới, trước hết là đổi mới
tư duy. Đổi mới tư duy khơng có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã
đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại chính là bổ sung
và phát triển những thành tựu ấy.
Đổi mới cơ cấu kinh tế: Dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo
cơ cấu hợp lý, có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế,
chính sách đó cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế với quy mơ và trình độ
kỹ thuật thích hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất và lưu thông nhằm
khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế liên kết với nhau, trong đó
kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Đại hội xác định rõ các thành phần kinh
tế ở nước ta là: Kinh tế xã hội chủ nghĩa (bao gồm khu vực quốc doanh và khu
vực tập thể); kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ cơng, nơng dân cá thể,
những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân;
kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức mà hình thức cao là cơng tư hợp
doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu
số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác.
Cùng với chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đại hội VI còn chủ trương
bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện cho
được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu. Các chương trình đó là sự cụ thể hố nội dung chính của cơng
nghiệp hố xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu.
Về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: Đại hội VI cho rằng, việc bố trí lại cơ
cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Đảng đã thẳng thắn chỉ
ra rằng: Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay đã không
tạo được động lực phát triển làm suy yếu nền kinh tế, kìm hãm sản xuất, làm giảm
năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra
nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Phong cách quản lý quan liêu, cửa quyền



13
tư duy mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí. Vì vậy, "Phương hướng đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế đã được khẳng định là xoá bỏ tập trung quan liêu, bao cấp,
xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển
của nền kinh tế". Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch
hoá theo phương thức hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, chú trọng tính kế hoạch; sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ
hàng hoá - tiền tệ, các đơn vị sản xuất có quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh, tự
chủ về tài chính; sử dụng tốt các địn bẩy kinh tế.
Đổi mới chính sách đối ngoại: Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại. Nhận thức rõ nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường
đầu. Đại hội VI nhấn mạnh sự cần thiết phải “Cơng bố chính sách khuyến khích
nước ngồi đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành
và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố luật
đầu tư, cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người
nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh”.
Đổi mới về vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước: Để thiết lập cơ chế
quản lý mới, cần thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy nhà nước.
Tăng cường bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, có sự phân biệt rõ
chức năng quản lý hành chính kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh
doanh, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh
thổ. Nhà nước có nhiệm vụ thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành
pháp luật, chính sách cụ thể. Xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội và cụ thể hố
chiến lược đó thành những kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Đổi mới nội dung và phong cách lãnh đạo của Đảng: Tăng cường sức
chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng. Đại hội nêu rõ: “... Đảng phải
đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ
chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”. Đảng
nhấn mạnh đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng
viên và nhân dân là nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng. Đổi mới đội ngũ

cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Đổi mới phong cách làm


14
việc, trong đó tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng nhất. Đại hội đề ra yêu
cầu nâng cao chất lượng đảng viên, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, nâng
cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở, tăng cường đồn kết nhất trí trong Đảng.
Đại hội xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát cho những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên ở nước ta là: “ổn định mọi mặt tình hình kinh
tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong chặng đường tiếp theo”.
Từ nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát đó, Đại hội đề ra 5 mục tiêu cụ
thể trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
Một là, sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ.
Hai là, bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, nhằm phát triển sản xuất.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Bốn là, tạo ra sự chuyển biến tốt về mặt xã hội.
Năm là, bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
Để thực hiện các mục tiêu nói trên, Đại hội đã đề ra một hệ thống các giải
pháp sau:
Thứ nhất, bố trí lại cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư.
Thứ hai, xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng
và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế.
Thứ ba, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Thứ tư, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Thứ năm, đổi mới chính sách xã hội.
Sáu là, đổi mới chính sách đối ngoại nhằm phá thế bao vây, cấm vận.
Bảy là, đổi mới cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân lao
động làm chủ.

Trong hệ thống các giải pháp đó, Đại hội nhấn mạnh giải pháp tập trung
sức người, sức của vào thực hiện ba chương trình mục tiêu: lương thực, thực
phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đại hội nhấn mạnh ba chương trình


15
mục tiêu đó là sự cụ thể hố nội dung chính của cơng nghiệp hố xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta.
Như vậy, đường lối đổi mới của Đảng, trọng tâm là đổi mới kinh tế chính
là tư duy mới về 3 vấn đề cơ bản: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ
cấu đầu tư, trước mắt tập trung cho 3 chương trình kinh tế mục tiêu (lương thực,
thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu); Xây dựng và củng cố quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế;
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển sang hoạch toán, kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, thực hiện một giá (nói đơn giản là chuyển từ coi trọng công nhiệp sang
coi trọng nông nghiêp, từ hai thành phần kinh tế sang nhiểu thành phần kinh tế
và từ cơ chế kế hoạch hóa sang cơ chế thị trường)
Đường lối đổi mới do Đại hội lần thứ VI của Đảng xác định, đó là
đường lối đổi mới tồn diện, đồng bộ và triệt để. Đường lối đó là sản phẩm
của ý Đảng, lịng dân, được Đảng ta tìm tịi, tổng kết thơng qua các phong
trào cách mạng của quần chúng, dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, đường lối đổi mới sớm được hiện thực
hoá, mang lại kết quả trong cuộc sống, mở ra bước ngoặt phát triển mới của
cách mạng Việt Nam.
3. Giá trị lịch sử và hiện thực.
Đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế của Đảng tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã đưa đến cho cách mạng nước ta nguồn sức
mạnh mới trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đánh dấu bước ngoặt lịch
sử về đổi mới tư duy lý luận, đặt nền móng cho việc hình thành quan niệm với
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sự ra đời của đường lối đổi mới tại Đại hội VI đã đáp ứng được những địi

hỏi bức thiết của đất nước là làm sao tìm ra được những chủ trương, giải pháp
nhằm xoay chuyển tình thế, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng
đại, đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận, Đại hội đã đánh giá


