1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------- ---------
NGUYỄN THÁI BÌNH
PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT NGHỀ CHO SINH VIÊN
TRONG ĐÀO TẠO NGHỀ ĐIỆN TỬ CÔNG NGHIỆP
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
HÀ NỘI – 2020
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------- ---------
NGUYỄN THÁI BÌNH
PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT NGHỀ CHO SINH VIÊN
TRONG ĐÀO TẠO NGHỀ ĐIỆN TỬ CƠNG NGHIỆP
Chun ngành: LL&PPDH bộ mơn Kỹ thuật cơng nghiệp
Mã số
: 9.14.01.11
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS NGUYỄN TRỌNG KHANH
2. TS NGUYỄN TRẦN NGHĨA
3
HÀ NỘI – 2020
4
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, chưa từng được
cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Tơi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
với lời cam đoan trên.
Hà Nội, ngày
tháng năm 2020
Tác giả
Nguyễn Thái Bình
5
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
Phòng Sau đại học, Khoa Sư phạm kỹ thuật, Tập thể Tổ bộ môn Lý luận và
Phương pháp dạy học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt q
trình học tập và thực hiện luận án này.
Với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn
chân thành tới PGS.TS. Nguyễn Trọng Khanh, TS. Nguyễn Trần Nghĩa là
những người Thầy đã trực tiếp hướng dẫn tơi nghiên cứu và hồn thành luận
án.
Tơi xin trân trọng cảm ơn sự động viên và tạo điều kiện của Ban Giám
hiệu nhà trường, các đồng nghiệp tại khoa Điện tử, Trường Cao đẳng nghề
Thành Phố Hờ Chí Minh đã giúp tơi vừa hồn thành luận án vừa đảm nhiệm
được các nhiệm vụ công việc tại cơ quan. Trân trọng cảm ơn các chuyên gia,
các nhà khoa học, đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên tại các cơ sở giáo dục
nghề nghiệp đã hỗ trợ quá trình thực nghiệm sư phạm và đóng góp ý kiến quý
báu giúp tơi hồn thành luận án.
Tơi vơ cùng biết ơn gia đình của mình và những người bạn thân thiết đã
ln cổ vũ tinh thần giúp tôi vượt qua khó khăn để có thể hoàn thành luận án.
Hà Nội, ngày ….. tháng …..năm 2020
Tác giả
Nguyễn Thái Bình
6
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
CBQL
CTĐT
ĐC
ĐĐNN
Viết đầy đu
Cán bộ quản lý
Chương trình đào tạo
Đối chứng
Đạo đức nghề nghiệp
ĐTCN
GV
Điện tử công nghiệp
Giáo viên
NLN
PCN
SV
Tp.HCM
TN
Năng lực nghề
Phẩm chất nghề
Sinh viên
Thành phố Hờ Chí Minh
Thực nghiệm
7
DANH MỤC BẢNG
Trang
DANH MỤC HÌNH
Trang
8
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Nhu cầu đổi mới trong giáo dục và đào tạo
Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu, rộng với các nước trong khu vực
và thế giới với nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 đã được Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ XI của Đảng thơng qua đã chỉ rõ một trong 3 khâu đột phá chiến
lược là: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân…”.
Điều đó đã đặt ra cho giáo dục và đào tạo nước ta nói chung và giáo
dục nghề nghiệp nói riêng một nhiệm vụ hết sức nặng nề, đó là đào tạo một
nguồn nhân lực có đầy đủ năng lực và phẩm chất để thích ứng với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường, tham gia phát triển kinh tế, văn hóa xã hội...
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, quốc tế. Tuy nhiên, để thực hiện
được mục tiêu đặt ra thì giáo dục và đào tạo cần phải có sự thay đổi một cách
toàn diện về mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp dạy học,… cũng
như các hình thức giáo dục, đào tạo.
Năm 2014, Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thơng qua Luật Giáo dục nghề nghiệp để thay thế cho Luật Dạy nghề năm
2006. Tại Điều 4 của Luật Giáo dục nghề nghiệp đã chỉ rõ: “Mục tiêu chung
của giáo dục nghề nghiệp là nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất,
kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo
có đạo đức, sức khỏe, có trách nhiệm nghề nghiệp, có khả năng sáng tạo,
thích ứng với mơi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập quốc tế bảo đảm
nâng cao năng suất, chất lượng lao động, tạo điều kiện cho người học sau khi
hồn thành khóa học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên
trình độ cao hơn” [49].
9
Trong Quyết định 630/QĐ-TTg “Phê duyệt Chiến lược phát triển dạy
nghề thời kỳ 2011 – 2020” của Thủ tướng Chính phủ đã xác định tư tưởng chỉ
đạo của chiến lược dạy nghề là tạo đột phá về chất lượng nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam. Trong đó đã chỉ rõ: “… tăng
cường và mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển dạy nghề, tập trung xây dựng
các trường nghề đạt chất lượng cao, trong đó ưu tiên các trường đạt đẳng cấp
quốc tế; các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế” [13].
