Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

THIÊN NHIÊN TRONG “NẺO ĐƯỜNG SÂU THẲM LÊN MIỀN OKU” CỦA MATSHUO BASHO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.95 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA NGỮ VĂN

BÀI CHUYÊN ĐỀ KẾT THÚC HỌC PHẦN
Mơn: THƠ PHƯƠNG ĐƠNG
Đề tài:
THIÊN NHIÊN TRONG “NẺO ĐƯỜNG SÂU THẲM LÊN MIỀN
OKU” CỦA MATSHUO BASHO

Sinh viên: Đỗ Thu Hạnh
Lớp: Văn học EK67

Hà Nội, tháng 8 – 2020

1


CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
I. THỂ THƠ HAIKU VÀ TÁC GIẢ M. BASHO
1.
2.

Đặc trưng thơ Haiku
Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của M.Basho

II. THIÊN NHIÊN TRONG “NẺO ĐƯỜNG SÂU THẲM LÊN
MIỀN OKU”
Khái quát chung về tác phẩm và đề tài thiên nhiên trong “nẻo đường
sâu thẳm lên miền Oku”:
2. Thiên nhiên trong “Nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku”
2.1.


Thiên nhiên chuyển động theo dấu chân người thi sĩ.
2.1.1. Mùa Xuân ra đi
2.1.2. Thiên nhiên mùa hạ
2.1.3. Thiên nhiên mùa thu
2.2.
Thiên nhiên thể hiện tình yêu quê hương đất nước và con người
2.3.
Thiên nhiên mang triết lý của Phật giáo Thiền Tơng
2.3.1. Tương giao và hịa hợp
2.3.2. Vơ ngã, vơ thường.
2.3.3. Vạn vật bình đẳng
2.3.4. Trân trọng những khoảnh khắc thực tại.
1.

III. ĐẶC TRƯNG BÚT PHÁP NGHỆ THUẬT TRONG “NẺO
ĐƯỜNG SÂU THẲM LÊN MIỀN OKU”:
1.
2.
3.

Hình thức thơ cực tiểu
Kết cấu hư khơng
Búp pháp xây dựng các hình ảnh đối lập

TỔNG KẾT

I.
1.

THỂ THƠ HAIKU VÀ TÁC GIẢ MATSUO BASHO:

Đặc trưng thơ Haiku:
2


I.1.

Nguồn gốc hình thành:
Thơ Haiku là thể thơ có nguồn gốc từ Nhật Bản, xuất hiện vào thế
kỉ XVII. Tiền thân của nó là đoản ca (Tanka). Tanka là thể thơ dân tộc
khởi đầu cho thơ ca Nhật Bản, lối thơ viết theo kết cấu 5-7-5-7-7, hình
thức chủ yếu là thơ trữ tình Nhật Bản. Vào thế kỉ XV, Nhật Bản xuất hiện
thêm thể thơ Renga (liên ca), thể thơ này cũng có nhịp phách như tanka
nhưng được chia làm hai phần gồm 3 câu đầu 5-7-5 do một người làm và
hai câu sau 7-7 do một người khác làm. Renga ở dạng xướng thơ nên số
câu không hạn định và rất nhiều quy tắc phải tuân thủ. Đoạn mở đầu của
Renga được gọi là hokku (phát cú) do vị khách chính đặt, chủ đặt phần
tiếp là wakiku trong đó phải có sự lặp lại một yếu tố của hokku và cứ như
vậy, những người còn lại đặt những câu thơ tiếp theo và vẫn giữ chút liên
kết các yếu tố xuất hiện trước đó để tạo thành một bài liên ca.
Thể liên ca thịnh hành ở Nhật Bản vào thế kỷ XIV và XV. Sau đó,
các nhà thơ đã lấy đoạn mở đầu của một bài liên ca (hokku) ra làm một
thể thơ riêng, biểu thị một nội dung trọn vẹn và gọi đó là thơ Haikai.
Những bài thơ này có 17 âm tiết độc lập, khơng đứng trong chuỗi liên ca.
Thiền sư Matsuo Basho được coi là người khai sinh và đặt nền móng cho
thể thơ này. Đến giữa thời Edo (1600- 1868), thi pháp của loại thơ 17 âm
này đã được định hình vững chắc và được nhà thơ Masaoka Shiki gọi là
Haiku (bài cú).

I.2.


Đặc trưng thơ Haiku:
a. Về hình thức:
Có thể nói haiku là thể thơ ngắn nhất thế giới khi bài thơ chỉ vỏn
vẹn có 17 âm tiết chia làm 3 câu thơ trong một bài thơ với cách chia âm
tiết là 5-7-5. Tuy gọi là ba câu nhưng theo truyền thống thì người Nhật
viết cả bài haiku theo hàng dọc thẳng một cột chứ khơng chia thành ba.
Hình thức ngắn gọn này kéo theo sự biểu đạt trong thơ rất nhanh, chỉ là
những cái chớp nhoáng của đời sống thường nhật.
Một bài thơ haiku cổ điển có niêm luật rất chặt chẽ và có những quy tắc
bắt buộc tuân theo. Trong một bài thơ Haiku cổ điển bắt buộc phải có quý
đề - tức đề tài viết về thiên nhiên và quý ngữ (kigo) - tức là từ ngữ biểu
hiện một mùa nào đó trong năm. Từ đó có thể trực tiếp là xuân, hạ, thu,

3


đơng; nhưng cũng có thể là từ gián tiếp thơng qua các hình ảnh đặc trưng
của mùa như các lồi hoa, con vật, loài cây, lễ hội,.....
Về nội dung:
Về nội dung, haiku có luật cơ bản là khơng được đả động đến cảm
xúc mà chủ yếu chỉ ghi lại sự việc xảy ra trước mắt, miêu tả những
khoảnh khắc chớp nhoáng của thực tại. Đề tài hướng đến trong một bài
thơ haiku thường là về thiên nhiên với những phong cảnh bình dị, con vật
nhỏ bé. Vậy nên, nội dung một bài Haiku thường đề cao sự bình dị, giao
hịa của con người với tự nhiên, quay lưng lại với những giá trị người đời
hằng theo đuổi như của cải, danh vọng, địa vị. Thông qua chủ đề, đề tài,
thơ Haiku thường thể hiện tình yêu với thiên nhiên, con người, đất nước
Nhật bản; thể hiện các triết lý nhân sinh sâu sắc, tinh thần từ ái, lạc quan
của Phật Giáo Thiền Tơng như vạn vật bình đẳng, tương giao và hịa hợp,
vơ ngã và vơ thường, chớp lấy những khoảnh khắc thực tại.

b.

Về nghệ thuật:
Một bài thơ Hai ku thường có hình thức cực tiểu với kết cấu hư
khơng, tạo ra nhiều khoảng trống giữa các hình ảnh, từ ngữ buộc người
đọc phải kết nối chúng lại. Kết cấu hư không của thơ Haiku cũng là thủ
pháp quen thuộc trong hội họa của người Nhật Bản. Ngôn ngữ và hình
tượng nghệ thuật trong thơ cũng rất giản dị, tầm thường. Nó có thể là
hình ảnh con cóc, tiếng quạ kêu hay tiếng ngựa đái,.... Tất cả những đặc
trưng trên đều là hình thức nghệ thuật tiêu biểu trong một bài thơ haiku.
c.

Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp của M.Basho:
2.1. Cuộc đời:
2.

Basho tên thật là Matsuo Munefusa (1644 - 1694), sinh ra trong
một gia đình võ sĩ cấp thấp thời Tokugawa (1603 – 1868) tại vùng Ueno
Iga nay thuộc tỉnh Mie. Năm 9 tuổi, ông được cha đưa vào lâu đài Ueno,
làm tùy tùng cho lãnh chúa, tại đây ông đã trở thành bạn thân của con trai
lãnh chúa – Todo Yoshitada. Hai người họ tuy không cùng tuổi nhưng
cùng nhau học tập, chơi đùa và trưởng thành cùng tri thức do người thầy
Kitamura Kigin dìu dắt. Tuy nhiên người bạn tri kỉ đó của Basho lại yểu

4


mệnh, mất khi mới 24 tuổi, cái chết của bạn đã khiến cuộc đời Basho đã
rẽ sang ngã khác, không còn là một võ sĩ Samurai nữa.
Sau cái chết của Yoshitada vào năm 1666, ông rời Iga để tới Kyoto

và sống ở đây 5 năm. Tại đây ông được tiếp xúc với văn học Trung Quốc,
song song với đó ơng vẫn tiếp tục học cổ văn Nhật và cả thư pháp.
Mùa xuân năm 1672, ông tiếp tục tới Edo (nay là Tokyo) với mong
muốn trở thành thầy dạy thơ haiku. Năm 1680, khi sự nghiệp dạy của ông
đang trên đà phát triển và thuận lợi, danh tiếng của ông được ngày càng
nhiều người biết đến thì Basho đã quyết định từ bỏ sự nghiệp dạy học,
ông về sống ở túp lều tranh ở Fukugawa, cạnh bờ sông Sumida, bút danh
Basho cũng được sinh ra từ đây Do có một người đệ tử đem tặng cây
chuối, nhà thơ đã rất thích và trồng nó cạnh nhà. Cây chuối trong tiếng
Trung là Ba tiêu sang tiếng Nhật là Basho, người xung quanh gọi túp lều
của ông là Basho-an và cũng từ đây người ta biết đến phong cách Shofu
của ông. Shofu là Tiêu phong, ý nói cuộc đời người nghệ sĩ giống như tàu
lá chuối bị gió xé ngang trời. Cũng trong những năm này, sau khi được
Phật Ðỉnh, một vị Thiền sư thuộc tông Lâm Tế đã hướng dẫn ông vào
giáo lí và phương pháp toạ thiền theo Thiền Tơng. Từ đó, ơng kiến tính
và ngộ đạo. Sự kiện này đã ảnh hưởng trực tiếp đến sáng tác thơ văn của
Basho, tất cả những sáng tác sau này của ông đều mang hơi thở của Phật
giáo Thiền Tông.
Theo tư tưởng vô ngã, vô vi của Phật Giáo, Basho quyết định thực
hiện những chuyến du hành. Năm 1684, ơng hóa thân thành người lữ
khách, đi đây đi đó để tìm ra cảm hứng sáng tác. Chuyến đi đầu tiên của
ông men theo biển về hướng Tây và thăm lại cố hương Ueno của mình
rồi đi Nayoga. Sau đấy, ơng lại tiếp tục hành trình đến Kashima,
Sharasina, Bắc hành đến vùng nẻo đường sâu thẳm tại miền Michinoku,
đi thăm phương Nam miền Osaka và đảo Kyushu. Mỗi một chuyến du
hành ông lại chiêm nghiệm ra những chân lý trong cuộc đời, để lại cho
đời nhiều tập thơ Haku nổi tiếng.
Những năm tháng cuối đời của ơng trải qua khi ơng chưa hồn
thành chuyến đi của mình và dù biết sức khỏe khơng cho phép nhưng tâm
hồn của người thi sĩ này không cho ông dừng lại. Dù trở bệnh nặng và

5


mất trên đường đi tại một lữ quán ở Osaka nhưng những giây phút cuối
đời ông vẫn viết một bài thơ. Vào lúc khơng cịn sức trụ vững, ơng vẫn
khơng thơi ngi ngoai giấc mộng phiêu lãng của mình và đành nuối tiếc
thả mộng trở thành ngọn gió cành cây, hóa thân vào thiên nhiên để ngao
du khắp các cánh đồng, tâm hồn khơng cịn bị trói buộc bởi cơ thể đau
yếu, bệnh tật, giây phút ông được tự do. Ông qua đời vào ngày 12 tháng
10 năm 1694.
2.2. Sự nghiệp sáng tác:
Những vần thơ đầu tiên ông viết về năm mới khi ông mới 19 tuổi.
Bút danh đầu tiên của ông là Sobo. Hai bài thơ đầu tiên của ông được
đăng trong tập “Hẻm núi Sayo no Nakayama”.
Khi người bạn thân thiết và cũng là chủ nhân của mình mất vì
bệnh, Basho đã rời quê nhà và lang bạt một thời gian dài sau đó tới sống
ở Kyoto. Ơng biết đến những trang thơ Trung Hoa như Lão Trang, Đỗ
Phủ, Lí Bạch. Sự u mến đó cũng đã ảnh hưởng đến con đường thơ sau
này của ông.
Con đường sáng tác thơ của ơng chỉ nở rộ và có nhiều thành công
khi ông dấn thân vào con đường ngao du sông núi. Chuyến đi đầu tiên
vào mùa thu năm 1684 để lại trên con đường sáng tác của ông 5 tập renga
xuất sắc mang tên Đông nhật (Fuyu no hi). Chuyến đi sau đó được xem là
chuyến đi lớn đầu tiên trong cuộc đời của ông và cũng cho ông tác phẩm
Dã sái kỷ hành (Nozarashi kiko) vào năm 1685.
Vào năm 1686, Basho sáng tác bài thơ "Con ếch" trích trong tập
Xuân nhật (Haru no hi) đã trở thành tiếng vang đánh dấu tên tuổi của
Basho trên thi đàn thơ ca Nhật Bản. Bài thơ trên có thể viết theo ba dạng:
古古古古古古古古古古 (kanji)
ふふふふふふふふふふふふふふふふふ (hiragana)

furuike ya kawazu tobikomu mizu no oto (rōmaji)
Dịch nghĩa:
Ao xưa;
con ếch nhảy vào
6


vang tiếng nước xao.
Những chuyến đi kế tiếp dánh dấu cho sự định hình rõ nét về phong cách
thơ cũng như quan điểm nghệ thuật của ông trong các sáng tác. Sau mỗi
chuyến đi, ơng ln để cho mình những chi chép giống như những ghi
chép tản mạn, nhưng chúng lại trở thành những tác phẩm vĩ đại trong sự
nghiệp của ơng: Kashima kiko (nhật kí hành tình Kashima) – 1687
(chuyến đi tới đền Kashima mà Basho thăm viếng sư phụ và thăm lại cây
anh đào nổi tiếng ở Yoshino và nhớ về người bạn tri kỉ đã mất sớm của
mình). Năm 1688 với hai tác phẩm được ra đời: Oi no kubun (ghi chép
trên chiếc túi hành hương) và Sarashina kiko (nhật kí về thơn Sarashina)
trong chuyến đi từ Edo trở về Suma và từ Akashi đến thôn Sarashima để
hưởng mùa trăng trên đỉnh núi Obasute.
Năm 1689 với tác phẩm đỉnh cao cho dòng thơ haiku “Oku no
hosomichi” (áo chi tế đạo – Nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku) ra đời
trong chuyến đi dài nhất, gian khổ nhất trong cuộc đời của Basho với
tổng chiều dài lên đến 2.500 km trong 151 ngày. Chuyến đi này cũng là
chuyến đi nổi tiếng nhất trong nền văn học Nhật Bản.
Và những chuyến đi cuối đời mình, ơng vẫn để lại hai tác phẩm
“Áo rơm cho khỉ” và “Nhật kí Saga” năm 1691.
II.

