LỜI MỞ ĐẦU
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” đó là khẩu hiệu mà các quốc gia và cộng
đồng quốc tế hướng tới nhằm mục đích chăm sóc, bảo vệ tương lai của mỗi quốc gia
và nhân loại. Việt Nam cũng là một đất nước để cao khẩu hiệu này. Tuy nhiên , hiện
nay trẻ em cũng là một đối tượng bị tác động mạnh mẽ nhất trước những biến đổi
của nền kinh tế thị trường.
Hiên tại, các giá trị và cấu trúc của gia đình bị phá vỡ do tỷ lệ ly hôn, ly thân
ngày càng tăng và hậu quả của nó là có hàng trăm trẻ em rơi vào hồn cảnh đặc biệt
khó khăn,các em đang phải chịu rất nhiều khó khăn và thiệt thịi. Đây là vấn đề
nhức nhối của tồn xã hội, địi hỏi phải có sự quan tâm chăm sóc với phương pháp
chun mơn đặc thù và tính chun mơn cao của người làm công tác xã hội, nhằm
hỗ trợ các em và cộng đồng giải quyết những vấn đề đó.
Một trong những vấn nạn về trẻ em mà sinh viên muốn nhắc tới ở đây chính
là tình trạng xâm hại tình dục đối với trẻ em ngày một gia tăng. Vấn nạn này thực sự
là một vấn đề nhức nhối trong toàn xã hội. Hiện nay, xâm hại trẻ em hay lạm dụng
tình dục trẻ em đang là một vấn đề nghiêm trọng mà không chỉ trẻ em Việt Nam mà
khắp thế giới phải đối mặt. Trong những năm gần đây nổi lên những vụ xâm hại hết
sức kinh hoàng, mứa độ ngày càng gia tăng và độ tuổi bị hiếp thì ngày càng được trẻ
hóa.
Do vậy em đã chọn đề tài: “Cơng tác xã hội với trẻ em bị xâm hại tình dục”.
Do cịn nhiều hạn chế trong q trình tìm tài liệu và viết bài nên em mong nhận
được sự góp ý từ phía giảng viên để bài viết của em hoàn thiện hơn. Em xin chân
thành cảm ơn !
I. Cơ sở lí luận
1.Những khái niệm cơng cụ
1.1 Khái niệm trẻ em
Nhìn từ góc độ lịch sử, mỗi thời đại có quan niệm khơng hồn tồn giống
nhau về trẻ em. Hiện nay, khái niệm này không đồng nhất tại nhiều quốc gia trên thế
giới, ví dụ ở Australia và Anh trẻ em được quy định dưới 18 tuổi. Tại Singapore, trẻ
em là người dưới 14 tuổi…
Theo Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em: “Trẻ em có nghĩa là mọi
người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi
thành niên sớm hơn”(Điều 1).
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (2004): “Trẻ em quy định
trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
1.2 Khái niệm trẻ em có hồn cảnh đặc biệt
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật BVCS&GDTE năm 2004 thì trẻ em
có hồn cảnh đặc biệt được hiểu là trẻ em có hồn cảnh khơng bình thường về thể
chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và hồ nhập với
gia đình, cộng đồng.
Từ định nghĩa này, Điều 40 đã quy định: "Trẻ em có hồn cảnh đặc biệt bao
gồm trẻ em mồ cơi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật;
trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm
việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em phải làm việc xa gia
đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma tuý; trẻ em vi
phạm pháp luật". Theo đó:
Trẻ em mồ cơi và trẻ em bị bỏ rơi: là trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ
rơi, mất nguồn nuôi dưỡng; trẻ em mồ cơi cha hoặc mẹ nhưng người cịn lại là mẹ
hoặc cha mất tích theo quy định tại Điều 78 của Bộ luật Dân sự năm 2005 hoặc
không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật; trẻ em có
cha và mẹ hoặc cha hoặc mẹ đang trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại
giam, khơng cịn người ni dưỡng.
Trẻ em khuyết tật: là trẻ em có khuyết tật về thể chất và tinh thần. Trẻ em
khuyết tật cũng bao gồm đối tượng trẻ em bị khuyết tật bẩm sinh hoặc khuyết tật do
ốm đau bệnh tật, do tai nạn, do mìn/vật gây nổ hoặc nhiễm các chất hóa học.
Trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học: là trẻ em bị khuyết tật, dị tật bẩm
sinh do di chứng di truyền từ bố mẹ bị nhiễm chất độc hóa học hoặc bị tiếp xúc với
chất độc hóa học gây ra những tổn hại nặng nề về sức khỏe, tinh thần.
Trẻ em nhiễm HIV/AIDS: trong kế hoạch hành động Quốc gia và trẻ em bị
ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS được xác định bao
gồm: Trẻ em bị nhiễm HIV và trẻ có nguy cơ cao nhiễm HIV.
Trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại: theo
Công ước 182 của Tổ chức Lao động thế giới, lao động trong điều kiện môi trường
độc hại và nguy hiểm là những cơng việc mang tính chất gây hại cho sức khỏe, sự
an toàn và đạo đức của trẻ em.
Trẻ em phải làm việc xa gia đình: là trẻ em vì những lí do khác nhau nên phải
làm việc xa gia đình. Các em khơng thường xun được về gia đình và chịu nhiều
nguy cơ rủi ro từ môi trường làm việc và xã hội.
Trẻ em lang thang/đường phố: được định nghĩa ở Việt Nam bao gồm bốn
nhóm trẻ em sau đây:
- Trẻ em bỏ nhà và sống trên đường phố, những khu vực công cộng như công
viên, dưới gầm cầu ở các thành phố lớn mà khơng có bố mẹ hoặc người giám hộ
(khơng có mối liên hệ với gia đình).
- Trẻ em do hồn cảnh kinh tế khó khăn phải bỏ nhà đi kiếm sống trên đường
phố, tuy nhiên vẫn cịn giữ mối liên hệ với gia đình.
- Trẻ em từ các gia đình di cư lên thành phố, sống và kiếm sống trên đường
phố, các khu công cộng cùng cha mẹ của các em.
- Trẻ em dành phần lớn thời gian kiếm sống trên đường phố nhưng vẫn sống
tại nhà với bố mẹ hoặc người giám hộ.
Trẻ em bị xâm hại tình dục: theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới, “Xâm
hại tình dục” là sự tham gia của trẻ em vào hoạt động tình dục mà đứa trẻ đó chưa
đủ phát triển cả về mặt tâm sinh lý để tham gia và không thể chấp thuận tham gia,
hoặc hoạt động tình dục trái với các quy định của pháp luật hoặc các thuần phong
mỹ tục của xã hội.
Trẻ em nghiện ma túy: là trẻ em sử dụng và lệ thuộc vào các chất gây nghiện
được gọi chung là ma túy dẫn đến sự suy giảm các chức năng xã hội và ảnh hưởng
tiêu cực tới sự phát triển về thể chất và tinh thần của trẻ em.
Trẻ em vi phạm pháp luật: trẻ em/người chưa thành niên vi phạm pháp luật là
những người dưới 18 tuổi bị cáo buộc hoặc bị kết tội vi phạm pháp luật, bất kể là về
phương diện hành chính hay hình sự.
Sự phân loại trên đây chỉ mang ý nghĩa tương đối, bởi cùng một trẻ em cũng
có thể thuộc vào vài nhóm đối tượng. Tuy nhiên, từng loại trẻ em nêu trên đã được
nhận dạng khá rõ ràng trong đời sống xã hội hiện nay.