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8
khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo chỉ rõ: “Chuyển
mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn
diện năng lực và phẩm chất người học”. Về mục tiêu cụ thể, Nghị quyết cũng
đã chỉ rõ: “Đối với giáo dục nghề nghiệp, tập trung đào tạo nhân lực có kiến
thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục
nghề nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp
theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật
công nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế”. Và một trong các
giải pháp mà Nghị quyết nêu ra là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ
các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm
chất, năng lực của người học” [20]. Qua đó, ngoài việc trang bị cho người học
các kiến thức khoa học và kỹ năng, phẩm chất nghề nghiệp thì các trường đào
tạo nghề cần phải trang bị cho người học các phương pháp học tập, khả năng
thích ứng với sự phát triển của xã hội,… để giúp họ trở thành người có đủ
năng lực lao động, sáng tạo và hướng đến việc học tập suốt đời.
1.2. Thực trạng về công tác đào tạo nghề ở nước ta
Đào tạo nghề Việt Nam có lịch sử phát triển khá lâu đời, gắn liền
với sự phát triển cua các làng nghề, cơ sở sản xuất nông nghiệp. Thời
gian qua, công tác đào tạo nghề ở nước ta đã có những bước phát triển
10
mạnh mẽ, từng bước đáp ứng nhu cầu nhân lực cho nền phát triển kinh
tế – xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Các trường đào tạo nghề đã thực hiện phương châm đa dạng hóa các
ngành nghề, hình thức, phương pháp đào tạo… nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo đáp ứng với yêu cầu cua thị trường lao động. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành tích đáng kể thì “hệ thớng giáo dục nghề nghiệp
Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường lao động, cơ cấu
cua nghề trong đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu cua ngành”[18; tr14].
Đào tạo nghề tại Việt Nam hiện nay vẫn còn những tồn tại như: nội dung,
chương trình đào tạo chưa đởi mới kịp thời tương ứng với sự thay đổi
cua kỹ thuật và công nghệ sản xuất, nội dung còn nặng về lý thuyết.
Trong các buổi học thực hành, giáo viên thường chú trọng ưu tiên đến
rèn luyện kỹ năng tay nghề mà coi nhẹ nhiệm vụ rèn luyện phẩm chất
cho người học. Điều đó dẫn đến người học chưa có được một tác phong
công nghiệp thực sự và chưa phát huy được tính chu động, sáng tạo cua
người học. Do vậy, năng lực và phẩm chất cua người tốt nghiệp tại các
trường nghề hiện nay vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển cua
thị trường lao động.
Trước những thực trạng nêu trên, có thể thấy rằng việc đổi mới phương
pháp đào tạo theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất cho người học
như trong tình hình hiện nay là một vấn đề rất cần thiết và sẽ góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo tại các cơ sở đào tạo nghề. Vì lý do đó, tác giả chọn đề
tài nghiên cứu: “Phát triển phẩm chất nghề cho sinh viên trong đào tạo
nghề Điện tử công nghiệp”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xây dựng các biện pháp phát triển phẩm chất nghề cho người học và
11
vận dụng vào q trình dạy học mơ đun Kỹ thuật xung số trong chương trình
đào tạo nghề Điện tử công nghiệp.
3. KHÁCH THỂ, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình đào tạo nghề Điện tử công nghiệp ở các trường cao đẳng nghề.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Lý thuyết phát triển phẩm chất nghề cho sinh viên và vận dụng trong
dạy học nghề Điện tử công nghiệp tại các trường cao đẳng nghề.
Quá trình dạy học mơ đun Kỹ thuật xung số trong chương trình đào tạo
nghề Điện tử cơng nghiệp.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Q trình dạy học mô đun Kỹ thuật xung số trong chương trình đào tạo
nghề Điện tử cơng nghiệp ở một số trường cao đẳng nghề khu vực phía Nam.
Thực nghiệm sư phạm được thực hiện tại khoa Điện tử của trường Cao đẳng
Kinh tế - Kỹ thuật Thủ Đức và trường Cao đẳng nghề Thành phố Hờ Chí
Minh.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu xây dựng được các biện pháp tác động vào việc phát triển phẩm
chất người học và vận dụng các biện pháp này trong dạy học mô đun Kỹ thuật
xung số sẽ đáp ứng được mục tiêu phát triển phẩm chất nghề cho sinh viên.
Qua đó, góp phần phát triển năng lực cho sinh viên trong dạy học mô đun nói
riêng và chất lượng đào tạo nghề Điện tử công nghiệp nói chung.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc phát triển phẩm chất nghề cho
sinh viên trong đào tạo nghề nói chung và trong dạy học mô đun Kỹ thuật
xung số nói riêng.
12
5.2. Nghiên cứu mục tiêu, nội dung đào tạo và khảo sát, đánh giá thực
trạng tình hình dạy học mơ đun Kỹ thuật xung số tại các trường cao đẳng
nghề có đào tạo nghề Điện tử công nghiệp.
5.3. Đề xuất một số biện pháp dạy học theo hướng phát triển phẩm chất
nghề cho người học.
5.4. Vận dụng biện pháp dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất
nghề cho người học trong dạy học mô đun Kỹ thuật xung số.
5.5. Kiểm nghiệm, đánh giá tính khả thi và hiệu quả các biện pháp đề xuất.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phân tích, tổng hợp,
khái qt hóa, mơ hình,…
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, khảo sát
thực tế, phương pháp chuyên gia và thực nghiệm sư phạm.
