Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

10 đề thi thử thpt quốc gia môn văn 2019 và đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.6 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Ths. Nguyễn Thành Huân</b> <b>ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 </b>


<b>CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 9</b>
<b>Môn thi: NGỮ VĂN</b>


<i>Thời gian làm bài: 120 phút, khơng kể thời gian phát đề</i>
<b>Họ, tên thí sinh:...</b>


<b>Số báo danh:...</b>
<b>I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)</b>


<b>Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 4:</b>
<i>Đi không há lẽ trở về không?</i>


<i>Cái nợ cầm thư phải trả xong</i>
<i>Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt</i>
<i>Dở đem thân thế hẹn tang(3)<sub> bồng</sub>(4)</i>
<i>Đã mang tiếng ở trong trời đất</i>
<i>Phải có danh gì với núi sơng</i>
<i>Trong cuộc trần ai, ai dễ biết</i>
<i>Rồi ra mới rõ mặt anh hùng.</i>


<i> (Trích Đi thi tự vịnh, Nguyễn Công Trứ)</i>
<b>Câu 1: Dựa vào văn cảnh, có thể thấy bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh như thế nào?</b>


<b>Câu 2: Điển cố “tang điền” giúp anh (chị) hiểu như thế nào quan niệm của Nguyễn Công Trứ về chí làm </b>
trai.


<b>Câu 3: Chép lại ít nhất một câu thơ đã học về quan niệm chí làm trai trong xã hội phong kiến. Cho biết</b>
sự khác nhau giữa “tiếng” và “danh” trong câu thơ:



<i>Đã mang tiếng ở trong trời đất</i>
<i>Phải có danh gì với núi sơng.</i>


<b>Câu 4: Tư tưởng trên có gì mâu thuẫn với tư tưởng của Cao Bá Quát? Phải chăng không nên theo </b>
đuổi công danh, sự nghiệp. Cần tránh xa vòng danh lợi để rước họa vào thân?


<i>Xưa nay phường danh lợi</i>
<i>Tất cả trên đường đời</i>


<i>Đầu gió hơi men theo quán rượu</i>
<i>Người say vô số, tỉnh bao người.</i>


<i>(Trích Bài ca ngắn đi trên bãi cát, Cao Bá Quát)</i>
Bàn luận về vấn đề này trong một đoạn văn ngắn.


<b>II. LÀM VĂN (7,0 điểm)</b>


(3)<i><sub> Tang: Cây dâu, lá dùng để chăn tằm, quả chín ăn ngon gọi là tang thẩm.</sub></i>
(4)<i><sub> Bồng: Cỏ bồng. Mùa thu thì chết khơ, gió thổi bay tung gọi là phi bồng.</sub></i>


<i>Tang hồ bồng thỉ, nghĩa là cung làm bằng gỗ dâu, tên làm bằng cỏ bồng. Tục Trung Hoa ngày xưa, hễ sinh con trai thì</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến</b>
được nêu ở phần Đọc hiểu: “Chuyện đỗ, trượt trong thi cử”.


<b>Câu 2 (5,0 điểm):</b>


<i>Về hình tượng sông Hương trong bút kí Ai đã đặt tên cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường có ý</i>
<i>kiến cho rằng: “Vẻ đẹp nổi bật của sông Hương là cảnh sắc thơ mộng tình tứ”. Ý kiến khác lại cho rằng: “Vẻ</i>
<i>đẹp bề sâu của sông Hương là trầm tích văn hóa, lịch sử”. Bằng cảm nhận của anh (chị) về hình tượng sơng</i>


Hương, hãy làm sáng tỏ các nhận định trên. Từ đó, anh (chị) hãy cảm nhận về vẻ đẹp của dịng sơng đất Việt
qua hai đoạn trích thơ dưới đây:


<i>- Gió theo lối gió, mây đường mây</i>
<i>Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay</i>
<i>Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó</i>
<i>Có chở trăng về kịp tối nay?</i>


<i>(Trích Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử, SGK Ngữ văn 11,</i>
Tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 39)
<i>- Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,</i>


<i>Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.</i>
<i>Bát ngát sóng kình mn dặm,</i>


<i>Thướt tha đuôi trĩ một màu.</i>


<i>Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu,</i>
<i>Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu</i>


<i>(Trích Phú sơng Bạch Đằng, Trương Hán Siêu, SGK</i>
<i>Ngữ văn 10, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 4)</i>
<b> HẾT </b>


<b>---HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT</b>
<b>I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)</b>


<b>Câu 1: - Hoàn cảnh sáng tác bài thơ:</b>


+ Đang trên đường đi thi để trả nợ công danh.


+ Con đường thi cử lận đận và gian truân.
<b>Câu 2: - Điển cố “tang bồng”:</b>


+ Sống trên đời người con trai phải có chí lớn.
+ Hai vai gánh vác sơn hà.