Trẻ em có nguy cơ/dễ bị tổn thương: là trẻ em chưa hoàn toàn rơi vào hoàn
cảnh đặc biệt nhưng có nhiều nguy cơ rơi vào hồn cảnh đặc biệt, do có xuất hiện
một số nguy cơ trong gia đình và cộng đồng. Trẻ em thuộc nhóm có nguy cơ bao
gồm:
Trẻ em bị ngược đãi, bạo lực; trẻ em bị tai nạn thương tích; trẻ em bị bn
bán, bắt cóc; trẻ em bị bỏ học (chưa học xong chương trình THCS); trẻ em sống
trong gia đình nghèo; trẻ em sống trong các gia đình có vấn đề xã hội ( ha mẹ ly
hơn, bạo lực gia đình); trẻ em sống trong gia đình có cha hoặc mẹ hoặc người ni
dưỡng trực tiếp chết vì HIV/AIDS; trẻ em sống trong gia đình có người mắc tệ nạn
xã hội; trẻ em sống trong gia đình có người vi phạm pháp luật; trẻ em sống trong gia
đình có cha mẹ đi làm ăn xa.
1.3 Khái niệm công tác xã hội và công tác xã hội với trẻ em
Khái niệm công tác xã hội là một ngành học thuật và hoạt động chuyên mơn
nhằm trợ giúp các cá nhân, nhóm, cộng đồng phục hồi hay tăng cường chức năng xã
hội góp phần đảm bảo nền an sinh xã hội
Công tác xã hội với trẻ em là các hoạt động chuyên môn của CTXH nhằm
thúc đẩy mối quan hệ của trẻ em với các lực lượng xã hội và gia đình để giải quyết
các vấn đề của trẻ. Thiết lập các chương trình, dịch vụ xã hội để đảm bảo các chính
sách xã hội cho trẻ, giúp trẻ được an toàn và phát triển tốt đẹp.
1.3.1 Vai trị của nhân viên cơng tác xã hội với trẻ em
- Hỗ trợ, giúp đỡ trẻ giải quyết những vấn đề xã hội thông qua các chính sách
xã hội, dịch vụ, chương trình hoạt động CTXH.
- Tư vấn tâm lý-xã hội, tư vấn pháp luật nhằm ngăn chặn và phòng ngừa các
vấn đề xã hội xảy ra với trẻ.
- Bảo vệ các quyền lợi của trẻ thông qua việc huy động các nguồn lực xã hội
- Kết nối, duy trì một cách hiệu quả mạng lưới các dịch vụ, các cá nhân, tổ
chức xã hội, gia đình và cộng đồng trong việc giúp đỡ trẻ.
- Tham mưu với các cấp lãnh đạo và Nhà nước trong các chiến lược hỗ trợ
giúp đỡ trẻ em, đào tạo và tuyển dụng cán sự xã hội vào các lĩnh vực hoạt động giúp
đỡ trẻ.
1.4 Công tác xã hội với trẻ em có hồn cảnh đặc biệt
CTXH với trẻ em có hồn cảnh đặc biệt là hoạt động của nhân viên công tác
xã hội sử dụng các kỹ năng chuyên môn và nghiệp vụ công tác xã hội, kết nối nguồn
tài nguyên trong xã hội nhằm giúp giúp trẻ phát huy những năng lực vốn có, vượt
qua những khó khăn, trở ngại của mình để vươn lên và hồ nhập với cuộc sống.
1.5 Vai trị của nhân viên cơng tác xã hội đối với trẻ em có hồn cảnh
đặc biệt
Vai trò người hỗ trợ
Nhân viên CTXH giúp cho TECOHCĐB giải quyết vấn đề của mình, hỗ trợ
trẻ có thể hoạt động theo cách thức của các em. Nhân viên CTXH khơng đứng ngồi
cuộc nhưng cũng khơng làm thay trẻ.
Vai trị người kết nối
Nhân viên CTXH thực hiện các hoạt động tuyên truyền, vận động, tạo điều
kiện để các em có thể tiếp cận với các nguồn lực cần thiết, đảm bảo sự phát triển
toàn diện cho trẻ, giúp trẻ phát huy năng lực vốn có của mình để hịa nhập xã hội.
Vai trò người giáo dục
Nhân viên CTXH là người đóng vai trị giáo dục, là người tuyên truyền giáo
dục, chuyển tải những thông tin đến trẻ một cách hiệu quả nhất. Nhân viên CTXH
phải có kiến thức, hiểu biết rộng về nhiều lĩnh vực.
Vai trò người biện hộ
Nhân viên CTXH đại diện cho nhu cầu của TECOHCĐB, bảo vệ cho lợi ích
của trẻ trước xã hội, thực hiện vai trị biện hộ góp phần tạo môi trường tốt hơn cho
trẻ, giúp các em không mặc cảm, tự ti.
Vai trò trung gian
Nhân viên CTXH giúp cho TECOHCĐB nhìn thấy vấn đề của các em, từ đó
hình thành thái độ hợp tác tích cực với nhau để giải quyết vấn đề chung. Nhân viên
CTXH là cầu nối giữa TECOHCĐB với các cá nhân, tổ chức xã hội.
1.6 Phương pháp công tác xã hội đối với trẻ em có hồn cảnh đặc biệt
Cơng tác xã hội cá nhân với trẻ có hồn cảnh đặc biệt
Đây là phương pháp nhằm tác động đến từng cá nhân trẻ em có hồn cảnh
đặc biệt để phục hồi, củng cố việc thực hiện các chức năng xã hội của trẻ, thông qua
đó giúp trẻ em có hồn cảnh đặc biệt hịa nhập vào đời sống xã hội.
Các thành tố của CTXH đối với trẻ có hồn cảnh đặc biệt
Thân chủ: Trẻ em có hồn cảnh đặc biệt gặp khó khăn trong việc hịa nhập xã
hội. Con người nói chung và trẻ em có hồn cảnh đặc biệt nói riêng là sản phẩm
của tự nhiên và xã hội vì vậy các em chịu ảnh hưởng rất lớn từ mơi trường bên
ngồi. Vấn đề của các em không phải chỉ xuất phát từ ngun nhân cá nhân mà cịn
xuất phát từ mơi trường xã hội.
Bản thân trẻ em có hồn cảnh đặc biệt có những nhu cầu giống và khác nhau,
điều kiện của các em cũng khơng giống nhau vì vậy, nhân viên CTXH cần có cách
thức tác động phù hợp để đạt được mục đích đề ra.
Vấn đề của thân chủ: vấn đề của trẻ em có hồn cảnh đặc biệt đang gặp phải
có thể thuộc về các lĩnh vực khác nhau: thiếu tình thương, bị cưỡng bức, bị bạo
hành… cần xác định đúng vấn đề mà trẻ đang gặp phải là gì? Nguyên nhân của vấn
đề từ phía cá nhân? Từ phía xã hội? nhân viên CTXH đánh giá nguyên nhân cốt lõi,
chủ yếu dẫn đến vấn đề trẻ đang mắc phải.
Các tổ chức xã hội khác: Vấn đề của trẻ em có hồn cảnh đặc biệt muốn được
giải quyết ngoài khả năng của trẻ cần có sự hỗ trợ của các tổ chức xã hội khác.
Nhân viên công tác làm cầu nối trung gian giữa các cá nhân và tổ chức xã hội. Họ
thực hiện theo chức trách, nghề nghiệp, trách nhiệm của mình.
1.7. Cơng tác xã hội nhóm với trẻ có hồn cảnh đặc biệt
Đây là sự tác động đến thân chủ là một nhóm trẻ có hồn cảnh đặc biệt bao
gồm nhiều trẻ gặp phải vấn đề giống nhau. Giúp cho các em phát huy khả năng của
mình trong q trình hịa nhập xã hội.
Các trường hợp sử dụng công tác xã hội với nhóm trẻ em có hồn cảnh đặc
biệt: Khi vấn đề xuất hiện là kết quả do mối quan hệ tác động của hai hoặc nhiều
người, khi nhóm trẻ có những nhu cầu hay những vấn đề giống nhau, khi vấn đề là
của một trẻ nhưng qua việc thực hiện CTXH với nhóm trẻ thì giúp cho những em
khác hiểu rõ hơn về vấn đề của chính mình.