6.3. Phương pháp thống kê toán học.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
7.1. Phát triển lý luận về phẩm chất nghề và phát triển phẩm chất nghề
cho người học trong đào tạo nghề như: khái niệm, cấu trúc của phẩm chất
nghề, đánh giá phẩm chất nghề.
7.2. Phân tích thực trạng tình hình giáo dục phẩm chất nghề cho người
học trong đào tạo nghề Điện tử công nghiệp tại các trường cao đẳng nghề.
7.3. Đề xuất các biện pháp phát triển phẩm chất nghề cho sinh viên
trong đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề Điện tử công nghiệp nói riêng.
Vận dụng các biện pháp đã đề xuất vào quá trình dạy học mô đun Kỹ thuật
xung số nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đáp ứng nhu cầu xã hội, phù
hợp với bối cảnh và điều kiện hiện nay của Việt Nam.
8. CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển phẩm chất
13
nghề cho người học.
Chương 2: Phát triển phẩm chất nghề cho sinh viên trong dạy học mô
đun Kỹ thuật xung số.
Chương 3: Kiểm nghiệm và đánh giá.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT NGHỀ CHO NGƯỜI HỌC
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ PHÁT TRIỂN PHẨM
CHẤT NGHỀ CHO NGƯỜI HỌC
Trong cuộc sống, phẩm chất nhân cách và đạo đức muôn đời là thước
đo giá trị của mỗi con người. Phẩm chất là đặc trưng của từng cá nhân, là bản
chất thực của con người. Người mà thiếu phẩm chất nhân cách sẽ mất phương
hướng khi lựa chọn con đường chính đáng cho mình trong cuộc sống cũng
như trong lao động.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, của nền sản xuất
hiện đại thì bản thân ở mỗi người lao động cũng cần phải có những thay đổi
về chất để có thể đáp ứng được những địi hỏi mới của cơng việc. Mỗi một
ngành nghề, mỗi công việc sẽ có những yêu cầu riêng và đòi hỏi người thực
hiện phải có những nguyên tắc cần phải thực hiện. Nói cách khác là người lao
động cần phải thay đổi những phẩm chất của chính họ để thích ứng được với
những thay đổi của xã hội. Do đó, việc định hình những phẩm chất nghề
nghiệp của người lao động ở tại mỗi quốc gia nói chung và tại Việt Nam nói
riêng lại càng quan trọng hơn bao giờ hết nhằm tăng năng suất lao động, thúc
đẩy tăng trưởng và cải thiện khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong quá
trình hội nhập.
Trong nền kinh tế ngày càng phát triển, các loại hình nghề nghiệp đã
14
dần mang tính chun mơn hóa cao. Do đó, để xác định được những phẩm
chất nghề (PCN) phù hợp với đặc điểm nghề nghiệp của mỗi cá nhân thì cần
phải tính đến những thiên hướng và năng lực của bản thân. Và khi đề cập đến
vấn đề phải làm thế nào để phát triển PCN cho người lao động nhằm nâng cao
hiệu quả năng suất lao động thì cũng đã có nhiều người nghiên cứu trong và
ngoài nước nghiên cứu về vấn đề này trên nhiều bình diện khác nhau.
1.1.1. Tởng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngồi
Arixtốt (384 – 322 TCN) là một nhà tư tưởng vĩ đại của triết học Hy Lạp
cổ đại. Những tác phẩm của Arixtốt còn lại cho đến ngày nay có thể chia làm
tám nhóm: triết học chung, logic học, vật lý học, sinh vật học, tâm lý học, đạo
đức học, kinh tế học, chính trị và nghệ thuật học. Arixtốt đã xây dựng học
thuyết về đạo đức dựa vào tâm lý học. Theo Ông quan niệm “đức hạnh là người
biết định hướng, biết làm việc và có sự tìm tịi những điều hay trong xã hội”.
Nó không phải được tự nhiên ban cho con người một cách tự động và chỉ cho
con người khả năng có đức hạnh. Sự thông thái và trí tuệ của con người có thể
có được là do học tập, còn đạo đức có được là do giáo dục. Ngồi ra, Arixtốt
cịn xem xét đạo đức khơng chỉ ở hành vi con người mà căn cứ cả vào quyền
của nó nữa. Con người chỉ có thể được coi là có đầy đủ đức hạnh nếu họ có sự
cố gắng, có khả năng thuyết phục và khuyên bảo người khác.
Tại Nhật bản, khi bước vào thời Minh Trị (1868-1912) thì xã hội Nhật
Bản có sự chuyển biến sâu sắc từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản cận
đại. Điều này làm nảy sinh một sự bất an, hỗn loạn về mặt tinh thần trong dân
chúng. Cả nước Nhật Bản lúc bấy giờ phải đương đầu với bao nhiêu khó
khăn, thách thức, vừa phải phục hồi nền kinh tế, phát triển nhanh để tránh
nguy cơ bị biến thành thuộc địa, vừa phải bảo tồn được bản sắc văn hoá của
dân tộc. Và sau này, triết lý của giáo dục sau chiến tranh được xác định bởi
“Hiến pháp nước Nhật Bản” và “Luật giáo dục cơ bản” được ban hành vào
15
tháng 03/1947. Triết lý của nền giáo dục mới, mà sau này người Nhật quen
gọi là giáo dục dân chủ, được xây dựng dựa trên sự phản tỉnh sâu sắc về nền
giáo dục trước chiến tranh và tiếp thu tinh hoa giáo dục của các nước phương
Tây. Mục tiêu giáo dục giờ đây không phải là đào tạo nên những thần dân
trung quân ái quốc mà là đào tạo người công dân có đủ tri thức, phẩm chất,
năng lực phù hợp với xã hội hịa bình, dân chủ và tơn trọng nhân quyền [29].