+ Tung hoành ngang dọc khắp bốn phương trong trời đất.
<b>Câu 3:</b>


- Quan niệm chí làm trai trong xã hội phong kiến:


<i>+ Trai thì đọc sách, ngâm thơ/ Dùi mài kinh sử để chờ nở hoa (Ca dao).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>+ Vũ trụ nội mạc phi phận sự (Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ).</i>


<i>+ Làm trai phải lạ trên đời/ Há để càn khôn tự chuyển dời (Xuất dương lưu biệt, Phan Bội Châu).</i>
<i>+ Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn/ Lừng lẫy làm cho lở núi non (Đập đá ở Côn Lôn, Phan Châu Trinh).</i>
- Sự khác nhau giữa “tiếng” và “danh”:


+ Tiếng: Chỉ thân phận nam nhi trong trời đất; những việc làm thực hiện hoài bão ngang dọc.


+ Danh: Sự ghi nhận việc làm đó trên bia đá bảng vàng; để lại tiếng thơm muôn đời nhờ tài năng, công đức.
<b>Câu 4: </b>


- Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ:
+ Coi danh gắn liền với nợ.


+ Đỗ đạt làm quan để giúp nước giúp dân.
+ Khát khao theo đuổi công danh.



- Tư tưởng của Cao Bá Quát:


+ Danh vị giống như là thứ rượu ngon làm say lòng người.
+ Danh gắn với sự vụ lợi và ích kỉ.


+ Danh phải gắn với thực để thay đổi thời đại.
<b>II. LÀM VĂN (7,0 điểm):</b>


<i><b>Câu 1: (2,0 điểm)</b></i>
<b>A. Về kĩ năng</b>


- Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định.


- Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích,
chứng minh, bình luận…; hành văn mạch lạc, trơi chảy, có cảm xúc; khơng mắc lỗi dùng từ, chính tả.


<b>B. Về kiến thức</b>


Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau:
<b>1. Mở đoạn</b>


- Trên con đường chinh phục tri thức của nhân loại chẳng ai mà không biết đến hai chữ: “đỗ – trượt”.


- Có lẽ đó là cặp từ gắn liền với cuộc sống, với tâm trí của những con người đã – đang và sẽ đi tìm con đường
đến tri thức. Từ ngàn xưa đã vậy.


<i>- Chắc hẳn các bạn đã có lần đọc văn bản Đi thi tự vịnh của Nguyễn Công Trứ, một sĩ tử có mong ước chinh</i>
phục con đường gian nan ấy. Tôi đã đọc, và suy ngẫm. Văn bản ấy làm đọng lại trong tôi biết bao tâm trạng
về vấn đề thi cử trong cuộc sống xưa và nay.



<b>2. Phân tích và chứng minh</b>


- Hiện nay nền giáo dục nước ta vẫn còn căn bệnh thành tích:


+ Việc thi đua giữa các khu vực, các trường, các thầy cô và giữa các học sinh với mục đích khiến mọi người
coi trọng học tập, thi đua để giành kết quả tốt nhất nhưng lại vơ tình khiến căn bệnh thành tích ngày càng trở
nên trầm trọng.


+ Chính việc đó đã ảnh hưởng rất lớn đến phụ huynh, học sinh, ai cũng mong con em mình đỗ và khơng chấp
nhận việc con em mình thi trượt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

người khơng cần biết con em mình, học trị mình có kiến thức khơng mà thúc ép, tìm mọi cách để “đỗ”. Cịn
học sinh, ai lại muốn mình trượt?


- Việc “đỗ – trượt” của học sinh đã trở thành một vấn đề hết sức sơi nổi mỗi khi hè đến, kì thi tới đặc biệt là ở
kì thi chuyển cấp, thi đại học, nó được sự quan tâm của cả cộng đồng và nhất là những người liên quan.
<b>3. Bàn luận và mở rộng</b>


- Xưa nay, chuyện đỗ – trượt gắn liền với sự học của học sinh. Chăm chỉ thì đỗ cịn lười nhác thì trượt. Bây
giờ, sự đỗ – trượt đó có sự biến tướng đi chút ít. Nhiều khi học sinh học kém nhưng vẫn đỗ vì họ chăm chỉ
nên học đúng phần thi, học tủ không may trúng tủ, chép được bài của bạn hoặc “copy”… hoặc do chọn
trường thi phù hợp với lực học, điểm vào không cao. Ngược lại, trượt do tâm lí hôm thi thí sinh mất bình
tĩnh, lệch tủ, đề q khó ơn khơng trúng, điểm thi khá cao nhưng chọn trường quá tầm… Việc trượt – đỗ
cũng có phần của “vận may” bên cạnh việc ôn tập của học sinh.