Các loại hình cơng tác xã hội nhóm với trẻ em có hồn cảnh đặc biệt
CTXH nhóm nhằm mục đích trị liệu: Giúp cho nhóm trẻ giải quyết được
những vấn đề chung, qua đó nhằm thay đổi thái độ, hành vi của các thành viên trong
nhóm.
CTXH nhóm nhằm mục đích xã hội hóa: CTXH giúp cho trẻ phát triển nhân
cách từ đó hịa nhập tốt mơi trường xã hội.
Như vậy, với phương pháp CTXH với cá nhân và CTXH với nhóm đối với
TECOHCĐB người nhân viên CTXH sẽ có sự vận dụng linh hoạt trong việc tiếp
cận, hỗ trợ TECOHCĐB giải quyết vấn đề trẻ đang mắc phải.
1.8 Các cách tiếp cận trong dịch vụ công tác xã hội với trẻ em có hồn
cảnh đặc biệt
Tiếp cận theo nhu cầu
Tiếp cận theo nhu cầu của TECOHCĐB là cách tiếp cận dựa trên việc đáp
ứng tốt nhất của các dịch vụ CTXH đối với các nhu cầu của trẻ. Trước tiên là nhu
cầu đảm bảo cho sự phát triển thể chất của trẻ như được ăn uống, được mặc đủ ấm
và vệ sinh...Tiếp theo là nhu cầu cần được bảo vệ an toàn, ngăn ngừa những nguy cơ
gây tổn thương cho trẻ cả về thể chất, tinh thần và tình cảm. Nhu cầu thứ ba là nhu
cầu được vui chơi, giải trí và học tập. Thông qua những hoạt động này, trẻ sẽ được
phát triển, được hịa mình vào xã hội được gắn bó và dần tự khẳng định mình.
Nhu cầu thứ tư là nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu cuối cùng là nhu cầu
được phát triển và khẳng định bản thân. Đây là nhu cầu có một số người hiểu sai
cho là không quan trọng khi làm việc với trẻ. Nhân viên CTXH cần phải xác định rõ
nhu cầu nào của trẻ là ưu tiên và cấp bách nhất của trẻ.
Tiếp cận theo nhu cầu sẽ giúp nhân viên CTXH tránh được việc “đánh đồng”
và “chủ quan” khi cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho TECOHCĐB. Thay vào đó nhân
viên CTXH cần tìm kiếm những nhu cầu thực mà trẻ đang mong muốn được đáp
ứng. Trẻ và nhu cầu của trẻ cần được đặt vào vị trí trung tâm, chứ không phải ý
muốn chủ quan của cơ quan hỗ trợ hay của nhân viên CTXH. Cung cấp đúng các
dịch vụ mà trẻ mong muốn cũng như các hỗ trợ cần thiết để giải quyết đúng và hiệu
quả vấn đề của trẻ. Tiếp cận theo nhu cầu là cách tiếp cận mang tính nhân văn. Tính
nhân văn thể hiện ở việc coi trọng con người và những nhu cầu của chính bản thân
họ.
Tiếp cận theo nhu cầu đặt con người và những đặc điểm riêng có của họ vào
vị trí trung tâm, giúp nhân viên CTXH loại bỏ tính chủ quan khi tiếp cận với trẻ.
Điều này rất quan trọng vì nhiều trường hợp mọi người ln nghĩ trẻ cịn ít tuổi,
khơng biết gì, chưa có đủ nhận thức nên không quan tâm nhiều đến suy nghĩ cũng
như nhu cầu của trẻ. Từ đó dẫn đến việc quyết định thay và làm theo những gì mà
chủ quan người lớn cho là đúng.
Điều này là không tốt, về lâu dài làm cho trẻ không cảm thấy được tôn trọng
và lệ thuộc vào sự giúp đỡ của nhân viên CTXH. Hơn nữa nếu cung cấp không
đúng với nhu cầu của trẻ sẽ khiến trẻ chán nản và không tin tưởng vào nhân viên
CTXH. Như vậy, tiến trình giúp đỡ sẽ khơng hiệu quả. Nhân viên CTXH cần phải
lắng nghe để cảm thông một cách sâu sắc với những mong muốn của trẻ em có hồn
cảnh đặc biệt.
Tiếp cận dựa trên quyền trẻ em
Tiếp cận theo quyền trẻ em sẽ giúp hiểu trẻ em nói chung và trẻ em có hồn
cảnh đặc biệt nói riêng là một cá nhân độc lập với đầy đủ các quyền công bằng như
những người khác trong xã hội.
Cung cấp kiến thức và khích lệ các em biết đấu tranh cho quyền lợi chính
đáng của mình; giúp nhân viên CTXH huy động nguồn lực và kêu gọi sự quan tâm,
chú ý nhiều hơn từ phía các cơ quan tổ chức và cộng đồng với nhóm trẻ có hồn
cảnh đặc biệt để các em được hưởng những quyền và lợi ích cơ bản của mình và
việc tiếp cận theo quyền sẽ giúp đảm bảo quyền của nhóm trẻ em yếu thế được quan
tâm thực thi nhiều hơn, như vậy sẽ mang lại sự công bằng trong xã hội, giảm được
các tệ nạn và hậu quả xấu do trẻ em gây ra. Từ đó sẽ góp phần vào việc tăng cường
sức mạnh cho các tổ chức địa phương, cộng đồng và các nhóm.
Đây chính là nền tảng cho sự phát triển bền vững được tăng cường gấp đôi
bởi khi tham gia vào việc thực hiện các quyền, các em sẽ được tăng cường năng lực
và có trách nhiệm hơn với bản thân, gia đình và xã hội. Trong tương lai, khi các em
lớn lên do được tăng cường năng lực và có nhận thức đúng đắn nên sẽ đóng góp vào
sự phát triển nói chung và việc thực hiện quyền cho trẻ em nói riêng.
Tiếp cận vì lợi ích tốt nhất của trẻ
Tiếp cận theo tơn chỉ đem lợi ích tốt nhất cho trẻ là cách tiếp cận với việc
cung cấp các dịch vụ đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Tiếp cận theo ngun tắc
này có ý nghĩa ở bất cứ tình huống nào, nhân viên CTXH đều phải đặt lợi ích tốt
nhất cho trẻ em có hồn cảnh đặc biệt lên hàng đầu.
1.9. Những lưu ý khi tiếp xúc với trẻ có hồn cảnh đặc biệt
Dùng tình cảm chân thành
Với đặc điểm tâm lý rối nhiễu, phức tạp của TECOHCĐB khi tiếp xúc để làm
việc với trẻ cần dùng tình cảm chân thành nhằm tạo dựng lịng tin ở các em. Tình
cảm chân thành của nhân viên CTXH sẽ làm các em mở lịng về vấn đề của mình,
tạo điều kiện cho sự hỗ trợ giải quyết vấn đề của các em.
Không thương hại né tránh
Nhân viên CTXH thể hiện sự quan tâm chân thành đến các em, không hình
thức, khơng tỏ thái độ thương hại hay né tránh các em. Sự thương hại và né tránh sẽ
làm tăng khoảng cách giữa trẻ với nhân viên CTXH, điều này sẽ gây khó khăn cho
q trình giải quyết vấn đề của các em.
Khơng khinh ghét, thị uy
Trẻ em có hồn cảnh đặc biệt cũng như bao trẻ khác, cần được tơn trọng và
u thương. Nhân viên CTXH khơng vì sự thiệt thịi trong hồn cảnh, sự yếu thế
của các em, đỗ lỗi hoàn cảnh hiện tại là do một phần các em gây ra từ đó có thái độ
khinh ghét trẻ.
Mặt khác, nhân viên CTXH không thể hiện sự thị uy với trẻ vì cho rằng trẻ
chỉ là trẻ con, nhận thức hạn chế nên phải khiến trẻ phục tùng. Điều này càng làm
xấu đi mối quan hệ giữa nhân viên CTXH đối với trẻ. Một khi trẻ bị khinh ghét, thị
uy trẻ sẽ sống mãi trong vỏ bọc của mình và có sự đề phịng, chống đối với chính
nhân viên CTXH.