Trải qua các thời kỳ phát triển nhưng Nhật Bản vẫn xây dựng một nền tảng
giáo dục dựa trên những triết lý của thời sau chiến tranh, vẫn luôn quan tâm
đến đào tạo một con người mới đầy đủ tri thức, năng lực và phẩm chất.
Trong lĩnh vực nghiên cứu phẩm chất của người lãnh đạo, nhà Tâm lý
học R.M.Stogdill đã nghiên cứu sâu về những phẩm chất của người lãnh đạo
và xác định người lãnh đạo cần có 5 đặc điểm về thể chất (chiều cao, ngoại
hình, sức khỏe…), 4 đặc điểm về tri thức, 16 đặc điểm về nhân cách, 9 đặc
điểm về xã hội và 6 đặc điểm tính cách… Ơng cho rằng từng đặc điểm riêng
lẻ có thể không có ý nghĩa, nhưng một nhóm đặc điểm thì liên quan rất chặt
chẽ với sự thành công. Stogdill khẳng định rằng: “có một mối tương quan
nhất định giữa các đặc điểm về sự thông minh, uyên bác, đáng tin cậy, trách
nhiệm, sự tham gia xã hội, và địa vị kinh tế - xã hội của người lãnh đạo so với
người không phải là lãnh đạo” [53; tr.11].
Tác giả Ph.N.Gơnơbơlin với cơng trình “Những phẩm chất tâm lý của
người giáo viên” đã nêu lên các phẩm chất phù hợp với công việc giảng dạy và
giáo dục học sinh. Đó là các phẩm chất như: đạo đức, chí hướng, hứng thú, năng
lực, q trình nhận thức, hoạt động trí tuệ, tình cảm, phẩm chất ý chí [24].
Ở lĩnh vực kinh doanh, Ladvsta Mikhail (1994) trong công trình nghiên
cứu về giới kinh doanh nước Mỹ, đã đưa ra những phẩm chất của nhà kinh
doanh lý tưởng ở Mỹ; F. Taylor, H. Fayol, P. Pollet (1995). Ông đã cơng bố
cơng trình “Khả năng tiềm tàng của con người trong lao động và phẩm chất
16
của người lãnh đạo”, trong đó chỉ ra các phẩm chất của nhà lãnh đạo các
doanh nghiệp phải vượt trội hơn người bình thường trong quản lý, lãnh đạo.
J.F. Meyer (2011) trong bài báo “Phẩm chất của một nhà kinh doanh thành
công” cho rằng nhà kinh doanh thành công thường có các phẩm chất đặc
trưng như: có đầu óc nhạy bén, sắc sảo; có đầu óc mạo hiểm, dám chấp nhận
rủi ro; tự tin vào năng lực của bản thân; đạo đức (chữ tín, lịng trung thực,
lịng tin); khơng cam chịu số phận, khơng bằng lịng với hiện tại, chấp nhận
thách thức với tương lai; thích sự cạnh tranh (dẫn theo L.Mikhai) [41; tr.48] .
Về lĩnh vực y học, M.A. Simpson (1972) cho rằng sinh viên ngành y
cần có một số phẩm chất như: trí tuệ, ham nghiên cứu khoa học, có sức khỏe,
quan tâm đến mọi người, khách quan, thơng cảm với mọi người, ngoại hình
dễ chịu, thích ứng tốt, bình tĩnh, thấu hiểu ẩn ý người khác [44;tr.27]. Ở đây,
tác giả cũng quan niệm phẩm chất là bao gờm cả đặc điểm thể chất, ngoại
hình, tâm lý,… Tác giả N.Đ. Lacoxina và G.C. Usacov (1984) yêu cầu muốn
hành nghề bác sĩ cần có các phẩm chất như: óc quan sát, khiêm tốn, trung
thực, vơ tư, qn mình, vị tha, đạo đức cao cả, uy tín [40; tr.9].
Về lĩnh vực hoạt động thiết kế, một số tác giả của trường Đại học Tổng
hợp Lêningrat đã đưa ra phương án thử nghiệm 109 yêu cầu phẩm chất nhân
cách người kỹ sư gồm: phẩm chất biểu hiện thái độ với công việc: yêu lao
động, thái độ quan tâm đến công việc, sáng tạo, ham học hỏi, tìm tịi cái mới;
phẩm chất đặc trưng cho phong cách hành vi: tính độc lập, tính chấp hành,
tính năng động; phẩm chất trí tuệ: tính mềm dẻo, tính phê phán, độ sâu, bề
rộng, khái quát; phẩm chất đặc trưng cho thái độ đối với con người: tính trung
thực, thẳng thắn, độ lượng; phẩm chất đặc trưng đối với bản thân: khiêm tốn,
tự tin, tự hoàn thiện, hịa đờng… [2; tr.31].