- “Đỗ” đương nhiên là ai cũng muốn, thế nhưng việc “đỗ” có phải là tất cả? Nhiều bạn coi việc thi trượt như
một điều cực kì kinh khủng, khó chấp nhận. Do nhiều sức ép từ cha mẹ và cảm tưởng ánh mắt khinh thị của
bạn bè, thầy cô nên rất nhiều trường hợp học sinh thi trượt thì tự tử, trầm cảm, hoặc khơng dám đi đâu…
Tổng thống Mĩ A. Lincon trong thư gửi hiệu trưởng có viết: “Ở trường xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp
nhận thi trượt còn vinh dự hơn gian lận trong khi thi”. Đúng vậy, thi trượt nhưng là ta đã thi trung thực, làm


bài rất cố gắng đáng để ngẩng cao đầu hơn những kẻ đỗ nhờ lót chân trong chạy chọt, quay cóp, nhìn bài
bạn…


- Xã hội quá trọng cái danh, cái thành tích mà không hề nghĩ đến chất lượng. Sẽ ra sao nếu các học sinh yếu,
kém bị thi trượt mà vẫn đỗ làm bác sĩ, y tá, giáo viên, kĩ sư. Họ có cái danh đấy nhưng năng lực đâu ra? Họ
nắm giữ các ngành trọng điểm, hàng đầu thì những thế hệ sau và xã hội sẽ loạn như thế nào?


- Cần phải chấp nhận thực tế rằng con cái của chúng ta lực học được đến đâu để có những định hướng về
trường thi, nghề nghiệp cho con em mình chứ khơng vì cái oai của mình mà thúc ép con em mình học, bắt
con mình phải đăng kí trường này trường nọ, nếu khơng đủ thì chạy cho con dù có mất bao nhiêu tiền. Đó
quả là một sai lầm lớn, không chỉ gây hại cho xã hội, cho tương lai đất nước mà cịn khiến cho chính con em
mình một áp lực học tập nặng nề vượt quá khả năng bản thân dễ dẫn đến những rối loạn tâm lí, trầm cảm
hoặc khủng hoảng đầu óc…


<b>4. Bài học nhận thức và hành động</b>


- Thất bại là mẹ thành công. Trượt cũng chưa hẳn là đã hết, chỉ là thành cơng đến muộn mà thơi. Đỗ chắc gì
đã tốt, nếu một người chưa trải qua thất bại họ dễ dẫn đến tâm lí tự phụ, kiêu căng cho mình là giỏi nhất, khi
gặp các vấn đề dễ dẫn đến tâm lí khó chấp nhận sự thực. Trượt – khiến bạn rèn luyện sự kiên cường giúp
vượt qua mọi khó khăn, khiến bạn có nghị lực để tiến lên. Biết đâu, lùi một bước để tiến ba bước. Đương
nhiên, nói như thế khơng có nghĩa là khuyến khích thi trượt? Thành công đến chỉ với những con người biết
cố gắng.


- Trượt – đỗ là chuyện thường tình trong học tập, có học tập, có thi cử, có đỗ – trượt. Biết mình biết người,
biết chấp nhận thất bại, biết nỗ lực cố gắng – đó mới là cái quan trọng giúp bạn có được thành cơng thực sự
trong tương lai. Các bậc phụ huynh hãy luôn sát cánh bên con em mình cổ vũ, hiểu con em mình – đó cũng là
một động lực lớn khiến cho các sĩ tử thấy cố gắng hơn và đỡ áp lực hơn.


<i><b>Câu 2: (5,0 điểm)</b></i>
<b>1. Mở bài</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Ơi những dịng sơng bắt nước từ đâu</i>


<i>Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát.</i>


<i>(Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm)</i>
Tổ quốc Việt Nam có trăm núi nghìn sơng diễm lệ, có biết bao lời thơ, câu hát và trang văn đã cất lên để ngợi
<i>ca sông núi. Bút kí Ai đã đặt tên cho dịng sơng? Của Hồng Phủ Ngọc Tường là một trường hợp như thế.</i>
Tác phẩm không chỉ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật tài hoa độc đáo mà cịn bộc lộ tấm lịng gắn bó
sâu sắc của nhà văn đối với mảnh đất miền Trung của Tổ quốc.


<i><b>- Dẫn ra vấn đề nghị luận</b></i>


<i>+ Chính vì vậy mà khi bàn về hình tượng sơng Hương trong bút kí Ai đã đặt tên cho dịng sơng? Của Hồng</i>
<i>Phủ Ngọc Tường có ý kiến cho rằng: “Vẻ đẹp nổi bật của sơng Hương là cảnh sắc thơ mộng tình tứ”. Ý kiến</i>
<i>khác lại cho rằng: “Vẻ đẹp bề sâu của sơng Hương là trầm tích văn hóa, lịch sử”, có thể thấy các ý kiến đã</i>
thể hiện sâu sắc vẻ đẹp của Hương giang xứ Huế mộng mơ.