Tôn trọng tự do và nhu cầu của trẻ
TECOHCĐB cần được tơn trọng tự do và có quyền được hưởng những nhu
cầu chính đáng. Hơn ai hết nhân viên CTXH phải hiểu điều này. Nhân viên CTXH
không áp đặt suy nghĩ sắp xếp cuộc sống, sinh hoạt của trẻ theo ý muốn chủ quan
của mình. Cần phải có sự trao đổi với các em khi muốn các em thay đổi hiện tại
theo hướng tích cực. Hồn cảnh đặc biệt đã mang lại nhiều thiệt thịi cho trẻ, chính
vì vậy việc được đáp ứng các nhu cầu chính đáng là đảm bảo quyền cho các em.
Chú ý điểm mạnh của trẻ
Bản thân mỗi cá nhân đều tiềm ẩn những điểm mạnh của riêng mình, trẻ em
có hồn cảnh đặc biệt cũng khơng phải là ngoại lệ. Q trình làm việc với trẻ, nhân
viên CTXH cần phải chú ý khai thác các điểm mạnh của trẻ, chính điều này sẽ giúp
trẻ tự tin hơn trước nhân viên CTXH, tích cực đối diện với khó khăn mình đang gặp
phải để hợp tác giải quyết vấn đề.
Ln ln thành thật
Trẻ em có hồn cảnh đặc biệt ln có tâm lý đề phịng với mọi người xung
quanh. Chính vì vậy, nhân viên CTXH khi làm việc với trẻ cần phải luôn luôn thành
thật. Điều này sẽ giúp tạo dựng niềm tin ở trẻ, chỉ cần trẻ hồi nghi hoặc biết nhân
viên CTXH khơng thành thật, q trình can thiệp để hỗ trợ trẻ giải quyết vấn đề sẽ
rất khó thành cơng bởi lúc này nhân viên CTXH giống những người không đáng tin
khác trẻ từng gặp.
Không hứa những việc khơng thể thực hiện được
Trẻ em có hồn cảnh đặc biệt chịu nhiều thiệt thịi trong cuộc sống và rất cần
đến sự hỗ trợ của nhân viên CTXH. Tuy nhiên, khi can thiệp hỗ trợ giúp đỡ trẻ,
nhân viên CTXH phải biết lượng sức mình, căn cứ vào tình hình thực tế những
nguồn lực có thể trợ giúp các em. Tránh trường hợp hứa với trẻ những việc không
thể thực hiện được, điều này sẽ làm mất lịng tin ở trẻ nghiêm trọng.
Tuyệt đối khơng để trẻ mất lòng tin
Để gây dựng được lòng tin giữa nhân viên CTXH và trẻ em có hồn cảnh đặc
biệt khơng phải điều đơn giản, không thể vội vàng mà cần cả một quá trình tạo dựng
từ những sự việc nhỏ nhất, thể hiện sự nỗ lực cố gắng, chân thành từ nhân viên
CTXH. Chính vì vậy, một khi đã tạo dựng được lịng tin ở trẻ thì tuyệt đối khơng để
mất lịng tin. Trẻ em có hồn cảnh đặc biệt rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương, nếu
làm mất lòng tin ở trẻ chẳng những vấn đề của các em khơng được giải quyết mà
cịn có thể trầm trọng hơn.
Động viên, khen ngợi khi trẻ thực hiện hành vi đúng đắn
Trong q trình làm việc với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt , nhân viên CTXH
cần phải biết động viên, khen ngợi trẻ đúng lúc khi trẻ thực hiện hành vi đúng đắn.
Điều này giúp khích lệ tinh thần trẻ, các em sẽ cảm thấy mình có ích, mình là người
tốt, tự tin hơn, trẻ cảm thấy những cố gắng của mình được người lớn ghi nhận từ đó
làm tăng sức mạnh nội lực của trẻ trong hoàn cảnh hiện tại.
Khích lệ, gây hứng thú cho trẻ tham gia các hoạt động tích cực
Để trẻ em có hồn cảnh đặc biệt sớm vượt qua những khó khăn trong hiện tại
các em cần được tham gia vào nhiều hoạt động bộc lộ bản thân. Nhân viên CTXH
cần khích lệ và gây hứng thú cho các em tham gia các hoạt động tích cực. Chính sự
khích lệ của nhân viên CTXH sẽ giúp các em tự tin hơn, cảm thấy mình được ủng
hộ, chia sẽ. Tuy nhiên, không phải trẻ nào cũng sẵn sàng tham gia vào các hoạt động
này, nhân viên CTXH phải tìm cách gây hứng thú cho các em, để các em có động
lực thực hiện các hoạt động tích cực.
Thể hiện sự quan tâm
Trẻ em có hồn cảnh đặc biệt thường chịu nhiều thiếu thốn về tình cảm, nhân
viên CTXH cần thể hiện sự quan tâm chân thành đối với trẻ. Khi được quan tâm, trẻ
sẽ cảm thấy được bù đắp, cảm nhận sự an toàn, tăng cường sự hợp tác với nhân viên
CTXH để vượt qua những khó khăn hiện tại.
1.10 Các mơ hình chăm sóc dành cho trẻ em có hồn cảnh đặc biệt
Ở các nước đang phát triển, hệ thống phúc lợi xã hội và mạng lưới trung tâm
cơng tác xã hội, văn phịng tư vấn, điểm công tác xã hội cho trẻ em rất phát triển,
đội ngũ nhân viên cơng tác mang tính chun nghiệp hoạt động tại cấp cơ sở. Việc
bảo vệ trẻ em được thực hiện chủ yếu bởi các trung tâm công tác xã hội, các cơ sở
trợ giúp trẻ em và một phần ủy quyền cho các tổ chức phi chính phủ. Hầu hết các
quốc gia này đều hướng đến việc xây dựng “Hệ thống bảo vệ trẻ em” có tính đồng
bộ, đào tạo đội ngũ nhân viên cơng tác xã hội làm việc với trẻ em, duy trì các cơ sở
trợ giúp trẻ em và tạo gia đình thay thế cho trẻ em có hồn cảnh đặc biệt . Một số
mơ hình cho trẻ em được áp dụng như:
Mơ hình trị liệu hướng tới gia đình
Các dịch vụ hướng tới gia đình là “Các dịch vụ được cung cấp để giúp ngăn
ngừa các tình huống mâu thuẫn trong gia đình, giữ các thành viên hịa thuận trong
gia đình và bảo vệ gia đình”.
Khái niệm duy trì gia đình đã trở thành một mục tiêu quan trọng của một số
quốc gia. Các dịch vụ này cung cấp hoạt động có thể để nhằm giữ trẻ tại gia đình,
cung cấp trị liệu cho gia đình. Duy trì sự bền vững trong gia đình liên quan đến các
dịch vụ dựa vào gia đình và trị liệu gia đình.
Mơ hình hướng tới an sinh trẻ em
Cách tiếp cận này hướng tới an sinh của trẻ em qua việc cung cấp các chương
trình và dịch vụ nhằm duy trì sự phát triển của trẻ ở các khía cạnh thể chất, tâm lý,
tinh thần và văn hóa xã hội. Tập trung vào việc tăng cường mối quan hệ giữa trẻ em
với cha mẹ, vai trị của gia đình và trách nhiệm của cộng đồng đối với sự phát triển
của trẻ.
Ở Việt Nam, hiện nay đang triển khai nhiều dịch vụ hỗ trợ cho trẻ có hồn
cảnh đặc biệt. Bộ LĐ-TB&XH đã chỉ đạo các địa phương xây dựng và nhân rộng
mơ hình trợ giúp trẻ em có hồn cảnh đặc biệt như:
Các địa phương trong cả nước đã thực hiện việc chăm sóc tập trung cho trẻ
mồ cơi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em lang thang, trẻ em khuyết tật trong các cơ sở bảo trợ
xã hội; trẻ em vi phạm pháp luật trong các trường giáo dưỡng… Hiện nay cả nước
có trên 400 cơ sở chăm sóc tập trung các đối tượng xã hội, trong đó có trên 300 cơ
sở của Nhà nước và trên 100 cơ sở do các tổ chức xã hội, tôn giáo, tư nhân thành
lập, ni dưỡng khoảng 20 nghìn trẻ có hồn cảnh đặc biệt.