Về lĩnh vực giáo dục, A.V. Petrovski cho rằng phẩm chất nghề nghiệp
17
của người giáo viên thuộc xu hướng nhân cách; A.G.Kovalev khái quát các
phẩm chất cần thiết của người thầy giáo theo 3 thành phần: xu hướng sư
phạm, tính cách sư phạm, khí chất của người giáo viên bên cạnh năng lực sư
phạm [42].
Tại Liên Xô (cũ), trong những năm 20 của thế kỷ XX đã xuất hiện
nhiều nghiên cứu về các phẩm chất phục vụ cho việc tuyển chọn, tư vấn, đào
tạo nghề. Đến năm 1921, phịng thí nghiệm tâm lý chuyên nghiên cứu về nhân
cách của học sinh để hướng nghiệp được thành lập trong Viện nghiên cứu lao
động trung ương và Viện nghiên cứu lao động toàn Ucraina. Và đến năm
1927, hội nghị toàn liên bang về tâm sinh lý lao động và tuyển chọn nghề
được tổ chức ở Matxcova với sự tham gia của nhiều nhà tâm lý học nổi tiếng
như E.A. Climôv, V.I.Segurova,… Nội dung của hội nghị là tập trung nghiên
cứu các xu hướng, hứng thú nghề nghiệp như là phẩm chất quyết định hiệu
quả hoạt động nghề [53; tr.52].
Như vậy, qua quá trình lao động cũng như sự phân công lao động trong
xã hội đã giúp các nhà khoa học nhận ra được sự khác biệt về phẩm chất nghề
của các cá nhân khi thực hiện các hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp. Tùy
những đặc điểm của hoạt động, tùy từng yêu cầu của các cơng việc,… mà địi
hỏi ở từng chủ thể phải có đầy đủ những phẩm chất để đáp ứng. Các hoạt
động đó sẽ chính là tiền đề, là điều kiện để giúp chủ thể hình thành và phát
triển những phẩm chất mà hoạt động đó đòi hỏi. Từ những kết quả nghiên cứu
của các tác giả nước ngoài về phẩm chất nghề trong hoạt động nghề nghiệp
nói chung đã cung cấp những cơ sở quan trọng giúp tác giả định hướng trong
quá trình nghiên cứu đề tài của mình.
1.1.2. Tởng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước
Trong xu thế hội nhập quốc tế, việc định hình những PCN của người
lao động lại càng quan trọng. Nó là một nhánh trong hệ thống đạo đức xã hội,
18
là một loại đạo đức đã được thực tiễn hoá mà đặc biệt là đối với ngành giáo
dục nói chung và trong đào tạo nghề nói riêng. Ở Việt Nam, PCN từ lâu đã
được nghiên cứu và các nhà nghiên cứu cũng đã quan tâm đến việc xây dựng
các hệ thống những tiêu chí xác định sự phù hợp của cá nhân với các đặc
điểm nghề nghiệp. Do vậy, trong lĩnh vực đào tạo nghề, ngoài trang bị kiến
thức, kỹ năng còn phải giáo dục về PCN và đó cũng chính là để hình thành
nhân cách nghề nghiệp của mỗi chủ thể (người học), hướng mỗi chủ thể vươn
tới những giá trị chân, thiện, mỹ trong hoạt động nghề nghiệp của mình.
Trong lĩnh vực giáo dục, Nguyễn Thị Hồng Anh đã phân tích về vai
trị, vị trí của nghề dạy học trong xã hội. Qua đó, tác giả cũng đã đưa ra các
nhận định, quan điểm về phẩm chất của nghề dạy học. Ngoài ra, để xác định
đúng nhận thức về phẩm chất cần thiết của nhà giáo, tác giả đã tiến hành khảo
sát 70 sinh viên và 50 cán bộ giảng dạy với 13 nội dung yêu cầu phẩm chất
của nhà giáo cần phải phải có [1].
Trong cơng trình nghiên cứu về phẩm chất nhân cách của người hiệu
trưởng trường tiểu học, tác giả Khăm Kẹo Vông Phi La cho rằng người hiệu
trưởng tiểu học cần phải có ba nhóm phẩm chất: nhóm phẩm chất đạo đức,
nhóm phẩm chất tư tưởng – chính trị, nhóm phẩm chất cơng việc. Trong đó,
nhóm phẩm chất đạo đức giữ vị trí quan trọng hàng đầu [36].
Trong luận án tiến sĩ “Cơ sở tâm lý học của sự hình thành và phát triển
nhân cách người thầy thuốc quân đội tương lai ”của mình, tác giả Nguyễn
Sinh Phúc đưa ra mơ hình các phẩm chất nhân cách của bác sỹ quân y gồm 15
phẩm chất sau: Năng lực tổ chức chỉ huy; Năng lực chun mơn; Lịng nhân
ái; Lập trường tư tưởng; Sẵn sàng nhận nhiệm vụ; Khả năng giao tiếp; Tinh
thần trách nhiệm; Nhiệt tình cơng tác, Tính kỷ luật; Uy tín; Trung thực; Ham
nghiên cứu khoa học, Khiêm tốn; Tính tập thể; Tính sáng tạo [46].