Thiên nhiên trong “Nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku” của
Basho:


1.

Khái quát chung về tác phẩm và đề tài thiên nhiên trong “nẻo đường
sâu thẳm lên miền Oku” của Basho:
Tác phẩm “Nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku” là cuốn nhật kí kể về
cuộc du hành đầy khó khăn, trắc trở và gian khổ để đến nơi hoang dã, huyền
bí, sâu xa của Basho. Mùa xuân 1689, Basho rời Edo đi du hành suốt 151
ngày qua các thị trấn mới lạ như Nikko, Shirakawa, Sendai… Ông lặn lội
xuống miền duyên hải và tạm dừng ở Ogaki. Sau khi đi hết đoạn đường dài
2500 km, ơng đã hồn thành xong cuốn “lối lên miền Oku” với tổng số 53
bài thơ Haiku. Đây là một cuộc hành trình nổi tiếng nhất trong văn học Nhật
Bản vì nó để lại cho đời một kiệt tác văn xuôi xen lẫn thơ là tập “Oku no
hosomichi”.
7


Đề tài chủ yếu của những bài thơ haiku thuộc tập “nẻo đường sâu
thẳm lên miên oku” là về thiên nhiên, được gọi là quý đề (kidai). Thiên
nhiên trong tập thơ này thường là những phong cảnh bình dị, hoang sơ,
nguyên thủy, những con vật nhỏ bé, quen thuộc: một cơn mưa, ánh trăng
sáng, một con ếch, một con dế, một tiếng ve,… Khảo sát 53 bài thơ haiku
trong tập Nẻo đường sâu thẳm miền Oku của Basho, ta nhận thấy có sự xuất
hiện một cách đa dạng và khá đồng đều của các hình ảnh thiên nhiên như:
chim (4 lần), cá (1 lần), lá (2 lần), mặt trời (2 lần), thác (1 lần), núi (4 lần),
cây (1 lần), cánh đồng (2 lần), cây mạ (3 lần), liễu (1 lần), hoa (5 lần), mưa
(4 lần), cây tùng (1 lần), cỏ (1 lần), rận rệp (1 lần), cóc (1 lần), ve (1 lần),
sông (2 lần), tuyết (1 lần), trăng (3 lần), mây (1 lần), biển (3 lần), sông Ngân
Hà (1 lần)... Các hình ảnh thơ thường xuất hiện ít nhất là 2 lần và nhiều nhất
cũng là 5 lần.

Qua việc lựa chọn đề tài thiên nhiên như vậy , Basho đã thể hiện tình
yêu với đất nước và con người Nhật Bản. Cảnh vật trong tập thơ bao giờ
cũng là của một khoảnh khắc thực tại chợt hiện ra trước mắt nhà thơ ở nơi
nhà thơ đi qua. Thời điểm trong tập thơ này được xác định theo mùa nên
trong thơ bao giờ cũng có từ chỉ mùa như mùa xuân, mùa hạ, mùa thu hoặc
hình ảnh tượng trưng cho mùa chẳng hạn như cánh đồng lúa, con ếch, ánh
trăng,.... Bên cạnh đó, thiên nhiên trong thơ Basho cịn mang đậm triết lý
Thiền tơng. Bởi vì Thiền đề cao vai trị của khoảnh khắc thực tại đối với việc
tu tập, giác ngộ. Hành giả có thể giác ngộ trong một khoảnh khắc (gọi là đốn
ngộ). Vậy nên, tập thơ này viết về thiên nhiên và chủ yếu trân trọng những
khoảnh khắc mà thiên nhiên đem lại cho con người.
2.
2.1.

Thiên nhiên trong “Nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku”:
Thiên nhiên trong sự chuyển động của thời gian theo dấu chân người
thi sĩ.
Khi bắt đầu cuộc hành trình này, Basho đã 45 tuổi. Lộ trình hướng
về Michinoku (thường gọi tắt là Oku), nằm ở tỉnh cực bắc của Honsu
(nay gọi Aomori). Chuyến đi này là một việc đầy khó khăn và hiểm nguy.
Nhà thơ cùng người học trị của ơng Sora đi bộ là chủ yếu.

8


Cuộc hành trình này dài 5 tháng. Thỉnh thoảng ơng phải dừng lại
bên đường vì bệnh tật hành hạ, và tất cả được miêu tả trong cuốn Okuno-Hosomichi, “Đường mòn lên miền Oku”. Trước khi lên đường, Basho
đã bán căn lều của mình, khởi hành vào vĩnh cửu, có thể nói như vậy.
Ơng thực sự khơng mong chờ cịn sống để trở về. Giờ đây, sau cuộc hành
trình lên phương Bắc, hai năm trời ông sống lang thang trong các căn lều

mùa Hạ mà đệ tử cho mượn. Ông ở lại vài tháng ở Genju-an, Am phù du,
thuộc vùng Omi, sau đó tại Mumei-an, Am vơ danh, thuộc Otsu. Cả hai
am này đều nằm trên dải bờ tuyệt đẹp của hồ Biwa. Ơng cũng ở lại
Rakushi-Sha, Ngơi nhà quả hồng rụng, gần Kyoto. Năm 1692, các học
trị dựng cho ơng một Basho-an mới trên bờ đê dịng sơng Sumida, rất
gần cái am cũ, và trồng trong vườn không phải một mà những năm cây
chuối.
2.1.1.

Mùa xuân ra đi:
Nhà thơ khởi hành vào ngày 27 tháng 3 năm 1968 (âm lịch) “dưới
ánh bình minh yếu ớt, trăng trong lồ lộ. Xa xa bóng núi Phú Sĩ, và gần
hơn một chút là những ngọn cây anh đào ở Ueno và Yanaka”. Khi Basho
bước chân xuống thuyền ở bến Senju, những ý nghĩ về một chuyến đi dài
làm ông xúc động mạnh:
Mùa xuân ra đi
tiếng chim nức nở
mắt cá lệ đầy
(Bài 2)
Thiên nhiên trong những vần thơ trên rất đỗi bình dị, quen thuộc, mộc
mạc. Với quý đề là thiên nhiên và quý ngữ là “mùa xuân”, nhà thơ đã
mượn những hình ảnh thực tại diễn ra trước mắt là đàn cá bơi lượn dưới
bến Senju để diễn tả trực tiếp tâm trạng tiếc thương và cảnh ngộ của
mình. Khi thực hiện một cuộc hành trình mới, phải rời xa những người
bạn hữu và rời xa q hương nơi mình gắn bó, nhà thơ khó nén khỏi cảm
giác đau buồn mà trực trào dịng lệ phân ly. Với cảm xúc đó, hình ảnh
thiên nhiên trong bài Haiku này cũng mang nhiều nỗi tiếc thương. Tiếng
chim ca vốn lảnh lót nay đầy “nức nở”, dưới đôi mắt cá cũng chứa chan
“lệ đầy”. Như vậy, thiên nhiên trong thơ ông đã gánh thay người, chia sẻ
bớt nỗi khổ cho con người.