<b>2. Thân bài</b>


<i><b>2.1. Khái quát chung</b></i>


- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Tác phẩm có rất nhiều ánh lửa của
tình u thiên nhiên đất nước và con người Việt Nam; kết hợp chặt chẽ giữa trí tuệ và trữ tình, nghị luận sắc
bén và suy tư nhiều chiều, tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng. “Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong mấy
nhà văn viết kí hay nhất nước ta hiện nay” (Nguyên Ngọc)… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng
nội, súc tích mê đắm và tài hoa.


<i>- Ai đã đặt tên cho dịng sơng? Là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế năm 1981, in trong tập sách cùng tên. Với</i>
sự tinh tế của một nghệ sĩ, với tình u dịng sơng Hương của xứ Huế mộng mơ, Hồng Phủ Ngọc Tường đã


diễn tả thành cơng vẻ đẹp dịng sơng Hương.


<i><b>2.2. Giải thích ý kiến</b></i>


- Vẻ đẹp nổi bật vẻ đẹp hiện lên trên “bề nổi” thường gây ấn tượng vượt trội, dễ dàng cảm nhận bằng trực
quan. Ý kiến thứ nhất coi cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, trữ tình là nét đẹp nổi bật của Sơng Hương.


- “Vẻ đẹp bề sâu” là vẻ đẹp ẩn chìm, khuất lấp, khơng dễ dàng phát hiện mà địi hỏi phải có tri thức phong
phú, những chiêm nghiệm sâu sắc mới khám phá ra được. Ý kiến thứ hai coi những trầm tích văn hóa, lịch sử
là vẻ đẹp bề sâu của sông Hương.


<i><b>2.3 Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương theo định hướng ý kiến</b></i>
<i><b>2.3.1. Cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, tình tứ</b></i>


<b>a. Sơng Hương thuộc thành phố duy nhất</b>


- Sông Hương là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời mà đất trời tặng riêng cho xứ Huế. Suốt hành trình từ thượng
nguồn xa xôi đến khi đổ ra biển lớn, sơng Hương vẫn nằm trong vịng tay ơm ấp của xứ Huế mộng và thơ.
- Nghĩ đến tình yêu chung thủy của Hương giang dành cho xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường khơng khỏi bồi
<i>hồi xúc động: “Trong những dịng sơng đẹp ở các nước mà tơi thường nghe nói đến, hình như chỉ sơng</i>
<i>Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Chỉ bằng một câu văn giản dị, Hồng Phủ Ngọc Tường đã ghim</i>
vào lịng người đọc vẻ đẹp độc đáo của sông Hương.


<b>b. Sông Hương ở thượng nguồn</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Hương khi “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Sử dụng</i>
động từ, tính từ mạnh diễn tả vẻ đẹp sông Hương ở thượng nguồn mang sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy
cá tính. Hình ảnh có sức gợi, sức liên tưởng cao khiến người đọc cảm nhận sông Hương như một thực tế tràn
đầy nhựa sống, mạnh mẽ và cá tính.



<i>- Sông Hương như “một cơ gái Di-gan phóng khống và man dại”, có “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do</i>
<i>và trong sáng” và sông Hương như một cô gái đã bị “chế ngự sức mạnh bản năng” “mang một sắc đẹp dịu</i>
<i>dàng và trí tuệ”, “là người mẹ phù sa”, mang vẻ đẹp còn phong kín, bí ẩn. Các từ đi theo cặp, có sự hịa</i>
thanh kết hợp với thủ pháp so sánh, nhân hóa khiến sơng Hương giống như là cô gái đẹp, cá tính luôn căng
tràn sức sống lại giống như người mẹ hiền nuôi dưỡng sự sống. Sông Hương mang nét đẹp của con người xứ
Huế, là một phần của Huế hay chính sơng Hương đã góp phần tạo nên một tạng riêng của con người xứ Huế.
 Thủ pháp so sánh, nhân hóa, liên tưởng kì thú, độc đáo kết hợp với cách sử dụng hình ảnh ấn tượng để làm
nổi bật vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn, một dịng sơng hoang dại, phóng khống nhưng khơng kém
phần trữ tình, bí ẩn.