Song song với mơ hình chăm sóc thay thế tập trung, tại các địa phương trong
cả nước hiện nay từng bước chuyển đổi mơ hình chăm sóc tập trung sang mơ hình
gia đình chăm sóc thay thế hoặc nhà xã hội đối với trẻ em nhiễm HIV, trẻ em mồ
cơi, khuyết tật và trẻ em có hồn cảnh đặc biệt khác.
Mơ hình gia đình chăm sóc thay thế giúp cho trẻ em phát triển toàn diện hơn,
khả năng hịa nhập cộng đồng cũng hồn thiện hơn và chi phí cũng đỡ tốn kém hơn
so với nhóm trẻ em được chăm sóc trong các cơ sở tập trung. Mơ hình gia đình
chăm sóc thay thế cũng rất đa dạng phong phú với nhiều hình thức khác nhau như
cho con ni quốc tế và trong nước, chăm sóc tạm thời bởi họ hàng và người giám
hộ, nhận nuôi dưỡng, nhận đỡ đầu.
Bên cạnh hai mơ hình truyền thống nêu trên, với sự hỗ trợ tích cực của các tổ
chức quốc tế như Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, Tổ chức Lao động thế giới, Liên
minh Châu Âu, Tổ chức Cứu trợ trẻ em, Tầm nhìn Thế giới, Plan, Childfund…
Bộ LĐ-TB&XH cũng đã chỉ đạo các địa phương xây dựng và nhân rộng các
mơ hình trợ giúp trẻ có hồn cảnh đặc biệt khác như: Mơ hình phục hồi cho trẻ em
gái bị xâm hại tình dục; mơ hình tái hịa nhập cộng đồng cho trẻ em vi phạm pháp
luật; mơ hình trợ giúp trẻ em cai nghiện ma túy; mơ hình phịng ngừa và giải quyết
tình trạng trẻ em lang thang; mơ hình trợ giúp trẻ em lao động trong điều kiện nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm; mơ hình phịng ngừa tai nạn thương tích trẻ em.
Khái niệm trẻ em bị xâm hại tình dục
Trẻ em bị xâm hại: Xâm hại là tất cả thái độ, hành vi tổn thương đến sự tự
trọng của trẻ, làm hại đến thân thể, sức khỏe và tâm lý của trẻ qua hành động mắng
chửi, xỉ nhục, thậm chí dùng vũ lực (đánh đập) để trừng phạt, răn đe, dạy dỗ con
trẻ…Sự xâm hại đó khơng chỉ diễn ra trong gia đình, mà cịn diễn ra trong trường
học, thậm chí ngay trên đường phố.
Khái niệm xâm hại trẻ em không chỉ là xâm hại thân thể mà còn xâm hại tới
cảm xúc, tinh thần của trẻ.
Xâm hại thân thể bao gồm mọi hình thức gây đau đớn về thể chất cho các em
kể từ bấu véo cho đến rung lắc, bợp tai, tát, đánh đập... Trẻ có thể bị tổn thương rất
đa dạng, từ tổn thương phần mềm (vết rách, bầm tím, vết bỏng) cho đến gẫy răng,
gẫy xương, vỡ nội tạng, thương tích hệ thần kinh trung ương. Bị xúc phạm thân thể
từ nhỏ, các em lại dễ phát triển hành vi bạo lực hoặc phạm tội sau này.
Xâm hại về tinh thần có thể bao gồm những hành vi mắng chửi, lăng nhục
trẻ… Những hành vi này gây rối loạn nghiêm trọng về nhân cách, nhận thức và tâm
trí trẻ, chúng dễ trở thành người mất lịng tin, sống thu mình, khơng cởi mở, có biểu
hiện thụ động hay kích động q mức, thể chất cịi cọc, ngơn ngữ phát triển chậm,
gương mặt vơ cảm.
XHTD trẻ em hay cịn gọi là lạm dụng tình dục (LDTD) trẻ em là những
hành động dâm dục của người lớn tuổi đối với người dưới 16 tuổi (Công ước của
Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em được thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989).
XHTD trẻ em có thể xét ở hai khía cạnh: XHTD trong phạm vi gia đình và XHTD
ngồi phạm vi gia đình.
Trong phạm vi gia đình: Người gần gũi trong gia đình như bố hay anh, chú,
bác có hành động như trên với con gái hay em gái, cháu gái cũng là lạm dụng tình
dục. LDTD gia đình thường khơng xảy ra ở những gia đình có văn hóa, có nề nếp,
gia phong, nghĩa là nơi mà các thành viên trong gia đình biết tơn trọng lẫn nhau.
Trong các gia đình đó, những người lớn biết bảo vệ và tôn trọng quyền của các trẻ
em.
Những kẻ LDTD trẻ em trong phạm vi gia đình là những kẻ biết lợi dụng
quyền lực và vị thế của họ trong gia đình, lợi dụng sự phụ thuộc, sự ngây thơ, sự
ngờ nghệch và tình yêu của trẻ để có hành vi mang ý đồ dâm dục bất chính. Tỷ lệ
hành vi này là bao nhiêu còn chưa được nêu lên một cách chính xác ở nước ngồi
cũng như ở trong nước, vì nhiều người khơng muốn tố cáo hành vi này.
Mặc dù LDTD trong phạm vi gia đình có thể xảy ra ở mọi hồn cảnh kinh tế
của gia đình nhưng nó thường xảy ra ở những gia đình có nhiều vấn đề như thất
nghiệp, nghiện rượu, thơ lỗ hay có hành vi bạo hành thể xác với vợ và gia đình bất
hịa. LDTD phạm vi gia đình thường xảy ra trong những hoàn cảnh mà cha mẹ chia
tay nhau hoặc một người bị bỏ rơi, bị đối xử ghẻ lạnh. Ngoài ra, người ta cũng nhận
thấy rằng những kẻ LDTD trẻ em cũng thường là những người đã từng bị lạm dụng
khi cịn bé.
LDTD trẻ em ngồi phạm vi gia đình (hay cịn gọi là tệ nạn ấu dâm), thường
là những người đàn ơng trưởng thành, tìm kiếm khoái cảm với trẻ em nam hoặc nữ
bằng nhiều cách, từ vuốt ve, sờ mó bộ phận sinh dục cho đến có hành động giao cấu
thực sự.
II. Một số lý thuyết, phân tích, kỹ năng quan trọng khi làm việc với đối
tượng trẻ em bị xâm hại tình dục.
1.Lý thuyết áp dụng
1.1. Lý thuyết nhu cầu của Maslow
Nhà tâm lý học Abraham Maslow (1908-1970) được xem như một trong
những người tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn (humanistic
psychology). Năm 1943, ông đã phát triển một trong các lý thuyết mà tầm ảnh
hưởng của nó được thừa nhận rộng rãi và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau, bao gồm cả lĩnh vực giáo dục. Đó là lý thuyết về Thang bậc nhu cầu
(Hierarchy of Needs) của con người. Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các nhu cầu
của con người theo một hệ thống trật tự cấp bậc, trong đó, các nhu cầu ở mức độ
cao hơn muốn xuất hiện thì các nhu cầu ở mức độ thấp hơn phải được thoả mãn
trước..