Ngồi ra, dưới góc độ tâm lý học quân y, trong đề tài “Nâng cao y đức
người bác sĩ ở phân đội quân y trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”,
19
tác giả Nguyễn Thanh Tịnh đã khái quát về y đức của người cán bộ quân y,
những nguyên nhân, kinh nghiệm về giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất và năng
lực của người cán bộ đó qua việc phân tích các cơng trình, bài báo.… có liên
quan đến đề tài. Qua đó, tác giả cũng đưa ra quan điểm của mình về việc nâng
cao năng lực và phẩm chất cho đội ngũ cán bộ quân y đó là phải đổi mới nội
dung, vận dụng linh hoạt, kết hợp chặt chẽ các hình thức, phương pháp giáo
dục; phát huy tự giáo dục, tự bồi dưỡng; đẩy mạnh công tác cán bộ v.v...
Ở một khía cạnh khác, tác giả Nguyễn Cảnh Tồn cho rằng: “Tri thức có
thể có được bằng cách luyện tập cấp tốc trong một thời gian ngắn nhưng phẩm
chất nghề nghiệp thì khơng thể có được trong ngày một, ngày hai. Những phẩm
chất đó muốn có được phải có tổ chức giáo dục chặt chẽ ngay từ khi sinh viên
mới bước vào trường”[52]. Trong bài viết, tác giả nhấn mạnh việc giáo dục đạo
đức cho sinh viên (SV) sư phạm có được những phẩm chất nghề nghiệp là một
công việc lâu dài, khó khăn và phức tạp… Quan trọng nhất là chất lượng giảng
dạy của giáo viên (GV), còn lại do các nhà quản lý đề ra chiến lược hỗ trợ GV
thực hiện.
Tác giả Nguyễn Thị Kim Phương (1996) trong “Nghiên cứu một số đặc
điểm tâm lý - xã hội của giới doanh nghiệp trẻ Việt Nam” đã đưa ra 60 phẩm
chất cụ thể, chia thành 3 nhóm: những khả năng; những kỹ năng và những
phẩm chất đặc trưng hiện có của giới doanh nghiệp trẻ ở Việt Nam trong đó
có 20 phẩm chất tâm lý [47;tr.25].
Như vậy, có thể thấy vấn đề phẩm chất nghề nghiệp trong các lĩnh vực
hoạt động chuyên môn từ lâu đã được các nhà nghiên cứu khoa học đã nhận
ra có sự khác biệt. Qua đó, dẫn đến nảy sinh nghiên cứu các PCN của cá nhân
đáp ứng cho nhu cầu của từng lĩnh vực nghề nghiệp chuyên môn khác nhau là
điều rất cần thiết. Do đó, với những kết quả nghiên cứu của các tác giả trong
và ngoài nước về PCN sẽ là một trong những cơ sở quan trọng giúp người
20
nghiên cứu định hướng trong quá trình xây dựng cơ sở lý luận và các biện
pháp phát triển PCN cho SV.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Phẩm chất
Phẩm chất không phải là một thuật ngữ xa lạ nhưng cho đến nay vẫn
chưa có sự thống nhất về định nghĩa phẩm chất. Có thể liệt kê ra một số phát
biểu khác nhau về phẩm chất như sau:
Theo từ điển tiếng Việt “phẩm chất là cái làm nên giá trị của người hay
vật” [39; tr.770]. Theo định nghĩa này, phẩm chất của một đối tượng nhất định
là những thuộc tính, đặc điểm của đối tượng, căn cứ vào đó chúng ta có thể
đánh giá, xác định giá trị của đối tượng.
Theo Đại từ điển tiếng Việt “phẩm chất là giá trị tốt đẹp của con người
hay của vật gì” [7; tr.9].
Trong chương trình giáo dục phổ thơng 2018 - chương trình tổng thể:
“Phẩm chất là những tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử của con
người; cùng năng lực tạo nên nhân cách con người” [5].
Trong lĩnh vực sư phạm, V.A.Cruchetxki nhận định rằng “phẩm chất
nghề sư phạm là những mặt biểu hiện của năng lực sư phạm, ví dụ, để hình
thành năng lực giao tiếp thì cần phải có tình yêu thương, thái độ quan tâm đến
học sinh, sự cơng bằng..; năng lực xây dựng uy tín cần có các phẩm chất ý chí
như tính quả quyết, tính tự kiềm chế…” [15].
Ngồi ra, dưới góc độ tâm lý học, các nhà nghiên cứu xem nhân cách là
một chỉnh thể thống nhất của hai mặt đức và tài (phẩm chất - năng lực).
Trong từ điển Tâm lý học của J.P.Chaplin thì Ơng cho rằng “phẩm chất là
mức độ tương đối giữa cái tốt và cái tuyệt về lĩnh vực nào đó” [3; tr.686].
Trong từ điển Tâm lý học (The dictionary of psychology) của Raymond
J.Corsini “Phẩm chất (quality) là đặc điểm (hoặc đặc trưng) về cảm giác
21
(Sensation) hoặc thực thể khác để cho nó trở thành độc đáo, là sự khác về chất
(loại, thứ, hạng) chứ không phải về số lượng” [2].