16
thực trạng kinh tế - xã hội đất nước, đề ra đường lối đổi mới tồn diện, tìm lối
thốt cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, đặt nền tảng cho việc tìm ra con
đường thích hợp q độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, Đại hội cũng
còn một số hạn chế trong việc đề ra những giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ khó
khăn trước mắt của cách mạng nước ta.
Q trình tìm tịi con đường quá độ thích hợp lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta của Đảng từ tháng 8 năm 1979 đến tháng 12 năm 1986 là quá trình từ đổi mới
từng phần, từng lĩnh vực riêng lẻ, tiến lên đổi mới tồn diện, đồng bộ và triệt để.
Q trình đó diễn ra từ hai phía: từ các phong trào quần chúng ở cơ sở và sự
lãnh đạo chặt chẽ, sáng tạo của Đảng ta. Đường lối đổi mới của Đảng là sản
phẩm của ý Đảng, lịng dân. Do đó, đường lối sớm được hiện thực hóa, mang lại
kết quả trong cuộc sống. Điều đó chứng tỏ q trình tìm tịi con đường thích hợp
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam,
xu thế của thời đại và hợp quy luật, thể hiện rõ bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Q trình tìm tịi, hình thành đường lối đổi mới của Đảng có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn to lớn, đem lại nhiều bài học quý báu cho Đảng trong quá trình
lãnh đạo, bổ sung, phát triển và hoàn thiện đường lối đổi mới từ năm 1986 đến
nay. Những bài học kinh nghiệm quý báu đó là:
Một là, muốn tìm ra con đường phát triển của đất nước đúng đắn, trước
hết phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Thường
xuyên tổng kết thực tiễn là phương pháp tốt nhất để đánh giá đúng thực trạng,

tìm ra nguyên nhân, xác định đúng con đường đổi mới.
Hai là, tổng kết thực tiễn đòi hỏi phải biết lắng nghe các ý kiến khác
nhau, dân chủ bàn bạc, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí.
Ba là, đổi mới là quá trình từng bước, từ thấp đến cao, từ đổi mới từng
phần, từng bộ phận, tiến lên đổi mới toàn diện, đồng bộ, chống nơn nóng, chủ
quan đốt cháy giai đoạn.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt
đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ


17
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đại hội XI đánh giá: “Đất
nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển và trở
thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước
phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã
hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của
đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối
ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao”.


18
KẾT LUẬN
Sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng
đã kịp thời lãnh đạo thực hiện bước chuyển giai đoạn cách mạng đưa cả nước

quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ cách mạng (1979 - 1986) Đảng có ưu điểm
và thành tựu trong hoạch định đường lối, trong lãnh dạo xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Đảng đã có cố gắng tìm tịi, đổi mới từng phần, từng bước hình thành tư
duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Tuy nhiên, thời kỳ này Đảng vẫn còn bộc lộ sự lạc hậu trong nhận thức lý
luận, vừa “tả” khuynh, vừa “hữu” khuynh trong tổ chức thực hiện.
Từ những thành tựu và những khuyết điểm, sai lầm Đảng đã rút ra những
bài học kinh nghiệm quý báu, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, là cơ sở
hình thành đường lối đổi mới toàn diện được xác định ở Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là Đại hội đổi mới, xác
định đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt cho sự phát triển mới của
cách mạng Việt Nam. Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ ra lối
thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, đặt nền tảng cho
việc tìm ra con đường thích hợp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đường
lối đổi mới do Đại hội lần thứ VI của Đảng ta xác định, đáp ứng được yêu cầu
bức thiết của đất nước ta, có giá trị chỉ đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất
nước, đưa tới những thành tựu quan trọng giữ vững ổn định kinh tế - xã hội, tạo
đà cho những bước phát triển tiếp theo.
Tiếp tục kế thừa, phát triển sự nghiệp đổi mới đất nước, từ đổi mới từng
phần Đảng ta tiến đến đổi mới toàn diện đất nước làm cho nền kinh tế nước ta từ
nền kinh tế bao cấp, trì trệ, bị bao vây, cấm vận, đời sống nhân dân hết sức khó
khăn. Đến nay, sau gần 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế
nước ta đã có những bước tiến vững chắc, tạo đà cho nước ta vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội.


19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, tập 40, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 2005;
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, tập 41, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2005;
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, tập 43, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2005;
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 46, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2006;
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2005;
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987;
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XII, Văn phịng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016;
8. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia, Giáo trình
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016;
9. Tổng cục Chính trị, Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000.



×