<b>c. Sơng Hương ở ngoại vi thành phố</b>


 Về đến đồng bằng, sông Hương có những thay đổi và bộc lộ nhiều vẻ đẹp đa dạng:
- Thay đổi:


<i>+ Thay đổi về tính cách: “mang sắc một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng</i>
<i>văn hóa xứ sở”.</i>


<i>+ Thay đổi về hình dáng: “chuyển dịng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo</i>
<i>những đường cong thật mềm”, “mềm như tấm lụa”, “uốn một cánh cung rất nhẹ…; đường cong ấy làm cho</i>
<i>dịng sơng mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” khơng nói ra của tình u”.</i>


 Những thay đổi về mặt tự nhiên có thể giải thích được lại được tác giả giải thích bằng một tầm nhìn khác:
dường như những thay đổi của sơng Hương khơng phải do địa hình tự nhiên mà nó là bản chất, là thuộc tính
của dịng Hương Giang. Về đến đồng bằng, con sơng đã thực sự trở về với tính cách dịu dàng mềm mại linh
hoạt. Từ tượng hình và cách liên tưởng táo bạo, Hồng Phủ Ngọc Tường đang nhìn sơng Hương như một
người con gái đáng yêu của xứ sở mình.


<i>- Vẻ đẹp đa dạng: cảnh đẹp sông Hương như bức tranh nhiều đường nét: Vẻ đẹp đa màu sắc, biến ảo: “ sắc</i>
<i>nước trở nên xanh thẳm”, “những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm</i>


<i>xanh, trưa vàng, chiều tím””  cho thấy sự quan sát tinh tế, sâu sắc. Vẻ đẹp trầm mặc mang màu sắc triết lí, cổ</i>
thi: sông Hương chảy dưới chân những rừng thông u tịch và những lăng tẩm đồ sộ  nếu khơng sống, hiểu và
hồi niệm về sơng Hương thì tác giả khơng thể có cái nhìn đầy suy tư và chiêm nghiệm như thế. Để thấu thị
được vẻ đẹp đó, nhà văn phải là người am hiểu lịch sử của dịng sơng. Vẻ đẹp vui tươi giữa những biển bãi
xanh biếc của vùng ngoại ô. Vẻ đẹp mơ màng trong sương khói khi nó rời xa thành phố để đi qua những bờ
tre, lũy trúc và những hàng cau thơn Vĩ Dạ.


 Hồng Phủ Ngọc Tường khơng phải đang viết về sông Hương như một cảnh đẹp tự nhiên của xứ Huế mà
là đang viết về sông Hương như một người con của mảnh đất quê hương, một phần cơ thể của xứ Huế thơ
mộng, lãng mạn và trữ tình. Thủ pháp so sánh, liên tưởng rộng tự do phóng khống rất đặc trưng của kí đã
được Hoàng Phủ Ngọc Tường sử dụng tối đa đã mang lại hiệu quả nghệ thuật cao. Trong cái nhìn sâu sắc
tinh tế và lãng mạn của tác giả, thủy trình của dịng sơng Hương như cuộc tìm kiếm tình nhân của người con
gái đẹp, duyên dáng và tình tứ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

- Vẫn là thái độ và cử chỉ của người tình đang u khi tả sơng Hương vào gặp thành phố cổ: “vui tươi hẳn
lên”, uốn một cánh cung rất nhẹ, mềm hẳn đi như tiếng “vâng” khơng nói của tình yêu”. Cách so sánh lạ,
dùng tiếng “vâng” vốn trừu tượng, e ấp, ngập ngừng, ý vị, thiêng liêng trên bờ mơi cơ gái đang u để tả hình
dáng mềm mại nơi cánh cung của dịng sơng  cái nhìn tình từ, thống nhất, đem lại cho người đọc những khoái
cảm thẩm mĩ độc đáo.


- Liên tưởng của tác giả: So sánh mở rộng với sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét để thấy sự
tương đồng – những dịng sơng chảy qua, giữa lịng thủ đơ, thành phố châu Âu, châu Á. So sánh với dòng
Nê-va chảy qua Pê-téc-bua (Nga) để lắng nghe được cái nhịp chậm rãi buồn bâng khuâng của điệu slow,
ngập ngừng nửa đi nửa ở trước khi dịng sơng xi ra biển cả như nỗi vương vấn, và chút lẳng lơ, kín đáo.
Đánh thức trong tâm hồn giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại: muốn hóa làm một con chim nhỏ đứng co một chân
trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh qua, khơng kịp cho
lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo.  Hai nghìn năm trước: triết gia
<i>Hi Lạp đã “khóc suốt đời vì dịng sơng trơi đi q nhanh”. Nhớ lại con sơng Hương: “ quý điệu chảy lững lờ</i>
<i>của nó khi đi ngang thành phố”  điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế.</i>



 Nét độc đáo nhất của dòng sông Hương đoạn này chính là ở những chi tiết và suy tư cảm nhận của một
người con rất yêu, rất hiểu dịng sơng và kinh thành Huế. “Hành trình của sơng Hương từ nguồn ra biển là
hành trình của tâm hồn xứ Huế” (Trần Đình Sử); nghệ thuật nhân hóa khiến Hương Giang giống như một
người gái đẹp đang đi tìm người tình mong đợi – một hành trình gian trn và cũng khơng hề ngắn ngủi, một
cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó; sơng Hương mang vẻ đẹp dịu dàng,
mềm mại và nghĩa tình.