Tác giả Đặng Thành Hưng cho rằng: “Đạo đức là hệ giá trị được xã hội
hoặc cộng đồng nhất định thừa nhận và được quy định thành chuẩn mực
chung, có chức năng và tác dụng thực tế điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã
hội có liên quan đến việc xử lý những phạm trù thiện và ác, tốt và xấu giữa
con người và con người, giữa con người và tự nhiên, giữa cộng đồng và cá
nhân, giữa cá nhân và cá nhân, tồn tại và phát triển ở đời sống xã hội và đời
sống cá nhân dưới ảnh hưởng lịch sử của truyền thống và thành tựu kinh tế xã hội mới mẻ trong phát triển của cộng đồng đó” [27; tr5].
Như vậy, thuật ngữ “phẩm chất” được hiểu và phát biểu theo nhiều
cách khác nhau, theo nhiều góc độ khác nhau.
Từ các phân tích trên đây, khi đề cập tới phẩm chất con người, có thể
hiểu: Phẩm chất là tổng hợp của những ́u tớ về thái độ, ý chí, đạo đức, tính
cách, sự ứng xử,… là cái làm nên giá trị riêng của con người.
1.2.2. Phẩm chất nghề
Mỗi nghề nghiệp trong xã hội luôn có những yêu cầu về phẩm chất nhất
định đối với người lao động. Để đạt được hiệu quả cao trong lao động thì người
lao động cần phải có phẩm chất nghề phù hợp và phải trải qua quá trình rèn
luyện. Trong bài viết của mình, tác giả đã nhấn mạnh đến việc giáo dục cho
sinh viên nhằm rèn luyện PCN cho SV là một công việc mang tính dài lâu và
cần phải thực hiện một cách chặt chẽ và bền bỉ để đạt được mục tiêu đề ra.
Trong nghiên cứu đến vai trị của giáo dục hình thành nên PCN, tác giả
Lêvitôp đã cho rằng: “Trong quá trình học nghề, thanh niên sẽ được giáo dục
một loạt các phẩm chất quan trọng như: tính chính xác và cẩn thận, tính tháo
vát, tính tổ chức, tinh thần trách nhiệm, tính độc lập….” [38, tr.220].
Tuy nhiên, hiện nay ngồi các nghiên cứu của một số tác giả về lĩnh
22
vực: giáo dục đạo đức nghề nghiệp (ĐĐNN), phẩm chất tâm lý nghề
nghiệp… có nội dung liên quan đến PCN thì chưa tìm thấy tài liệu nào định
nghĩa hay giải thích rõ thế nào là PCN. Trong nghiên cứu về giáo dục ĐĐNN,
với đề tài “Quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường cao
đẳng sư phạm miền Đông Nam Bộ”, tác giả Nguyễn Thanh Phú cho rằng:
“Đạo đức nghề nghiệp là hệ thống các chuẩn mực đạo đức phản ánh những
yêu cầu đòi hỏi của xã hội, của bản thân nghề nghiệp đối với người làm việc
trong lĩnh vực nghề nghiệp đó; là yếu tố cơ bản giúp họ có nhận thức, thái độ,
hành vi đúng đắn trong nghề nghiệp để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình”
[41; tr.35].
Trong một phát biểu khác về giáo dục ĐĐNN, tác giả Nguyễn Anh
Tuấn cũng đã khẳng định: “Đạo đức nghề nghiệp là hệ thống các chuẩn mực
đạo đức phản ánh những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, của bản thân nghề
nghiệp đối với người làm việc trong lĩnh vực nghề nghiệp đó, giúp cho họ
hoàn thành nhiệm vụ của mình với kết quả cao nhất” [57; tr.27].
Ở một nghiên cứu khác, tác giả Phan Thanh Long và các cộng sự của
mình cho rằng: “Giáo dục đạo đức là những tác động sư phạm một cách có
mục đích, có hệ thống và có kế hoạch của nhà giáo dục tới người được giáo
dục (học sinh) để bồi dưỡng cho họ những phẩm chất đạo đức (chuẩn mực
hành vi đạo đức) phù hợp với yêu cầu của xã hội” [39; tr 94].
Tác giả Kiều Thị Kiều Thanh, trong luận án tiến sĩ: “Giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên các trường cao đẳng nghề vùng đồng bằng sông
Cửu Long” thì cho rằng: “Đạo đức nghề nghiệp là những chuẩn mực đạo đức
đặc biệt, có liên quan đến việc tiến hành một hoạt động nghề nghiệp nào đó.
Là tổng hợp của các quy tắc, các nguyên tắc chuẩn mực của một lĩnh vực
nghề nghiệp trong đời sống, nhờ đó mà mọi thành viên của lĩnh vực nghề
nghiệp đó tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích và sự
23
tiến bộ của nó trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập
thể, với xã hội” [50; tr.20].
Ở lĩnh vực nghiên cứu về phẩm chất tâm lý, trong luận án tiến sĩ:
“Những phẩm chất tâm lý cơ bản của Cảnh sát hình sự”, tác giả Đỗ Văn Thọ
cho rằng: “Phẩm chất tâm lý là những thuộc tính, những đặc điểm tinh thần
của cá nhân (phân biệt với phẩm chất sinh lý, thể chất); là những thuộc tính,
đặc điểm tâm lý tích cực được đánh giá theo hệ thống tiêu chí nhất định, bao
gờm những phẩm chất chính trị, đạo đức; những phẩm chất trí tuệ, năng lực;
những phẩm chất ý chí, tính cách. Những phẩm chất đó hình thành, phát triển,
thể hiện ở hoạt động và giao tiếp, đờng thời chi phối tồn bộ hoạt động và
giao tiếp của cá nhân trong đời sống và trong nghề nghiệp”[53;tr. 20].