9


2.1.2.

Thiên nhiên mùa hạ:
Trong ngày đầu tiên của tháng 4, Basho đã đặt chân đến vùng núi
Nikko nơi có ngơi đền linh thiêng, mùa hạ đã bắt đầu chiếm lĩnh nơi này.
Những bài thơ Haiku viết về thiên nhiên mùa hạ đang dần mở ra:
Đáng cảm phục làm sao
Trên những lá xanh non tơ
Ánh sáng mặt trời
(Bài 3)
Một hình ảnh tượng trưng tiêu biểu cho thiên nhiên mùa hạ là ánh nắng
của mặt trời ám ấp. Tia ấm ấy chiếu chan hòa trên những lá xanh non tơ
gợi ra một cảnh thiên nhiên vừa lãng mạn, vừa tươi đẹp, thể hiện sự
tương giao và bình đẳng giữa vạn vật. Vạn vật đều sống chan hòa giữa
thiên nhiên và hộ trợ, có mối tương quan đến nhau.
Thiên nhiên mùa hạ trong thơ Basho được miêu tả rất đỗi trong
lành. Vẫn mang thiên hướng chủ đạo là bắt lấy cái khoảnh khắc thực tại
và viết về những sự vật nhỏ bẻ, bình dị, vậy nên, những hình ảnh thiên
nhiên này mang nhiều vẻ trữ tình, sâu lắng, tươi tắn, trẻ trung, yêu đời và
ngun sơ. Ơng đưa các hình ảnh thiên nhiên vào thơ một cách tự nhiên
nhất như những gì mắt thấy, tai nghe. Ơng khơng hề lựa chọn sự kiêu sa,
lộng lẫy dành cho chúng vì vậy thiên nhiên trong thơ Basho luôn giữ
được cái vẻ trong trẻo, hồn nhiên vốn có của nó.
Khi nhà thơ leo lên đầu ngọn núi, ơng nhìn về cái thác nước cao
trăm thước đang ồ ạt chảy xuống qua những phiến đá hàng ngàn lớp như
mái nhà chảy xuống một cái hồ nước sắc lưu li mà không khỏi cảm thán:

Trong một lúc
tôi sẽ khép mình vào trong thác
Mùa hè ẩn dật ra hoạt động
(Bài 4)
Tình cảnh trên của Basho cũng gợi cho người ta liên tưởng đến cái thác
nước cao trăm thước ở trên núi Lư Sơn trong những vần thơ của Lý
Bạch:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
10


(Vọng Lư Sơn Bộc Bố)
Thế nhưng, đối lập với sự lớn lao, hùng vĩ trong thơ Lý Bạch, thiên nhiên
trong bài haiku số 4 của Basho lại mang nhiều vẻ tĩnh lặng, trầm ngâm
hơn. Cùng miêu tả thác nước nhưng thác nước trong thơ Basho thật bình
dị, nguyên sơ, mang một sự e thẹn, ẩn dật. Mùa hè đến không phải tín
hiệu là cái oi bức, nóng nực mà nó lại đến từ chính dịng thác mát trong
kia. Đó cũng là sự tương phản trong nghệ thuật và đó chính là Thiền. Nếu
khơng có cái lắng sâu của Thiền tâm thì thật khó để lý giải được vì sao
Bashơ chọn cái mát mẻ của nước để nói cái nóng của mùa hè.
Khơng chỉ có thác nước, thiên nhiên mùa hạ trong “nẻo đường
sâu thẳm lên miền Oku” đều mang hơi thở tự nhiên, trữ tình, sâu lắng,
giản dị, gần gũi. Ông đưa vào thơ mình rất nhiều hình ảnh của tiếng
chim, cơn mưa, vầng trăng. Âm thanh mùa hạ trong tập nhật ký và thơ
này là một bản giao hưởng rộn rã của tiếng “chim chiền chiện”, tiếng
ngựa đái, tiếng “cóc kêu”, tiếng “dế hót”,...:
Đi theo con đường ngựa

vượt qua đám cỏ sình lầy - tơi nghe
một con chim chiền chiện
(Bài 8)
Bị chấy rận quấy rày
Tôi nghe tiếng ngựa đái
ngay bên gối nằm.
(Bài 20)
Vào đây, bò vào đây
dưới căn nhà ni tằm
tiếng cóc kêu
(Bài 22)
Ơi sự lặng lẽ nơi đây
Chích sâu vào đá
tiếng hót của con dế
(Bài 24)
Hình ảnh những con vật tầm thường như chấy bọ thậm chí đến âm thanh
của tiếng ngựa đái cũng có thể xuất hiện trong thơ Bashô. Đây là một
trong những đặc trưng về thiên nhiên mà Basho viết trong tập nhật kí và
11


thơ này. Những con vật xung quanh ông sống với bản năng của nó, nó
khơng vì có ơng mà làm mất đi cái tự nhiên của mình.
Bên cạnh bản giao hưởng của các lồi vật, thiên nhiên trong thơ
Basho cịn xuất hiện rất nhiều hình ảnh của những cơn mưa mùa hạ, bởi
mùa hạ ở Nhật Bản được biết đến nhiều nhất vì những cơn mưa:
Thật khó khăn
Ngay cả bụơc chặt cỏ để đan thành
túp lều nhìn quanh chưa đầy hai thước
giá như trời đừng mưa.

(Bài 6)
Hịn đảo nón mưa
bạn đã nói nó ở chỗ nào?
Những nẻo đường ngập bùn tháng Năm
(Bài 14)
Khắp nơi dồn về biển
mưa mùa hạ, sao chảy nhanh lạ !
Dịng sơng Mogami
(Bài 25)
Những cơn mưa mùa hạ đã mang lại cảm giác mát mẻ và sự suy tư trong
lòng nhà thơ. Cơn mưa đến với vẻ dồn dập, vội vã, mưa chảy nhanh tạo
nên bao sự xoay chuyển của đất trời. Mưa rơi đầy trên con đường du
hành của Bashô, mưa ngăn cản những bước chân của người thi sĩ nhưng
khơng vì thế mà ơng chùn bước. Mưa cứ rơi, chân người cứ bước giống
như những hạt mưa kia rơi xuống để rồi lại đổ ra sơng, tìm về biển lớn và
rồi có ngày lại bốc hơi tạo mây để lại rơi. Vào những ngày không có
mưa, bầu trời và ánh trăng cũng dần hiện ra:
Nơi đây mát mẻ sao
một vầng trăng lưỡi liềm choáng ngời bay lượn
trên núi Haguro.
(Bài 27)
Những đỉnh mây
vừa vỡ dần thành mảnh vụn
ánh trăng soi đầu núi.
(Bài 28)

12


Thiên nhiên với ánh trăng mùa hạ đã mang lại hơi hướng trữ tình, lãng

mạn, nên thơ, mang lại một vẻ đẹp trong trẻo cho những bài thơ Haiku.
Trong cuộc hành trình lên miền Michioku sâu thẳm, hoang sơ, kì bí, nhà
thơ đã lột tả được hết vẻ đẹp thiên nhiên của mọi vùng đất ông đi qua.
Theo dấu chân của người thi sĩ bộ hành, thời gian và cảnh vật thiên nhiên
cũng có sự luân chuyển từ hạ sang thu.
2.1.3.

Thiên nhiên mùa thu:
Trong tổng số 53 bài thơ thuộc tập “Nẻo đường sâu thẳm lên miền
Oku”, có tất cả 16 bài viết về cảnh thiên nhiên mùa thu, chiếm 1/3 dung
lượng tác phẩm. Trong 16 bài thơ đó, hình ảnh được tác giả miêu tả nhiều
nhất là hình ảnh những cơn gió thu:
Rung lên nấm mồ anh mà trả lời đi !
tiếng nói của tơi đã rơi lệ cho anh
là cơn gió mùa thu.
(Bài 38: Cơn gió rơi lệ)
Rất đỏ, rất thắm tươi
Nắng trời chiếu vơ tư
gió vẫn mùa thu
(Bài 40)
Màu trắng, trắng hơn cả
những tảng đá trên núi đá
gió mùa thu.
(Bài 43. Gió thu màu trắng)
Gió thu theo chân nhà thơ thổi khắp mọi nẻo đường, nó thổi qua những
nấm mồ của những người chiến sĩ đã ngã xuống, nó mang theo sắc đỏ
của mặt trời và sắc trắng của những phiến đá.
Cũng như khi viết về mùa hạ, trăng lại là đối tượng được nhà thơ
miêu tả nhiều và gửi gắm bao tâm tư, tình cảm của mình vào trong đó:
Suốt đêm những con sóng

bị bão đẩy đưa vào tận bờ.
Vầng trăng chiếu sáng rực
trên cây tùng ở Shiogoshi.
(Bài 47)
13


Ánh trăng thanh khiết làm sao
trên cát trắng phía trước
do các nhà tu mang đến
(Bài 49)
Đêm nay Rằm
thời tiết vùng đất Bắc
thật khó lường
(Bài 50)
Mùa thu với đêm hơm rằm là lúc trăng trở nên trịn vẹn nhất, khơng cịn
là hình ảnh “một vầng trăng lưỡi liềm chống ngời bay lượn” trên núi
Harugo nữa. Giờ đây, ánh trăng trở nên trong veo, thanh khiết. Cũng
giống như ánh nắng mặt trời chiếu trên những ngọn lá xanh non, ánh
trăng tỏa ánh sáng ấm áp, hiền hòa xuống bờ cát trắng, tạo nên một
khung cảnh nhẹ nhàng, trữ tình, nên thơ. Bashơ đang tận hưởng mùa thu
ở Komatsu, giữa mùa trăng viên mãn, nhưng cũng không quên nghĩ tới
sự thay đổi của thời tiết trên đất Oku: Đêm nay là đêm rằm trung thu thời
tiết ở xứ Bắc khó lường. Có thực sự là thời tiết “khó lường” hay đó là
những dự cảm, tiên đốn của nhà thơ về vịng ln hồi của vũ trụ? Con
người cũng nằm trong quy luật ấy nhưng khơng vì thế mà họ chán
chường, thất vọng mà họ đón nhận thiên mệnh để bước đi giữa cuộc đời
phù du.
Bên cạnh cảm giác mát mẻ, mùa thu còn gợi ra nhiều sự khơ cằn,
chết chóc của thiên nhiên, cảnh vật. Hoa lá, cỏ cây tuy xanh tươi nhưng

cũng có lúc úa tàn. Đó là quy luật sinh diệt vốn có của tự nhiên, vậy nên
con người hãy vui sống để đón nhận những gì thiên nhiên ban tặng:
Hơi mát mẻ mùa thu
mỗi bàn tay bắt đầu gọt vỏ
dưa hấu và cà tím !
(Bài 39: Dưa hấu và cà tím)
Sau cuộc hành trình dài vơ tận, Basho đã đặt chân đến trại ấp Ogaki –
điểm cuối trong kế hoạch bộ hành của ông. Và Basho cũng đã đặt chân
đến thời gian cuối cùng của mùa thu:
Chia tách con sò và vỏ
tôi rời đi Futami
14


mùa thu đang đi qua.
(Bài 53)
Trong cuộc viễn du của Basho, thời gian là một vịng tuần hồn của vũ
trụ, thiên nhiên trong thơ ông ghi lại chân thực cái sự chuyển động của
thời gian từ mùa xuân, mùa hạ sang mùa thu, mùa đông. Thiên nhiên
trong “nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku” không đứng yên một chỗ mà
di chuyển theo vịng xốy vơ tận của mùa để “biến đổi hóa sinh”, ra đi rồi
trở về. Điều này cũng tương đồng với cảm thức thiên nhiên vốn có của
người Nhật Bản: thiên nhiên biến đổi theo vòng luân hồi của vũ trụ.
2.2.

Thiên nhiên gắn với tình yêu quê hương, đất nước, con người:
Trên bước đường gió bụi, thiên nhiên là người bạn thân thiết nhất
luôn kề vai sát cánh cùng nhà thơ. Với nhà thơ, thiên nhiên là hiện thân
của cái đẹp. Vẻ đẹp ấy được tái hiện qua một loạt các hình ảnh đặc trưng
của quê hương như trăng, gió, tuyết, núi, hoa.... Trong lịng Basho, thiên

nhiên cũng chính là hình ảnh q hương đất nước, mỗi một vùng đất ơng
đi qua trên hành trình về miền Oku đều in dấu trong thơ ông:
Biển động dữ dội
vắt qua đảo Sado
trải dài sông Ngân hà.
(Bài 35)
Từ dãy núi nước suối nóng
suốt đường đến Vịnh Blowing
mát mẻ cả buổi chiều
(Bài 30)
Mặt trời thiêu đốt
tắm trong biển cả
dịng sơng Mogami
(Bài 31)
Những cánh đồng lúa thơm ngọt
về bên phải, chúng tôi nhằm đi phía
Biển Ariso
(Bài 37)

15


Ở Yamanaka
khơng cần hái hoa cúc
suối nước nóng vẫn thơm
(Bài 44)
Suốt đêm những con sóng bị bão
đẩy đưa vào tận bờ.
Vầng trăng chiếu sáng rực
trên cây tùng ở Shiogoshi