- Nhu cầu cơ bản (basic needs):
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu của cơ thể (body needs) hoặc nhu cầu
sinh lý (physiological needs), bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người như ăn,
uống, ngủ, khơng khí để thở, tình dục, các nhu cầu làm cho con người thoải mái,…
đây là những nhu cầu cơ bản nhất và mạnh nhất của con người. Maslow cho rằng,
những nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ không xuất hiện trừ khi những nhu cầu cơ bản
này được thỏa mãn và những nhu cầu cơ bản này sẽ chế ngự, hối thúc, giục giã một
người hành động khi nhu cầu cơ bản này chưa đạt được.
Nhu cầu về an toàn, an ninh (safety, security needs):
Khi con người đã được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tức các nhu cầu này khơng
cịn điều khiển suy nghĩ và hành động của họ nữa, họ sẽ cần gì tiếp theo? Khi đó các
nhu cầu về an toàn, an ninh sẽ bắt đầu được kích hoạt. Nhu cầu an tồn và an ninh
này thể hiện trong cả thể chất lẫn tinh thần.
Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống cịn của mình khỏi các nguy
hiểm. Nhu cầu này sẽ trở thành động cơ hoạt động trong các trường hợp khẩn cấp,
nguy khốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, gặp thú dữ,….
Trẻ
con thường hay biểu lộ sự thiếu cảm giác an tồn khi bứt rứt, khóc địi cha mẹ mong
muốn được vỗ về
Đứa trẻ đói khát cùng cực thì khơng thể học tốt, một đứa trẻ bị stress thì
khơng thể học hành, một đứa trẻ bị sợ hãi, bị đe dọa thì càng khơng thể học. Lúc
này, các nhu cầu cơ bản, an toàn, an ninh được kích hoạt và nó chiếm quyền ưu tiên
so với các nhu cầu học hành.
- Nhu cầu về xã hội (social needs)
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong muốn thuộc về một bộ phận, một
tổ chức nào đó (belonging needs) hoặc nhu cầu về tình cảm, tình thương (needs of
love). Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp như việc tìm kiếm, kết bạn, tìm
người yêu, lập gia đình, tham gia một cộng đồng nào đó, đi làm việc, đi chơi picnic,
tham gia các câu lạc bộ, làm việc nhóm, …
- Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs):
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng (self esteem needs) vì nó
thể hiện 2 cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua các thành
quả của bản thân, và nhu cầu cảm nhận, quý trọng chính bản thân, danh tiếng của
mình, có lịng tự trọng, sự tự tin vào khả năng của bản thân. Sự đáp ứng và đạt được
nhu cầu này có thể khiến cho một đứa trẻ học tập tích cực hơn
Kinh nghiệm giáo dục cũng chỉ ra rằng: các hành động bêu xấu học sinh
trước lớp, cho các học sinh khác “lêu lêu” một em học sinh bị phạm lỗi,… chỉ dẫn
đến những hậu quả tồi tệ hơn về mặt giáo dục, tâm lý.
- Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs)
Nói một cách đơn giản hơn, đây chính là nhu cầu được sử dụng hết khả năng,
tiềm năng của mình để tự khẳng định mình, để làm việc, đạt các thành quả trong xã
hội.
Trẻ em là một con người- cá nhân của xã hội, vì vậy các em cũng có những
nhu cầu giống như mọi thanh viên khác trong xã hội. Nhu cầu cao nhất của trẻ đó
chính là được thừa nhận, được tơn trọng và được thể hiện mình. Đó cũng là quyền
lợi của các em mà không một ai được phép lấy đi của trẻ.
1.2. Lý thuyết hệ thống
Lý thuyết hệ thống bao gồm :
● Hệ thống phi chính thức
● Hệ thống chính thức
● Hệ thống xã hội
Các hệ thống tác động đến trẻ và nếu các hệ thống này không hoạt
động đúng chức năng thì sẽ gây ra vấn đề cho trẻ trong đó có sự tổn thương về tinh
thần.
Vận dụng lý thuyết hệ thống trong việc can thiệp giúp đỡ trẻ bị xâm hại
tình dục thơng qua hoạt động của các hệ thống của trẻ.
2. Thực trạng trẻ em bị xâm hại tình dục
Tình trạng hành hạ, xâm hại tình dục trẻ em ở nước ta đang ở mức báo động
và ngày càng trở nên phức tạp. Trung bình một năm trên toàn quốc xảy ra trên 100
vụ giết trẻ em, 800 vụ xâm hại tình dục trẻ em, 50 vụ bắt cóc chiếm đoạt, mua bán
trẻ em.
Tình trạng trẻ em đang bị bạo hành gia đình thời gian qua đã trở thành mối
quan tâm sâu sắc của toàn xã hội. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2010, tồn quốc
phát hiện 30 vụ giết trẻ em, 255 vụ trẻ em bị xâm hại, giao cấu với trẻ em 146 vụ,
59 vụ cố ý gây thương tích trẻ em…Số trẻ em bị xâm hại tình dục có xu hướng
tăng. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2010 đã phát hiện 704 vụ, theo dự báo, năm
nay, con số này sẽ là 900 em. Trên thực tế, con số này cao hơn nhiều lần. Đáng lo
ngại nhất là tỷ lệ các cháu bị xâm hại tình dục có độ tuổi ngày càng thấp. Số trẻ em
bị xâm hại tình dục chủ yếu là bị xâm hại (chiếm 65,9%).
Số trẻ em bị xâm hại tình dục nhiều nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
rồi đến Đông Nam bộ. Địa phương để xảy ra nhiều trẻ em bị xâm hại tình dục là Hà
Nội, Quảng Ninh, Gia Lai, Đắc Lắc, Đồng Nai, Tây Ninh, Đồng Tháp, An Giang,
Kiên Giang. Bộ Lao động TB&XH đã tiến hành khảo sát nạn trẻ em bị xâm hại tình
dục tại 13 tỉnh tại đồng bằng sơng Cửu Long từ năm 2009 đến tháng 6/2010.
Kết quả cho thấy, trẻ dưới 6 tuổi chiếm 13,5% tổng số trẻ bị xâm hại tình dục,
trẻ từ 6 tuổi đến dưới 13 tuổi chiếm 37,2%. Số trẻ em bị xâm hại tình dục nhiều lần
chiếm 28,2% và số trẻ em bỏ học, sống lang thang bị xâm hại tình dục chiếm
11,6%.
Việc xâm hại tình dục trẻ em ngày càng có tính chất phức tạp hơn, số trẻ em
bị xâm hại phần lớn là những người gần gũi với nạn nhân (chiếm 56,1%). Gần đây
đã xuất hiện nhiều hình thức tội phạm xâm hại tình dục trẻ em nam. Đối tượng xâm
hại tình dục trẻ em khơng chỉ là người Việt Nam mà đã xuất hiện đối tượng phạm
tội là người nước ngoài như Mỹ, Anh, Malaysia… Họ thường lợi dụng việc đi du
lịch đến Việt Nam tìm trẻ em để quan hệ tình dục. Đặc biệt gần đây nhất là vụ một
khách du lịch Mỹ đã thực hiện hành vi xâm hại với hơn 100 trẻ em Việt Nam.
Tính chất của một số vụ xâm hại tình dục trẻ em có tính chất đặc biệt nghiêm
trọng, như tình trạng loạn luân (bố đẻ xâm hại tình dục với con gái chiếm 0,6%, bố
dượng xâm hại tình dục với con riêng của vợ chiếm 1%).
Mặc dù vụ việc loạn luân chiếm tỷ lệ rất thấp, nhưng gây ảnh hưởng rất lớn
tới truyền thống đạo đức gia đình và an tồn xã hội. Nó đã gióng lên hồi chng báo
động về sự suy đồi đạo đức, là nỗi kinh hoàng và gây bức xúc mạnh mẽ trong dư
luận xã hội như: bố đẻ xâm hại con gái nhiều lần dẫn đến mang thai, bác ruột xâm
hại cháu gái, mẹ đẻ giữ chân con gái ruột để bố dượng thực hiện hành vi xâm hại
(An Giang), ông ngoại xâm hại cháu gái (Cà Mau), hay gần đây nhất là vụ bác họ
hiếp cháu gái 14 tuổi khiến nạn nhân chết ngay trong nhà nghỉ (Hà Nội)…
Xâm hại tình dục trẻ em có tác động rất lớn, nó làm ảnh hưởng khơng nhỏ tới
cả thể xác lần tinh thần, nhưng tôi phải khẳng định rằng cái ảnh hưởng về mặt tâm
lý là lớn hơn nhiều lần. Khi bị cưỡng bức, xâm hại, các cháu nhỏ thường bị dẫn đến
tình trạng tinh thần, tâm lý hoảng loạn. Thậm chí, sự hoảng loạn về tinh thần dẫn
đến loạn nhịp tim, các mạch máu căng nhanh thậm chí nghẽn và dẫn đến tử vong.