Qua các phân tích như trên, có thể khái quát PCN chính là các đặc điểm
riêng của cá nhân phù hợp với yêu cầu của một lĩnh vực nghề nghiệp xác
định, là tổng hòa cả phẩm chất tâm lý và phẩm chất trí tuệ của cá nhân trong
lĩnh vực nghề nghiệp.
Như vậy, dưới góc độ của giáo dục nghề nghiệp, có thể hiểu: Phẩm chất
nghề là những quy tắc, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp mà xã hội đòi hỏi phải
tuân theo trong hoạt động nghề nghiệp, mang tính đặc trưng của nghề.
1.2.3. Cấu trúc cua phẩm chất nghề
Như đã phân tích ở mục 1.2.2, PCN bao gờm những quy tắc, ch̉n
mực, có tính đặc trưng của nghề và phải luôn được luyện tập thường xuyên.
Đặc biệt, trong đào tạo nghề, người học sẽ được rèn luyện những PCN quan
trọng liên quan đến nghề nghiệp nhằm tạo nên nhân cách nghề nghiệp của cá
nhân hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp nào đó.
Do đó, trong lĩnh vực nghề nghiệp, có thể xác định các thành phần cơ
bản của PCN bao gồm các thành tố chủ yếu sau:
24
- Trung thực: Nhà văn William Shakespeare đã từng nói: “Khơng di sản
nào q giá bằng lịng trung thực”. Do đó, trung thực là một trong những đức
tính tốt đẹp cần có ở mỗi con người. Trong hoạt động nghiệp, thể hiện tính
trung thực chính là thành thực với chính mình, với mọi người xung quanh và
với cả cơng việc. Luôn biết chấp nhận những ưu và khuyết điểm của chính
mình, khơng gian dối, nghiêm túc nhìn nhận và sửa đổi. Đây chính là một
trong những phẩm chất quan trọng, tạo nên định hướng giá trị nhân cách của
con người trong suốt quá trình hoạt động nghề nghiệp.
- Trách nhiệm: Là một trong những phẩm chất mà bất cứ trong hoạt động
lĩnh vực nghề nghiệp nào mà người lao động cũng cần phải có. Trong giáo dục
nghề nghiệp, rèn luyện cho người học có tính trách nhiệm với các cơng việc
được giao như: hoàn thành đúng thời hạn, nỗ lực để hồn thành cơng việc, nhận
trách nhiệm với nhiệm vụ của mình… nhằm giúp bản thân người học hồn
thiện hơn.
- Kỷ luật lao động: là những tiêu chuẩn quy định hành vi cá nhân của
người lao động được xây dựng nên dựa trên cơ sở pháp lý hiện hành và các
chuẩn mực đạo đức xã hội. Trên cơ sở đó, trong giáo dục nghề nghiệp, rèn
luyện cho người học tính kỷ luật lao động chính là rèn luyện tác phong công
nghiệp; thái độ thực hiện tốt các quy định về kỷ luật, về thời gian làm việc…
đặc biệt là sự tn thủ đúng các quy trình cơng nghệ trong q trình làm việc.
- Hợp tác: là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong
một công việc hay một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung. Trong lĩnh vực
giáo dục nghề nghiệp, người học cần phải được rèn luyện phẩm chất này
nhằm giúp người học tích luỹ được những kinh nghiệm trong làm việc, kỹ
năng phối hợp trong nhóm học tập để cùng nhau làm việc và các hoạt động
chung của tập thể cũng như trong cuộc sống của bản thân. Điều này, rất có ý
nghĩa trong việc trau dồi chuyên môn và rèn luyện PCN cho người học, đáp
25
ứng được với xu thế phát triển như hiện nay của xã hội.
- Chính xác: sự cẩn thận trong từng quy trình thực hiện của cơng việc
cũng như khi đưa ra các quyết định cuối cùng. Trong lĩnh vực giáo dục nghề
nghiệp, đây là phẩm chất cần thiết mà người học cần phải được trang bị và rèn
luyện nhằm đạt được hiệu quả cao trong công việc.
- Yêu nghề: rèn luyện cho người học lịng u nghề, u cơng việc đang
Phẩm chất nghê
làm. Qua đó, sẽ tạo cho người học động lực thúc đẩy để vượt qua mọi khó
khăn của nghề mình đã chọn.
- Năng động, sáng tạo: có thái độ tích cực, ln chủ động và linh hoạt
xử lý các tình huống trong học tập, lao động…. nhằm nâng cao chất lượng sản
sa
n
gt
a
o
phẩm và hiệu quả công việc gắn với nghề nghiệp của bản thân.
Yê
u
n
gh
ê
Cầu tiến:
là tinh
thần
hamphẩm
học hỏi,chất
luôn phấn
đấu và tự giác rèn luyện
Hình 1.1. Mơ- hình
cấu
trúc
của
nghê
phẩm chất nghề nghiệp của người học.
Nă
ng
đ
ô
ng
,