(Bài 47)
Khi viết về những vùng đất trên quê hương mình, Basho dành nhiều cho
chúng những lời ngợi ca. Ông chắt lọc những vẻ đẹp thiên nhiên bình dị,
nguyên sơ, trữ tình để đưa vào trong thơ. Đọc những bài Haiku 17 âm tiết
ngắn ngủi, người đọc có thể cảm nhận được sự thơm mát ở suối nước
nóng yamanaka, vầng trăng trịn trịa, sáng trong ở Shiogoshi, những cánh
đồng lúa thơm ngọt trên con đường đến biển Ariso. Và hơn hết, Basho
còn trực tiếp bày tỏ lịng tán dương của mình trước vẻ đẹp tuyệt trần,
duyên dáng ở vùng đất Michinoku và Shiogama:
Ở Michinoku
nơi đâu cũng duyên dáng
nhưng Shiogama
khi những con thuyền được kéo vơ bờ
đẹp tuyệt vời hơn tất cả.
(Bài 17)
Lịng tự hào, tán dương thiên nhiên miền oku tươi đẹp của nhà thơ chính
là biểu hiện trong tình u q hương đất nước. Ông yêu mỗi ánh trắng,
ngọn lúa, nhành cây, ngọn cỏ trên đất nước mình. Và hơn hết thảy, ơng
u chính con người q hương. Tình u thương con người của Basho
được thể hiện qua tấm lòng thương cảm của nhà thơ đối với số phận vô
thường, cô đơn của họ. Những cuộc sống bình dị, đơn sơ, cơ cực của con
người trên quê hương nơi ông đi qua đã để lại trong ơng bao tình cảm
mặn nồng và nỗi xót thương vơ hạn. Trong một lần đi qua nơi nguy hiểm
nhất của miền Bắc và trọ chung qn có hai cơ du nữ, Basho đã lắng
nghe câu chuyện bi kịch về cuộc đời họ. Khi chuẩn bị rời khỏi quán trọ,
Basho đã viết tặng họ một bài thơ:
Dưới cùng một mái nhà
những du nữ đang ngủ

16



ánh trăng và cỏ bốn1á
(Bài 36. Du nữ)
Là một cao tăng thi sĩ, Basho không hề cảm thấy ái ngại khi trọ cùng gái
làng chơi. Là một người rời xa nhân thế để tu hành, ông vẫn quan tâm
đến nỗi sầu nhân thế, đến những kiếp người dưới đáy xã hội. Khi nghe lời
than thở của họ, niềm bi cảm trong lịng ơng nổi lên nỗi xót thương cao
cả. Ơng đặt các du nữ bên cạnh ánh trăng tinh khiết và cỏ bốn lá may
mắn để nhằm ca ngợi vẻ đẹp trong con người họ. Như vậy, các hình ảnh
thiên nhiên trong thơ Basho ln gắn liền với tình u quê hương đất
nước và lòng thương cảm sâu sắc đến mọi kiếp người. Thiên nhiên là nơi
Basho dành cho người, cho đời những sự suy tư trong lịng mình
2.3.

Thiên nhiên mang triết lý Thiền tông:
Khi được thiền sư Buchot giác ngộ cho những giáo lý Thiền Tông,
Bashô đã cho ra đời những vần thơ thiên nhiên phảng phất hương vị
Thiền và cũng từ đây người ta biết đến phong cách Shofu của ơng. Shofu
là Tiêu phong, ý nói cuộc đời người nghệ sĩ giống như tàu lá chuối bị gió
xé ngang trời, vơ ngã vơ thường. Thơ ơng từ đó có sự gặp gỡ của những
vần thơ thiên nhiên tươi tắn với âm điệu sâu thẳm của Thiền. Trước thiên
nhiên bao la, vũ trụ rộng lớn, ông nhận ra sự biến thiên của chúng trong
những khoảnh khắc đốn ngộ.
Bashô thẩm thấu được tư tưởng Thiền và mang nó theo suốt cuộc
hành trình. Bởi thế, một trong những điểm dừng chân của ơng đó là các
chùa, đền… Ơng ln tơn thờ và kiếm tìm những điều bình thường mà lại
kỳ diệu trong mỗi con người, cái mà ông coi là Phật tính. Tư tưởng Phật
Giáo Thiền Tơng trong “Nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku” được Basho
thể hiện qua sự tương giao và hòa hợp của con người và cảnh vật, sự bình

đẳng giữa vạn vật, sư vơ ngã vơ thường của cuộc đời và việc chớp lấy
những khoảnh khắc sống trong hiện tại.

2.3.1.

Tương giao và hòa hợp:
Theo quan niệm của Phật giáo Thiền tông, vạn vật tồn tại trong
một mối tương giao và hồ hợp. Với tầm nhìn có giới hạn, chúng ta chỉ
nhìn thấy thực tại hiện trước mắt. Thực tại ấy phô bày trước mắt ta một
vẻ dường như rời rạc và bất động. Mặt đất thật bình yên dưới chân, ruộng
17


vườn thật cố định sau nhà, núi non thật bất động xa xa... cỏ cây, hồ nước,
mng thú hình như chẳng liên quan gì đến nhau. Nhưng thật ra, khung
cảnh đó chính là kết quả của vơ vàn những mối tương tác kì diệu theo qui
luật vận hành của mn vật. Con người cũng là một sản phẩm của vũ trụ,
do duyên hợp lại mà thành. Trong cơ thể con người chứa đựng vị mặn
mòi của nước biển, xương cốt như những núi đá vơi. Hơn hết, con người
phải hít thở bầu khơng khí của tự nhiên mà sống. Vì vậy con người phải
sống hoà hợp với thiên nhiên, trân trọng môi trường sống. Người Nhật
luôn tinh tưởng rằng con người được sống, được bao bọc chở che trong
lòng thiên nhiên. Thiên nhiên hiện hữu bình đẳng với con người. Cả hai
quan hệ gắn bó kết giao tình thân thiết. Thiên nhiên không phải là cái để
con người chinh phục và đối lập với con người. Vì thiên nhiên và con
người là những biểu hiện vòng luân hồi của vũ trụ nên con người hòa
đồng vào thiên nhiên là tự tìm nơi bình an cho mình:
Lấy sự mát mẻ
tạo ngơi nhà mình, nơi đây
tơi nằm hồn tồn trong dễ chịu.

(Bài 21)
Basho đã vận dụng tốt tư tưởng tương giao và hịa hợp để tạo ra trạng
thái bình an, thư thái trong tâm hồn mình. Đứng trước cảnh màn trời
chiều đất, ông đã lấy cái mát mẻ của tiết trời để che chắn cho cơ thể
mình, tạo một nơi chốn cho thân xác này.
2.3.2.

Vô ngã, vô thường:
Những con người khi đứng giữa trời đất thường bị chi phối bởi cái
tôi của mình. Họ quan niệm rằng: đây là tài sản của tơi, đây là con cái
tơi,.... Chính vì vậy, con người luôn bị ràng buộc vào những thứ vật chất
tầm thường mà khó tìm được sự thanh thản trong tâm hồn mình. Thế
nhưng, Phật giáo Thiền Tơng lại quan niệm rằng cái tôi của mỗi người
chỉ là hư ảo, do quan niệm cố hữu trong đầu mỗi người tạo nên. Sự thật là
trong vũ trụ này khơng có bất cứ thứ gì là của ta cả, đến cả thân xác này
cũng không phải. Tất cả do duyên hợp mà thành, duyên tan thì mọi vật sẽ
tự nhiên biến mất. Thân xác của ta là do tinh cha huyết mẹ tạo nên, đến
một thời điểm nào đó, điều này sẽ biến mất, con người lại trở về với hư
không. Tư tưởng vô ngã trong Phật giáo Thiền Tông làm triệt đi cái bản
ngã trong lòng mỗi con người. Song song với quan điểm vô ngã, mọi vật
18


trên thế gian này cũng đều là vô thường. Tức mọi vật khơng có thật,
khơng tồn tại vĩnh viễn trên đời, nó sẽ mất đi và tan biến, có sinh có diệt.
Chính vì thấu hiểu hai tư tưởng này, Basho mới biến bản thân thành một
người lữ hành như những vị hành giả ngày xưa. Mọi vật đều là vô ngã vơ
thường nên ơng khơng chấp nhặt bất kì điều gì trong cuộc sống, ơng để
bản thân đắm chìm vào những cuộc hành trình để tìm ra cái đạo trong
cuộc đời:

Trong dãy núi mùa hè
Tôi cúi lạy trước đôi giày gỗ của núi
Cuộc hành trình mới bắt đầu.
(Bài 5)
2.3.3.

Bình đẳng:
Trong thơ haiku, dấu ấn Thiền tông để lại khá đậm nét trong cách
nhìn và thể hiện của các nhà thơ. Theo quan niệm của Thiền tông, mọi
sinh linh trên cõi đời này đều bình đẳng như nhau. Vì thế, thơ haiku
thường nói đến
các sinh vật và hiện tượng tự nhiên (con sâu, con bọ, con chuột, bông
hoa,...) với một sự ưu ái và chân thành:
Hịn đảo nón mưa
bạn đã nói nó ở chỗ nào?
Những nẻo đường ngập bùn tháng Năm
(Bài 14)
Kề từ lúc hoa anh đào nở
Tôi đã bám chặt cuộc hành trình này
thấy cây tùng sinh đơi
Đã ba tháng trôi qua.
(Bài 15)
Trong bài Haiku số 15, người đọc cảm nhận được sự bình đẳng, hài hịa
giữa hai sự vật: hoa anh đào và cây tùng. Hoa anh đào nở cũng là lúc cây
tùng sinh ra, một sự sống mới như nảy sinh trong những dòng thơ 17 âm
tiết này. Sự bình đẳng trong thơ Basho cịn được hiện lên rõ nét qua bài
thơ “những cô du nữ ngủ”. Bởi họ là những cơ gái điếm, mang trên mình
vết nhơ và bị khinh bỉ nhưng ông vẫn đưa họ vào thơ, đặt họ bên những
hình ảnh thiên nhiên đẹp nhất là ánh trăng và hoa.
Dưới cùng một mái nhà

những du nữ đang ngủ

19


ánh trăng và cỏ bốn1á
(Bài 36. Du nữ)
Ở đây, ông đã khám phá ra triết lý nhân sinh sâu sắc. Khi hai cô du nữ
ngủ, họ trở về đúng với bản chất con người của mình. Ở họ khơng bị ràng
buộc, đánh giá vào những quan niệm tốt xấu, vào những giá trị đạo đức
ngày thường. Đây là triết lý về sự bình đẳng giữa con người và vạn vật
được thấm nhuần trong thơ Basho.

2.3.4.

Trân trọng những khoảnh khắc thực tại:
Thiền tơng đánh giá cao vai trị của trạng thái tập trung vô thức
trong khoảnh khắc đối với nhận thức và mọi mặt hoạt động của hành giả
nhất là đối với việc toạ thiền. Khi ta hoạt động mà không bị chi phối bởi
những hoài niệm về quá khứ, hay những ảo mộng về tương lai, chúng ta
sẽ thực sự hiện hữu với tồn bộ năng lực sống của mình. Khi đó nhận
thức của ta trở nên thơng suốt, sáng láng. Vốn dĩ con người chỉ có thể
sống trong khoảnh khắc hiện tại. Nhưng chúng ta, với trí tưởng tượng của
riêng mình, thường hay xây dựng một thứ thời gian ảo rồi gọi là quá khứ
và tương lai, rồi sa đà vào thứ thời gian khơng có thật đó. Do đó, con
người phải trả giá bằng khoảnh khắc hiện có: bị xao lãng, bị phân tâm.
Phật giáo Thiền tông giúp con người quay lại với cuộc sống thật của
chính mình, nhắc nhở chúng ta rằng “hiện tại là thứ tài sản quí giá nhất,
là sự sống thực sự nơi mỗi con người”. Hãy sống với khoảnh khắc thực
tại, chúng ta mới thực sự sống và hồ nhập vào dịng sinh hố triền miên

của vũ trụ bằng tồn bộ sinh lực của mình.
Một trong những phương pháp giúp các thiền sư có thể trở về với
thực tại là chìm vào sự cô tịch, tĩnh mịch của hiên nhiên. Không phải
ngẫu nhiên mà các vị thiền sư hay hành giả thường chọn rừng núi sâu
thẳm, hoang vu làm nơi tọa thiền cho mình. Bởi, chỉ có trở về với nơi
hoang vu, với thiên nhiên sâu thẳm đó, con người mới tìm được sự tĩnh
lặng trong tâm hồn, tránh xa nhân thế và những hư vinh đời thường. Khi
có thể trân trọng những khoảnh khắc trong hiện tại, các thiền sư thường
đốn ngộ trước những cái hiện hữu của sự vật tưởng chừng như rất nhỏ
nhoi như con ốc, con cua, con chuột, con muỗi, chiếc lá rơi, giọt sương
20


mai, bơng hoa rụng, cành cây khơ…. Và những hình ảnh giản dị đó mới
chính là đời sống thực mà Bashơ dành rất nhiều tình cảm và sự ưu ái
trong thơ. Ông viết:
Những cơn mưa mùa xuân
giữ cho bạn khỏi những cuộc tàn phá dữ dội,
sảnh đường thượng đế lung linh.
(Bài 19)
Bài thơ trên gợi ra cho người đọc một khoảnh khắc của thực tại. Đó là
những cơn mưa mùa xuân. Khi Basho đi vào ngôi chùa Chuson, ông thấy
được sự đổ nát, hoang tàn nơi đây. Nhờ những mái ngói được gia cố lại,
những cơn mưa mới khơng tàn phá ngôi chùa. Những sự vật, khoảnh
khắc của thực tại rất nhẹ nhàng đi vào thơ ông. Cả tập thơ “lối lên miền
Oku” đều là những bài Haiku ông viết chớp nhoáng khi thấy những sự
vật, hiện tượng, con người hiện ra trong chuyến đi của mình. Những cơn
gió thổi khắp miền xuôi, những cơn mưa ào ào chợt đến, ánh nắng chan
hịa của mặt trời,... đó đều là khoảnh khắc thực tại trong thơ ơng. Quan
điểm này có phần nào giống với những thủ pháp trong điện ảnh. Đó cũng

là sự bắt lấy cái tự nhiên của vạn vật.

III.
1.

Nghệ thuật
Hình thức thơ cực tiểu:
Bashơ khơng phải người đầu tiên sáng tạo ra thể loại haiku, nhưng
những cách tân của ông đã làm nên diện mạo mới cho thể loại này để đến
Masaoka Shiki nó có tên gọi haiku. Một bài thơ haiku gói ghém đầy đủ trong
17 âm, nó chứa đựng thời gian, không gian và tâm trạng ẩn dấu của nhà thơ
khi ơng đi qua những nơi mình từng đến.. Vì số chữ bị giới hạn trong 17 âm
nên thơ haiku thường chỉ diển tả một sự kiện xảy ra ngay lúc đó, ở thì hiện
tại. Ðọc thơ haiku, ta cảm nhận được vị trí đứng ở ngồi sự kiện của tác giả.
Tác giả dường như chỉ chia sẻ với người đọc một sự kiện đã quan sát được.
Nhưng người đọc vẫn có thể cảm nhận được tình cảm của tác giả. Đó là tình
cảm sâu lắng, suy tư trong 17 âm tiết Nó nói lên niềm vui sống hay sự cơ
đơn, hoặc nói ra những thắc mắc của tác giả về cuộc đời: phù du, ngắn ngủi
trước sự vĩnh hằng của thiên nhiên.

21


Haiku là thể loại thơ ngắn nhất trên thế giới. Trong tiếng Nhật
người ta thường viết Haiku thành một dòng. Có thể nói sự ngắn gọn của thể
loại này đã mang đến tính hàm súc, cơ đọng và u cầu người viết phải chọn
lọc những chi tiết tiêu biểu để miêu tả. Về hình thức bên ngồi, thơ Haiku
thường khơng có sự mượt mà và gắn kết về vần điệu, nhưng sâu thẳm nội
dung bên trong là những ý nghĩa khôngn thể tách rời.
Haiku của Nhật Bản cũng ngắn gọn giống như thể thơ tuyệt cú của

Đường thi Trung Hoa. Một bài tuyệt cú gồm bốn câu, 28 âm tiết và cũng
được coi là thể thơ ngắn nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. Thường
những bài thơ ngắn sẽ gợi nhiều hơn tả, ý tại ngơn ngoại, lời ít ý nhiều. Và
bởi vì có kết cấu cực tiểu như vậy nên thơ Haiku sẽ mang nhiều tầng ý
nghĩa, gợi sự liên tưởng và đồng sáng tạo của bạn đọc.
2.

Kết cấu hư không tạo nhiều khoảng trống:
Kết cấu hư không trong thơ Haiku giống với bút pháp khi vẽ tranh
thủy mặc của Nhật Bản và giống với việc sáng tác tuyệt cú thơ Đường. Do
cả bài thơ chỉ vỏn vẹn có 17 âm tiết nên về mặt liên kết các từ ngữ sẽ khơng
có tác dụng. Những hình ảnh trong thơ haiku rất rời rạc và tưởng chừng
khơng có quan hệ gì với nhau:
Rất đỏ, rất thắm tươi
Nắng trời chiếu vơ tư
gió vẫn mùa thu
(Bài 40)
Đọc bài Haiku trên, người đọc đôi khi hoang mang không biết thực chất bài
thơ là tả nắng hay tả cơn gió mùa thu. Những khoảng trống dần hiện ra trong
đầu người đọc. Nhưng nếu liên kết các hình ảnh với nhau, bài thơ trên có lẽ
miêu tả cảnh thiên nhiên mùa thu, tiết trời thu lúc hồng hơn, khi những ráng
chiều đỏ thắm xuất hiện trên bầu trời và những cơn gió hiu hiu thổi. Cái kết
cấu hư không này ta sẽ bắt gặp rất nhiều trong các bài thơ thuộc tập “lối lên
miền oku” của Basho.

3.

Thủ pháp tương phản:
Thủ pháp tương phản không chỉ có ở thơ haiku của Bashơ mà nó có
từ rất lâu trong truyền thống văn hóa, văn học Nhật Bản. Đến với văn học,

sự tương phản cũng được thể hiện rõ nét. Sự tương phản về thể loại trong

22


văn học Nhật Bản là sự đối lập giữa liên ca dài dằng dẵng với bài hiku 17
âm tiết ngắn ngủn. Còn trong các bài thơ haiku, chúng ta thường xun gặp
những cặp hình ảnh tương phản. Đó là sự tương phản giữa cái cao - thấp,
tĩnh – động, vũ trụ bao la - con người bé nhỏ, đó là sự tương phản giữa cái
hữu hạn - vô hạn, giữa khơng - có:
Nơi vượt qua thuỷ triều
con hạc chân dài ngập ướt
Nước biển mát mẻ sao !
(Bài 33)
Hình ảnh nhỏ bé nơi đây là con hạc, hình ảnh rộng lớn hùng vĩ nơi đây là
biển khơi bao la với thủy triều cuồn cuộn. Sự tương phản, đối lập này gợi ra
cái vô hạn của thiên nhiên và cái hữu hạn của sự vật, con người. Con hạc
trắng muốt lướt đi giữa mặt biển vơ tận, chú chim như chìm sâu vào thiên
nhiên.
Sự đối lập, tương phản trong thơ Basho còn được thể hiện qua âm
thanh tiếng dế trước núi non hùng vĩ:
Ơi sự lặng lẽ nơi đây
Chích sâu vào đá
tiếng hót của con dế
(Bài 19)
Những chú dế bé nhỏ là đặc trưng của thiên nhiên mùa hè Nhật Bản, âm
thanh của chúng vốn là bản tình ca rộn rã. Nhưng chú dế xuất hiện trong thơ
Bashô không phải là đàn dế và dàn đồng ca mùa hạ của nó mà nó chỉ là một
chú dế cơ đơn giữa non núi, sự tương phản ở đây được thể hiện qua âm
thanh tĩnh và động, cái rộng lớn và cái nhỏ bé, cái thực tại và cái hư không.

Mở đầu bài thơ là sự tĩnh lặng của núi rừng. Con dế cất tiếng kêu vang
nhưng không một lời đáp trả, núi non trùng điệp như hút cả tiếng dế vào
trong nó. Lại một sự tương phản để tạo nên những day dứt trong lòng lữ
khách về cuộc sống phù du của kiếp người phiêu bạt. Bên cạnh đó, Bashơ
cịn nhìn thấy sự lạc quan đó trong cả những con vật: Dế kêu vui vẻ khơng ai
có thể đốn nó sẽ chết sớm Cái có và khơng, tồn tại và diệt vong ln là
những mảng tương phản đậm nét trong thơ Bashô. Bút pháp tương phản đối
lập này là bút pháp tả cảnh thiên nhiên tiêu biểu trong tập “Nẻo đường sâu
thẳm lên miền Oku” của Basho.

23


TỔNG KẾT
Được coi là người đặt nền móng cho thể thơ Haiku Nhật Bản, Basho đã
đưa hơi thở Phật giáo vào trong các bài thơ Haikai của mình. Ơng đã đưa các bài
haikai từ giọng văn trào phúng đến giọng văn sâu lắng, suy tư của triết lý Thiền
Tông. Bằng những chiêm nghiệm cá nhân, Basho đã kết hợp nhuần nhuyễn hơi thở
đời thường và hơi thở thiên nhiên trong tập “Nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku”.
Tập thơ là một bức tranh về vùng đất, thiên nhiên Nhật Bản rất đỗi trữ tình, sâu
lắng, nguyên sơ, bình dị, thân thương. Thiên nhiên bốn mùa xuân, hạ, thu, đông đã
được để lại dấu ấn đậm nét trong tập thơ này. Qua thiên nhiên, nhà thơ thể hiện
tình yêu của mình với đất nước và con người, thể hiện những quan niệm được khai
ngộ từ những sự vật nhỏ bé, tầm thường. Các bài thơ trong tập nhật kí này cũng
vận dụng tối đa kết cấu hư khơng và hình thức thơ cực tiểu. Vì những lẽ đó, tập thơ
“nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku” xứng đáng là tiếng vang trong cuộc đời sáng
tác văn chương và đi du hành của Basho. Đồng thời, nó cũng là niềm tự hào của
nền văn học Nhật Bản.

24




×