Trường hợp cháu gái chết trong nhà nghỉ ở quận Long Biên vừa rồi là điển hình.
Tâm lý, tinh thần các em thường bị khủng hoảng trầm trọng, kéo dài; thậm chí
những em từng bị xâm hại tình dục nếu khơng được sống trong môi trường được
giáo dục tốt, không được động viên, chăm sóc tốt sẽ rất đáng ngại. Khơng ít trường
hợp các em mang tâm lý thù hận đối với xã hội và quay trở lại trả thù xã hội
Qua việc phân tích những số liệu ở trên cho chúng ta thấy thực trạng của vấn
đề trên.
3.Những dấu hiệu trẻ bị lạm dụng tình dục
3.1 Dấu hiệu về thể chất
- Trẻ gặp khó khăn trong việc ngồi chơi hoặc đi lại
- Quần áo lót của trẻ bị rách, bẩn một cách khơng bình thường hoặc có vết máu
- Có vết thâm tím, chảy máu hoặc trẻ kêu đau ở bộ phận sinh dục, hậu môn
hoặc các bộ phận kín khác của cơ thể mà khơng rõ nguyên nhân
- Trẻ bị đau rát khi đi tiểu
- Trẻ bị mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt khi trẻ dưới 13 tuổi
- Có bằng chứng của các vấn đề căng thẳng về thần kinh: đau bụng hoặc đau
đầu định kì mà khơng tìm được ngun nhân
3.2 Dấu hiệu về hành vi
- Tái diễn việc đái dầm hoặc ị đùn mặc dù trẻ đã ở lứa tuổi kiểm soát được bản
thân
- Cách cư xử thụt lùi so với sự phát triển của lứa tuổi
- Có những hiểu biết và ngơn ngữ về tình dục khác thường khơng phù hợp với
lứa tuổi
- Biều hiện sự quan tâm bất thường, lo lắng hoặc sợ hãi nói về những vấn đề
liên quan đến tình dục hoặc khám sức khoẻ
- Có những ám chỉ bóng gió về quan hệ tình dục qua các hoạt động hoặc bàn
luận không phù hợp với lứa tuổi
- Có những hoạt động mang tính tình dục trong khi chơi đùa với trẻ em khác,
với búp bê, đồ chơi hoặc động vật
- Thủ dâm
- Có hành vi gợi tình với người lớn tuổi hoặc trẻ em khác, hoặc ngược lại rất
hay né tránh các đụng chạm về cơ thể
- Từ chối cởi trang phục hoặc đồ lót
- Hay giật mình
- Cơ lập xa lánh, khơng chan hồ với mọi người, không quan hệ với bạn bè
cùng trang lứa
- Không có khả năng tập trung, hay mơ hồ
- Ăn uống bất thường
- Có hành vi hoặc có ý định tự sát
- Trở nên hết sức tự ti
- Ác mộng lặp đi lặp lại
- Có thái độ tội lỗi, xấu hổ, giận dữ, cuồng nộ, hung hăng, buồn bã, đau đớn
- Suy sụp, học hành sút kém hẳn không rõ nguyên nhân
- Dửng dưng, khơng có phản ứng tình cảm
- Lo lắng, lo sợ bị tấn công, sợ sệt một điều gì đó, bị ám ảnh khiếp sợ
- Chạy chốn khỏi gia đình
- Trầm cảm
Thủ phạm của những hành vi lạm dụng tình dục trẻ em.
Các nghiên cứu thường cho kết quả khác nhau về con số nhưng tựu trung thủ
phạm thường gặp nhất là những thành viên trong gia đình hoặc những người quen
biết. Trường hợp trẻ em bị LDTD do người lạ mặt thường thấp hơn so với người
trong gia đình.
4. Nguyên nhân và hậu quả của xâm hại tình dục trẻ em
4.1Ngun nhân
Ngun nhân đầu tiên, cịn ít người biết đến, đó là bệnh thích làm tình với trẻ
con (bệnh Pedophilia). Khi nghiên cứu trên những kẻ bệnh hoạn này, người ta phát
hiện đa số lúc còn bé họ đã từng bị xâm hại. Một nửa số trẻ bị xâm hại tình dục, sau
này lớn lên có xu hướng lại lặp lại hành vi mà kẻ phạm tội đã thực hiện với mình.
Đây là một dạng bệnh lý do bị tổn thương trong não. Người ta gọi là tình trạng đơng
cứng cảm xúc, nó cơ lại, đến tuổi phát dục bắt đầu lặp lại hành vi mà mình đã từng
bị cưỡng bức
Cha mẹ, người chăm sóc, đỡ đầu trẻ thiếu nhận thức về nguy cơ, thiếu kỹ
năng phòng ngừa, kỹ năng giải quyết về pháp lý, kỹ năng chăm sóc và phục hồi cho
trẻ bị xâm hại tình dục về thể chất và tâm lý.
Phần lớn các trường hợp gọi đến đường dây tư vấn hỗ trợ trẻ em bị XHTD
đều chậm hơn rất nhiều so với thời điểm trẻ bị xâm hại, thậm chí vụ việc xảy ra đã
2-3 năm nhưng vì nhiều lý do (xấu hổ, sợ bị ảnh hưởng đến thanh danh của gia
đình…) nên chỉ khi được biết về đường dây mới dám tố cáo. Chứng cứ là hết sức
quan trọng để làm căn cứ giải quyết theo pháp luật thì gia đình khơng đưa ra được
vì thời gian quá lâu.
Ông Đặng Nam - Giám đốc Trung tâm tư vấn và dịch vụ truyền thông thuộc
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đưa ra một trong số hàng trăm trường hợp mà
Đường dây tư vấn XHTD trẻ em đã tiếp nhận, một trẻ 3 tuổi bị XHTD, 2 tuần sau
bố em bé gọi điện thông báo và hỏi về giải pháp hỗ trợ.
Tuy nhiên, khi nhân viên tư vấn khai thác sâu thì người cha giấu nói là
chuyện của hàng xóm. Q trình cung cấp thơng tin, kết nối can thiệp mất 7 ngày,
người cha này mới nói thật và cùng vợ đưa cháu đến tham vấn trị liệu tại tổng đài
của đường dây. Lúc này, bộ phận sinh dục của cháu đã thâm tím, phù nề, vết rách
còn rỉ máu. Tinh thần của cháu bé hoảng loạn. Cháu khóc gào, đái dầm liên tiếp…
Do khả năng nhận thức và tự bảo vệ của trẻ em còn nhiều hạn chế nên các
em dễ có nguy cơ bị lạm dụng, xâm hại, nhất là về tình dục, sức khoẻ, nhân phẩm.
Ông Đặng Nam đưa ra dẫn chứng: “Một trẻ ở Bắc Cạn ở cùng dì ruột và chú, đã 13
tuổi nhưng vẫn ngủ cùng giường với dì chú. Sáng sớm, dì dậy nấu cơm, trẻ bị chú
xâm hại tình dục. Chú cịn thuyết phục được cháu đồng thuận với hành vi này. Khi
được tư vấn, trẻ nói là u chú và coi chuyện này khơng có vấn đề gì. Cháu bé này
đã có thai”.