<i><b>2.3.2. Vẻ đẹp sơng Hương dưới góc nhìn văn hóa</b></i>


 Hồng Phủ Ngọc Tường khơng quan sát sông Hương như người khách phương xa ngỡ ngàng, bất ngờ về vẻ
đẹp của dịng sơng, mà cầm bút với tâm thế của người con của xứ Huế. Am hiểu sâu sắc và dành một tình
yêu lớn lao cho Huế và cho sơng Hương. Vì thế, ơng nhìn sơng Hương trong chiều sâu văn hóa của nó. Sơng
Hương được cảm nhận từ nhiều góc độ.


<b>a. Từ góc độ hội họa</b>


<i>- Sơng Hương cùng những chi lưu của nó tạo nên những đường nét tinh tế làm nên vẻ đẹp cố đô: “ kéo một</i>
<i>nét thẳng thực… chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng</i>
<i>non”… “những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít”;… “những ánh lửa</i>
<i>thuyền chài của một linh hồn mơ tê xưa cũ”…</i>


<b>b. Từ góc độ âm nhạc</b>


<i>- “Con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố… Đấy là điệu</i>
<i>slow tình cảm dành riêng cho Huế”.</i>


 Dịng chảy con sơng Hương hay chính là tình u sâu lắng mà nàng dâng tặng cho thành phố Huế.
<i>- “Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”.</i>


<i>- “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dịng sơng này, trong một</i>


<i>khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”.</i>


 Hoàng Phủ Ngọc Tường có cái nhìn phát hiện sâu sắc: bản đàn của xứ Huế chính là “ bản đàn đã đi suốt
<i>đời Kiều” và “Tứ đại cảnh!” đã kịp vọng vào trong bản đàn của Kiều, trở thành tiếng nói đồng điệu với tâm</i>
hồn Kiều.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>- “Có một dịng thi ca về sơng Hương”, “dịng sơng ấy khơng bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của</i>
<i>các nghệ sĩ”.  Sông Hương là nguồn cảm hứng bất tận.</i>


- Mỗi nhà thơ có một khám phá riêng về nét đẹp của dịng sơng này:


<i>+ Tản Đà: “Dịng sơng trắng – lá cây xanh”.  Từ xanh biếc thường ngày bỗng thay màu rực rỡ, bất ngờ.</i>
<i>+ Cao Bá Quát: “như kiếm dựng trời xanh”  hiên ngang hùng tráng.</i>


<i>+ Bà Huyện Thanh Quan: “nỡi quan hồi vạn cổ với bóng chiều bảng lảng”.</i>


<i>+ Tố Hữu: “sức mạnh phục sinh trong tâm hồn”; trong sự đồng cảm cùng đại thi hào Nguyễn Du.</i>


 Sông Hương mang đến niềm cảm hứng bất tận, mới mẻ cho các nghệ sĩ. Các tác giả, tác phẩm viết về Huế
và dịng sơng Hương: Thu Bồn, Ngũn Trọng Tạo, Hàn Mặc Tử…


<b>d. Dịng sơng Hương với những phong tục, vẻ đẹp tâm hồn người dân xứ Huế</b>


- Màn sương khói trên sống Hương là màu áo điều lục, một sắc áo cưới mới của các cô dâu trẻ trong tiết
sương giáng.


- Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như một nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người xứ Huế: dịu
dàng, trầm tư.


 Từ đầu đoạn trích, miêu ta về sông Hương, nhưng không phải như một phong cảnh đẹp mà tác giả khắc


họa nó giống như một con người xứ Huế (cơ gái Di-gan, mẹ phù sa…) gần gũi, thân thiết, giàu tình cảm.
Dịng sơng hiện diện như một bức tranh có đường nét, lại được khám phá, phát hiện dưới góc nhìn của âm
nhạc, thi ca và gắn liền với phong tục của người dân xứ Huế.


 Đoạn văn thể hiện sự uyên bác tài hoa của tác giả trong cái nhìn liên tưởng độc đáo cùng với những triết
luận sâu sắc về mối quan hệ giữa dịng sơng với thi ca, nhạc, họa. Am hiểu sâu sắc về hội họa, âm nhạc và thi
ca, điểm nhìn xuyên suốt từ truyền thống đến hiện đại, đậm chất hoài niệm, suy tư (đặc biệt trong cái nhìn
đồng cảm và phát hiện với Nguyễn Du và Kiều). Ngôn từ chau chuốt, mềm mại, giàu chất thơ. Hình ảnh so
sánh, liên tưởng độc đáo (sơng Hương như người tài nữ, là dịng sơng khơng tự lặp lại mình…


<i><b>2.3.3. Vẻ đẹp sơng Hương gắn liền với các sự kiện lịch sử</b></i>


- Dịng sơng Hương khơng chỉ mang trong mình nét đẹp tự nhiên với những đường nét mềm mại, không chỉ
nổi bật trên nền văn hóa cổ kính, trầm lắng mà cịn khiến tác giả ấn tượng mạnh mẽ về bề dày lịch sử của nó.
Sơng Hương đã lớn lên và âm thầm phát triển bên cạnh sự phát triển của xã hội loài người.


- Sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thủa còn là một dịng
<i>sơng biên thùy xa xơi của đất nước các vua Hùng. Tên của sông Hương được ghi trong Dư địa chí (1435) của</i>
Ngũn Trãi, nó mang tên là Linh Giang (nghĩa là dịng sơng thiêng). Dịng sơng ấy là điểm tựa, bảo vệ biên
cương thời kì Đại Việt. Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, gắn liền tên tuổi của người
anh hùng Nguyễn Huệ. Thế kỉ XIX, nó đọng lại với máu của những cuộc khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám
với những chiến công rung chuyển. Cuộc tiến công mùa xuân Mậu Thân (1968), bị tàn phá nặng nề xong vẫn
kiên trinh với lời thề sắt đá.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

một tầm vóc kì vĩ, lớn lao, một ý nghĩa thiêng liêng và một tinh thần bất diệt. Nhìn sơng Hương trong sự vận
động: từ một con sông địa lí trở thành con sông lịch sử; từ một người con gái đẹp và tài hoa trở thành người
con gái kiên cường của đất nước. Sông Hương không chỉ in dấu lịch sử, song hành cùng lịch sử mà còn chứa
đựng lịch sử của riêng nó.


<i><b>2.4. Bình ḷn ý kiến</b></i>



- Khám phá vẻ đẹp sơng Hương dễ dàng nhận thấy, hai ý kiến nhận xét đều phù hợp và có cơ sở, khơng đi
vào cụ thể chi tiết, hai ý kiến đều vươn tới tầm khái quát cao. Ý kiến thứ nhất nghiêng về ngợi ca khẳng định
vẻ đẹp thơ mộng của cảnh sắc thiên nhiên địa lí. Ý kiến thứ hai lại đi sâu khám phá giá trị văn hóa lịch sử của
dịng sơng.


- Mối quan hệ giữa hai ý kiến: hai ý kiến có vẻ khác nhau nhưng khơng đối lập mà bổ sung, tương hỗ cho
nhau, hợp thành cái nhìn tồn diện thống nhất về vẻ đẹp của Hương giang xứ Huế.


<i><b>2.5. Liên hệ</b></i>


<i><b>a. Khổ thơ trong Đây thôn Vĩ Dạ</b></i>


<i>- Đây thôn Vĩ Dạ thuộc thể loại thơ điên của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được khởi nguồn cảm hứng từ tấm bưu</i>
thiếp và lời hỏi thăm của Hoàng Thị Kim Cúc – người con giá thôn Vĩ mà Hàn Mặc Tử từng thầm thương
trộm nhớ. Bài thơ là bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh, thể hiện nỗi buồn cơ đơn của tác giả trong
một mối tình xa xăm, vơ vọng, một tấm lịng thiết tha của nhà thơ đối với thiên nhiên, cuộc sống, con người.
- Ở khổ thơ đầu, dẫu chỉ trong tâm tưởng nhưng nó là cảnh chân thực trong hồi ức, nhưng đến khổ hai mọi
thứ đã đã trở nên mờ ảo hơn, mờ mờ ảo ảo qua cách nhảy cóc quen thuộc siêu lôgic của thơ điên.


- Mở đầu khổ thơ vẫn là những cảnh thực đẹp tới nao lòng về con sơng Hương trong đêm trăng có gió thổi,
mây vờn nhè nhẹ, với dòng nước chảy chầm chậm buồn thiu như để hòa hợp với sự nhẹ lay của hoa bắp, mới
chớp mắt đó thơi cảnh đã được chuyển từ thực sang ảo: “Gió theo lối gió, mây đường mây”.


- Nỗi niềm tiếc nuối chia li đó mang theo nỗi lịng Hàn Mặc Tử gửi gắm trong dịng sơng Hương thơ mộng:
“Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Trong khung cảnh sông nước ấy, thời gian biến chuyển linh hoạt. Thoắt
<i>cái, cảnh đã chuyển sang một buổi đêm trăng huyền ảo: “Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó/ Có chở trăng về</i>
<i>kịp tối nay?”. Đây là cảnh thực mà cứ như ảo, vì dịng sơng ở đây khơng chỉ là dịng sơng của sóng nước mà</i>
cịn là dịng sơng của ánh sáng lấp lánh trăng vàng. Cũng vì thế, con thuyền vốn là cảnh thật nay trở thành
một hình ảnh của mộng tưởng.



<i><b>b. Khổ thơ trong Phú sông Bạch Đằng</b></i>


- Trong lịch sử Văn học nghệ thuật Việt Nam, nhiều địa danh của đất nước đã trở thành những đề tài hấp dẫn,
vì ghi dấu những chiến cơng vĩ đại như Hàm Tử, Chi Lăng, Đống Đa, sông Lô… Nhưng gợi nhiều cảm hứng
nhất có lẽ phải kể đến sơng Bạch Đằng lịch sử – nơi đã từng diễn ra những trận đánh quyết liệt chống quân
xâm lược phương Bắc.


- Ấn tượng đầu tiên mà Trương Hán Siêu đưa đến cho người đọc là sự bề thế rộng lớn và sức sống bền bỉ
muôn đời của Bạch Đằng giang. Con sông này thật hùng vĩ, bởi rộng “bát ngát” và dài “mn dặm”. Như
<i>vậy nó khơng những là đại giang mà cịn là trường giang ( Bát ngát sóng kình mn dặm) với bao lớp sóng</i>
lớn trùng điệp.


- Cái tài của Trương Hán Siêu là ở chỗ ngay trong khi miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ và nên thơ của Bạch Đằng
giang vẫn gợi lên được những nét đìu hiu, hoang vắng cho thấy dấu của những trận chiến kinh thiên động địa
năm xưa vẫn cịn đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

- Có thể thấy cả ba tác giả đều gắn bó, yêu quý và tự hào về dịng sơng của q hương, đất nước mình nên
mới có những câu văn, vần thơ thấm đẫm tình cảm như thế.


- Đề tài về dịng sông không phải là đề tài mới trong văn học nghệ thuật, trước Trương Hán Siêu, Hàn Mặc
Tử, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có rất nhiều những tao nhân mặc khách cũng như các nhà văn, nhà thơ đã
họa hình, khắc nét về những dịng sơng thơ mộng, trữ tình. Tuy nhiên người đọc có thể nhận thấy sự khám
phá riêng của mỗi tác giả trong từng tác phẩm của mình khi viết về dịng sơng để gửi gắm những nỗi niềm
tâm tự, tự hào:


<i>+ Làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của Ai đã đặt tên cho dịng sơng? Là tình u đắm say với dịng sơng được</i>
thể hiện bằng tài năng của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đến với Huế mộng mơ là đến với sông Hương, đến với
tiếng chuông chùa Thiên Mụ, đến với tiếng gà Bao Vinh, là đến với lăng tẩm đế vương, đến với những con
người thủy chung trọn tình trọn nghĩa, là đến với những bài ca điệu hò dân gian dịu ngọt. Tác giả bài bút kí


<i>Ai đã đặt tên cho dịng sơng? Đã nói hộ lịng ta những tình cảm sâu sắc, tốt đẹp ấy.</i>


<i>+ Đoạn thơ trong Đây thôn Vĩ Dạ thực sự là một đoạn thơ đậm chất Huế, là tiếng lòng của thi sĩ họ Hàn tha</i>
thiết yêu đời, yêu người. Đoạn thơ không chỉ khắc họa đầy đủ tâm cảnh, phong cảnh mang nội dung sâu sắc,
mới mẻ mà cịn có sự độc đáo trong việc sử dụng nghệ thuật với những hình ảnh mang tính biểu tượng, ngôn
ngữ tinh tế, biểu cảm cùng bút pháp gợi tả hấp dẫn, sinh động tạo cho đoạn thơ những chiều sâu không thể
nào kể hết.


<i>+ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu xứng đáng là một trong những kiệt tác của văn học trung đại</i>
Việt Nam. Tác phẩm là bài ca yêu nước tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc; là khúc ca ca ngợi lí tưởng chính
nghĩa của dân tộc ta. Tên tuổi của những anh hùng dân tộc như Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn… và những
chiến cơng lẫy lừng của họ sẽ trường tồn cùng dịng sông Bạch Đằng lịch sử.


<i>- Đến với sông Hương quá bút kí Ai đã đặt tên cho dịng sơng? Của Hồng Phủ Ngọc Tường, và sơng Hương</i>
<i>qua thi phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử; đến với Bạch Đằng giang trong Phú sông Bạch Đằng của</i>
Trương Hán Siêu người đọc sẽ thấy yêu và gắn bó hơn với dáng hình và dịng chảy của những dịng sơng trên
<i>mảnh đất hình chữ S thân thương. Những dịng sơng ấy sẽ mãi là kỉ niệm đẹp: “Hỡi con sơng đã tắm cả đời</i>
<i>tơi/ Tơi giữ mãi mối tình mới mẻ” (Quê hương, Tế Hanh).</i>


<b>3. Kết bài</b>


</div>

<!--links-->

×