Ảnh hưởng của văn hố phẩm đồi truỵ, phản động
Hiện nay các thế lực phản động thù địch với chủ nghĩa xã hội vẫn không
ngừng tấn cơng chúng ta trên mặt trận văn hố, tư tưởng. Chúng đã sử dụng một hệ
thống thông tin đại chúng khổng lồ, gồm hơn 30 đài phát thanh, hơn 50 nhà xuất
bản, gần 600 tờ báo, tạp chí và hàng trăm loại sản phẩm văn hố có nội dung phản
động, đồi trụy nhằm phá hoại tư tưởng, lối sống của nhân dân ta - nhất là đối với thế
hệ trẻ.
Mặt khác, trong thời kì đổi mới, ngồi những thành quả đã đạt được, chúng ta
cịn thiếu sót. Quản lí nhà nước về kinh tế - xã hội cịn yếu, tình hình xã hội cịn
nhiều tiêu cực. Trong lĩnh vực văn hố-văn nghệ, nhiều khi cịn bng lỏng cơng tác
quản lí, nhiều bộ phim, bằng hình, sách truyện có nội dung tun truyền bạo lực,
kích động, khiêu dâm vẫn được trình chiếu và bán trên thị trường, bất chấp dư luận
và pháp luật.
Chính vì vậy, mơi trường đó đã thẩm lậu vào bộ phận khơng nhỏ các tầng lớp
nhân dân, trong đó có cả những cháu cịn rất nhỏ từ 9 đến 13 tuổi.
Luật pháp cịn nhiều kẽ hở
Theo TS Vũ Cơng Giao - Hội Luật gia Việt Nam : Chúng ta đã có một khung
pháp luật chung về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em khá tồn diện và tiến bộ.
Khung pháp luật chung này đã bao gồm nhiều qui định có tác dụng trực tiếp hoặc
gián tiếp bảo vệ trẻ em khơng bị xâm hại tình dục. Tuy nhiên, khung pháp luật hiện
hành về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em mới chỉ tập trung vào điều chỉnh một số
hình thức xâm hại tình dục trẻ em nghiêm trọng như hiếp dân, cưỡng dâm, buôn bán
trẻ em để sử dụng vào mục đích bóc lột tình dục… mà chưa chú trọng điều chỉnh
những hình thức xâm hại tình dục trẻ em ít nghiêm trọng hơn quấy rối tình dục, dâm
ơ trẻ em…
Thêm vào đó, về cơ bản, pháp luật mới chỉ chú ý phịng ngừa tình trạng
XHTD trẻ em xảy ra trong mơi trường gia đình chứ chưa chú ý đến việc phịng ngừa
tình trạng này xảy ra ở các môi trường khác như ở nhà trường, ở nơi chăm sóc thay
thế, nơi làm việc và trong môi trường tố tụng.
Một hạn chế nữa là hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự hiện hành cịn chưa
có những qui định riêng về các quyền của trẻ em là nạn nhân của tội phạm nói
chung, nạn nhân của hành vi XHTD trẻ em nói riêng nên vẫn có những thủ tục tố
tụng bất cập mà có thể gây cho những trẻ là nạn nhân của những hành vi xâm hại
tình dục sự “tổn thương lần thứ hai” trong quá trình tố tụng.
Ngoài qui định của pháp luật, theo TS Dương Tuyết Miên, vấn đề giáo dục
giới tính cũng như giáo dục các em biết cách tự bảo vệ mình cịn bị coi nhẹ, chưa
chú trọng ngay khi các em đang học ở mẫu giáo, tiểu học. Các trường mẫu giáo, tiểu
học cũng như các bậc cha mẹ chưa chú trọng giáo dục con biết cách tự bảo vệ mình
(tuy chỉ là những hình thức giản đơn)…
Đến thời điểm này, các giải pháp được đưa ra chống XHTD trẻ em là tăng
cường cơng tác tun truyền cho những người có trách nhiệm và tăng khả năng tự
bảo vệ của các em trước những kẻ xấu.
5. Hậu quả
5.1. Hậu quả về thể chất
Những hậu quả về mặt cơ thể có thể thấy được ngay ở trẻ em nhỏ như rách
âm đạo-trực tràng gây chảy máu nặng nề, các tổn thương khác của bộ phận sinh
dục, nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Với trẻ lớn hơn, nguy cơ có thai
được phát hiện muộn không phải là hiếm gặp. Với những trường hợp này, sức khỏe
và tương lai của bà mẹ lẫn trẻ em thường ở trong tình trạng rất mong manh, khó
khăn.
Tình trạng chậm phát triển: khả năng vận động năng lực xã hội, khả năng
nhận thức, thể hiện ngôn ngữ: do sức lực của trẻ bị dồn hết vào việc tự vệ bản thân
5.2. Hậu quả về hành vi
Trẻ em bị lạm dụng tình dục có thể biểu hiện những rối loạn về hành vi cũng
như tâm thần từ nhẹ đến nặng, ngắn hạn cũng như dài hạn. Tùy thuộc vào mức độ
của lạm dụng tình dục mà trẻ có thể biểu hiện sợ hãi và lo lắng trước người khác
giới hoặc trước những vấn đề liên quan đến tình dục và có thể biểu hiện những hành
vi tình dục không đúng mực. Trẻ trở nên lệ thuộc hoặc hiếu chiến, ngang bướng.
5.3. Hậu quả tâm lý
Ban đầu trẻ có thể chưa nhận thức rõ về tai họa giáng xuống đời mình. Dần
dần trẻ sẽ nhận biết thêm những bất hạnh của bản thân. Sự phát hiện này có thể gây
sốc và trẻ thường có diễn biến tâm lý như sau.
Giai đoạn 1, trẻ khơng chấp nhận sự thật ác nghiệt đó, có thể ngơ ngác, bất
động, trầm cảm. Trẻ khơng tin tưởng vào bản thân, vào những người khác và môi
trường xung quanh.
Giai đoạn 2 là sự đau khổ đi kèm với hành vi rối loạn tâm lý, có các hành
động nơng nổi, tự đày đọa mình như: tự gây tai nạn, cố tình để ốm, đến có việc có
hành vi cố gắng tự sát. Đây cũng là cách để trẻ thoát khỏi cảm giác tồi tệ của bản
thân.
Giai đoạn 3 là mệt mỏi buông xuôi, mặc cho mọi sự đưa đẩy.
Giai đoạn 4, trẻ sẽ đối diện với sự thật và tìm giải pháp cho bản thân.
Những ảnh hưởng ban đầu hay ảnh hưởng ngắn hạn thường xuất hiện trong
khoảng 2 năm đầu tiên. Những biểu hiện này tùy thuộc vào mức độ, hoàn cảnh cũng
như tuổi của trẻ lúc bị lạm dụng tình dục.
Tuy nhiên những biểu hiện thường gặp bao gồm những biểu hiện thơ ấu hóa
(ví dụ trẻ có thể mút tay mặc dù đã lớn hoặc đái dầm), rối loạn giấc ngủ, chán ăn,
xấu hổ, mặc cảm tội lỗi, rối loạn về ứng xử cũng như khả năng học tập ở trường,
biểu hiện co mình lại khơng tham gia vào các hoạt động đồn thể hay xã hội, tính
cách dễ bùng nổ...
Những hậu quả xấu của lạm dụng tình dục có thể để kéo dài nhiều năm sau
này cũng như đến tuổi trưởng thành. Những người này thường có biểu hiện trầm
cảm. Nếu tình trạng lo lắng ở mức độ cao có thể đãn đến những hành vi tự hủy hoại
cơ thể như nghiện rượu, nghiện ma túy, có những cơn hốt hoảng, những rối loạn lo
âu ở một tình huống đặc trưng nào đó, mất ngủ. Và rất nhiều người gặp rất nhiều
khó khăn trong đời sống tình dục sau này. Bị lạm dụng tình dục từ nhỏ cịn có thể là
ngun nhân của 2 rối nhiễu về hành vi tình dục sau này:
- Chứng nghiện tình dục: