Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận tâm lý học PHẠM TRÙ ý THỨC TRONG tâm lý học mác xít và ý NGHĨA của vấn đề TRONG xây DỰNG ý THỨC hệ GIAI cấp vô sản ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.69 KB, 21 trang )

PHẠM TRÙ Ý THỨC TRONG TÂM LÝ HỌC MÁC XÍT
Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ TRONG XÂY DỰNG
Ý THỨC HỆ GIAI CẤP VÔ SẢN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Sự ra đời của phạm trù ý thức trong tâm lý học là một quá trình phát triển
lâu dài, là sự đấu tranh về học thuật, thế giới quan và phương pháp luận của rất
nhiều các tác giả và các dòng phái tâm lý. Chỉ đến khi tâm lý học Mác xít ra đời
dựa trên nền tảng triết học Mác với thế giới quan duy vật triệt để và phương pháp
biện chứng mới thực sự giải quyết triệt để vấn đề ý thức với tư cách là một phạm
trù cơ bản của tâm lý học. Trong phạm vi bài tiểu luận này, xin được trình bày
một số vấn đề cơ bản về phạm trù ý thức trong tâm lý học Mác xít và đôi điều suy
nghĩ rút ra trong nghiên cứu và giảng dạy tâm lý học hiện nay.
1. Lịch sử nghiên cứu phạm trù ý thức
Ngay từ thời cổ đại, trong hành trình đi khám phá thế giới, con người đã
từng bước có sự nhận thức về bản thân mình và đã cố gắng giải thích các hiện
tượng tinh thần nảy sinh. Khi quan niệm và lý giải về đời sống tinh thần, họ đã
gom tất cả vào phạm trù “hồn” hay “linh hồn”. Mặc dù đã cố gắng luận giải nhưng
các đại biểu tiêu biểu nhất như Platon và Aristốt cũng chỉ dừng lại ở việc mô tả
một cách trực về đời sống tâm lý con người nói chung. Những quan điểm đó
thường là rơi vào lập trường duy tâm hoặc là mang tính tự nhiên, tự phát, máy
móc. Do đó, các học giả thời kỳ này chưa chỉ ra được một cách đầy đủ về vấn đề ý
thức; không thấy được nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức, do đó khơng bóc
tách được ý thức (với tư cách là đối tượng của tâm lý học) ra khỏi “cái tâm lý” nói
chung và như vậy là đã đồng nhất tâm lý với ý thức.
Đến thế kỷ XVII, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên và và
những thành tựu trong y học, sinh lý học đã tạo điều kiện cho sự hình thành những
quan niệm có tính chất bước ngoặt về đời sống tinh thần của con người. Với phát
biểu trứ danh “Tôi tư duy tức là tôi tồn tại” và học thuyết hai bản thể của Rene
Descartes, lần đầu tiên phạm trù “ý thức” xuất hiện với tư cách là đối tượng của


2


tâm lý học. Đi sâu nghiên cứu cơ chế hoạt động của ý thức, Descartes đã đưa ra
thuyết phản xạ. Mặc dù cịn có những hạn chế nhất định song với thuyết phản xạ,
ơng đã đặt nền móng cho tư tưởng quyết định luận duy vật trong nghiên cứu đời
sống tinh thần, nghiên cứu ý thức con người. Từ kết quả nghiên cứu này, đã xuất
hiện một loạt các tác giả với nhiều học thuyết khác nhau đi vào nghiên cứu và giải
thích vấn đề ý thức; tuy nhiên do hạn chế bởi thế giới quan và phương pháp luận
nên họ đã lý giải không đúng đắn (hoặc là duy tâm hoặc là siêu hình) về nguồn gốc
cũng như bản chất của ý thức. Điển hình nhất là thuyết “liên tưởng”, thuyết này
cho rằng: Tồn tại là tồn tại của ý thức; ý thức không hề phụ thuộc vào thế giới bên
ngồi, mà đó là các liên tưởng của các biểu tượng nảy sinh bên trong kinh nghiệm
của chủ thể, nên nhiệm vụ của tâm lý học là nghiên cứu cấu tạo tâm lý nảy sinh do
các liên tưởng giữa những biểu tượng bên trong chủ thể sinh ra.
Năm 1879, tâm lý học ra đời với tư cách là khoa học độc lập gắn với vai trò
của nhà tâm lý học người Đức W.Wundt. Song, tâm lý học mà Wundt chủ trương
lại là tâm lý học nội quan, duy tâm, ý chí luận. Tâm lý học nội quan thì đồng nhất
tâm lý với ý thức; coi ý thức là cái thứ nhất, mọi cái ngoài thực tại đều bắt nguồn
từ ý thức và nhiệm vụ của tâm lý học là nghiên cứu các hiện tượng ý thức trong
khuôn khổ ý thức mà con người trực tiếp kiểm nghiệm. Vì vậy, các nhà tâm lý học
không cần quan tâm đến hành vi bên ngoài, đến cách cư xử của con người mà chỉ
cần chú ý tới thế giới các trạng thái ý thức khép kín bên trong và chỉ bằng con
đường nội quan mới nhận thức được thế giới ấy. Nội quan là tâm lý của ai thì chỉ
có người đó mới trực tiếp thể nghiệm trong ý thức khép kín của mình và các hiện
tượng ý thức của người nào chỉ người đó mới thấy mà thơi, về ngun tắc người
khác không quan sát thấy chúng. Và như vậy là mất khả năng nhận thức khách
quan về tâm lý người khác. Quan niệm của Wundt về phạm trù ý thức thực chất là
quan niệm duy tâm, tuyệt đối hóa ý thức, không thấy được những quan hệ giữa tâm
lý - ý thức với cái bên ngồi, từ đó khơng lý giải được nguồn gốc, bản chất của ý
thức, với tư cách là phạm trù cơ bản (đối tượng nghiên cứu) của tâm lý học.



3
Sau khi tâm lý học của Wundt được truyền bá rộng rãi, trong tâm lý học đã
dấy lên phong trào chống lại tâm lý học duy tâm nội quan, từ đó tạo nên cuộc
khủng hoảng của tâm lý học vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trước tình hình
đó, các trường phái tâm lý học khách quan ra đời. Các trường phái này đều có xu
hướng chung là phủ nhận tâm lý học nội quan, duy tâm truyền thống. Song do
chưa có cơ sở phương pháp luận đúng đắn, các trường phái này lại có quan niệm
khá cực đoan về phạm trù ý thức. Thuyết hành vi kiên quyết gạt bỏ ý thức ra khỏi
đối tượng nghiên cứu của tâm lý học, phủ nhận phạm trù ý thức, tuyên bố chỉ quan
tâm đến hành vi của tồn tại người. Tuy nhiên, các nhà hành vi lại hiểu sai lệch về
hoạt động của con người, coi hoạt động của con người chỉ là tổng số các hành vi
đáp ứng lại các kích thích của mơi trường bên ngồi, đồng nhất hoạt động của con
người với hoạt động của động vật, mà khơng thấy được vai trị quyết định của yếu
tố xã hội. Thuyết phân tâm thì lại chủ trương nghiên cứu “vô thức”, coi vô thức là
cái quyết định mọi biểu hiện của đời sống tâm lý con người, ý thức chỉ là cái thứ
yếu, là một phần rất nhỏ, chịu sự quy định của cái “vơ thức”.
Tóm lại, vấn đề ý thức đã được đề cập từ rất sớm trong lịch sử tâm lý học
song do hạn chế về thế giới quan, phương pháp luận và điều kiện xã hội lịch sử,
các nhà tâm lý học chưa giải quyết một cách triệt để và khoa học những vấn đề
xoay quanh phạm trù ý thức. Xu hướng chung là tuyệt đối hóa ý thức, lấy tâm lý để
giải thích ý thức và rơi vào lập trường duy tâm, siêu hình hoặc là phủ nhận ý thức,
tuyệt đối hóa các yếu tố sinh vật bản năng, đồng nhất con người với động vật, từ
đó khơng thấy được bản chất xã hội – lịch sử của ý thức, không giải quyết đúng
vấn đề ý thức với tư cách là một trong những phạm trù cơ bản của tâm lý học.
2. Sự phát triển của phạm trù ý thức trong tâm lý học Mác xít
Tâm lý học Mác xít ra đời đánh dấu một bước ngoặt căn bản trong lịch sử
tâm lý học. Sự xuất hiện của tâm lý học Mác xít đã từng bước giải quyết được cuộc
khủng hoảng trong tâm lý học cũng như trong quan niệm về các phạm trù cơ bản
của nó. Dựa trên nền tảng của triết học Mác mà cụ thể là học thuyết Mác về ý thức
con người, tâm lý học Mác xít đã lần lượt giải quyết đúng đắn những vấn đề xoay



4
quanh phạm trù ý thức. Q trình đó diễn ra với sự đóng góp khơng mệt mỏi của
các nhà tâm lý học Xô Viết.
Người đầu tiên phải kể đến là L.X.Vưgơtxki, với bài báo có tính chất là cương
lĩnh “Ý thức như một vấn đề của tâm lý học hành vi”, ông là người tiên phong cho
việc xây dựng một nền tâm lý học hiện đại, khoa học - nền tâm lý học Mác xít. Nội
dung cơ bản của cương lĩnh đã vạch ra một loạt các vấn đề có tính ngun tắc trong
nghiên cứu ý thức. Trước tiên, L.X.Vưgơtxki phân tích hiện trạng và kịch liệt phê
phán các dịng phái tâm lý học cũ đã loại bỏ ý thức ra khỏi tâm lý học, tác giả viết:
“việc loại bỏ ý thức ra khỏi lĩnh vực khoa học tâm lý, ở một mức độ đáng kể, đã bảo
vệ chủ nghĩa nhị nguyên và chủ nghĩa duy tâm của tâm lý học chủ quan trước đây”.
Ông cho rằng, để khắc phục hạn chế của các thuyết đó là phải đặt và giải quyết vấn
đề ý thức con người là vấn đề trung tâm của tâm lý học hành vi. Trên cơ sở phê phán
các quan niệm sai trái của các dòng phái tâm lý học cũ, Vưgôtxki đã đi đến khẳng định:
Thứ nhất, ý thức là vấn đề trung tâm, là đối tượng nghiên cứu của tâm lý
học, nghĩa là tâm lý học không được loại bỏ ý thức trong nghiên cứu tâm lý mà cần
phải vật chất hố nó và không được coi ý thức là hiện tượng thứ yếu. Ông viết: “ý
thức là một sự kiện quá rõ ràng, là một thực tế hành đầu, và đó là sự kiện có ý
nghĩa vơ cùng quan trọng, chứ khơng phải sự kiện phụ hay ngẫu nhiên. Không ai
chối cãi điều đó...Chừng nào tâm lý học mới mà chưa đặt ra một cách rõ ràng,
dũng cảm, vấn đề tâm lý và ý thức, chừng nào mà chưa giải quyết vấn đề này bằng
con đường thực nghiệm khách quan, chừng đó tâm lý học chưa thoát khỏi cảnh cơ
cực”. Phải nghiên cứu cùng một lúc cả hành vi và ý thức vì ý thức và hành vi đều
tồn tại khách quan; muốn hiểu ý thức thì phải hiểu hành vi và ngược lại khi xét đến
hành vi không thể không xét đến ý thức.
Thứ hai, muốn nghiên cứu ý thức phải nghiên cứu cấu trúc của hành vi, ý
thức là một vấn đề của cấu trúc hành vi “ý thức hoá ra là một cấu trúc rất phức tạp
của hành vi, nếu nói riêng, thì là cấu trúc rất phức tạp của q trình phân đơi của

hành vi”, và hành vi của con người khác hành vi động vật là ở chỗ: hành vi của con
người có sự kế thừa các kinh nghiêm xã hội - lịch sử và kinh nghiệm đã được tăng


5
cường; hành vi đó có sự chỉ đạo của ý thức. Trong ba loại kinh nghiệm đó, kinh
nghiệm xã hội tham gia như một thành phần rất quan trọng trong hành vi con
người và đây được coi là thành phần xã hội của hành vi đó; kinh nghiệm đã được
tăng cường (kinh nghiệm kép) được tích luỹ và hình thành trong hoạt động. Ông
viết: “ Lao động lặp lại trong cử động của tay và trong sự thay đổi cảu vật liệu, cái
mà trước đó đã được làm trong biểu tượng của người lao động giống như là các mơ
hình của chính các cử động và vật liệu đó”. Chính trong kinh nghiệm kép ấy ta
thấy rõ nguồn gốc của ý thức, sự tồn tại thực của nó cũng như chức năng định
hướng, hành động thực sự của ý thức. Với quan niệm mới về nguồn gốc, bản chất,
chức năng của ý thức đối với hành vi con người, từ đây, lần đầu tiên tâm lý học có
khả năng thốt khỏi thuyết duy linh, hiện tượng luận hay nhị nguyên luận.
Thứ ba, về vai trị của ý thức, Vưgơtxki cho rằng bản thân ý thức là sản
phẩm của sự phản ánh tâm lý ở trình độ cao nhất của dạng vật chất có tổ chức cao
nhất - đó là óc người. Tuy nhiên cần phải hiểu đây là sự phản ánh có tính chất gián
tiếp và chọn lựa, chứ khơng phải sự phản ánh máy móc hay cơ học. Ý thức có
nguồn gốc từ hiện thực khách quan, thơng qua quá trình hoạt động của con người
với tư cách là chủ thể tích cực tác động, nhận thức và cải biến thế giới đối tượng
phục vụ cho nhu cầu ngày càng tăng của con người. Không phải thuần tuý là sản
phẩm của sự phản ánh, ý thức với tư cách là một thành tố quan trọng nhất của hành
vi con người, nó giữ vai trị là nhân tố có chức năng định hướng, điều chỉnh, điều
khiển và tích cực hố hành vi con người. Để đi sâu nghiên cứu vai trò và chức
năng của ý thức, tác giả cũng đã mở ra hướng nghiên cứu này bằng cách phân tích
cấu trúc tâm lý của ý thức trên cơ sở phân tích hệ thống cấu trúc của hành vi với
các giai đoạn từ thấp đến cao. Q trình đó tác giả tập trung làm rõ mối qua hệ qua lại
giữa các chức năng tâm lý cấp cao theo thứ bậc - đây chính là hạt nhân của ý thức.

Thứ tư, phương pháp nghiên cứu tâm lý - ý thức con người phải là hoạt
động, thơng qua hoạt động, vì tâm lý- ý thức con người hình thành và biểu hiện
trong hoạt động, tâm lý - ý thức và hoạt động thống nhất với nhau. Mặc dù chưa
chỉ rõ cấu trúc của hoạt động, cách thức cụ thể khi nghiên cứu về hoạt động nhưng


6
qua sự phân tích sâu sắc hành vi con người và đem nó đối lập với hành vi theo
quan điểm của thuyết hành vi cũng như các thuyết khác. Theo tác giả thì phải
nghiên cứu ý thức và hành vi của con người như là một tồn tại lịch sử- xã hội, tồn
tại lao động và ý thức; do đó, tác giả khẳng định, hoạt động là phương thức tồn tại
đặc trưng chỉ có ở con người, trong đó lao động là dạng chủ đạo trong các dạng
hành vi con người. Vưgơtxki đã trích tư tưởng của Mác trong bộ “Tư bản” để làm
tiền đề và chứng minh cho luận điểm của mình: “con nhện thực hiện các thao tác
giống các thao tác của người thợ dệt, con ong xây tổ sáp làm cho nhà kiến trúc phải
hổ thẹn. Nhưng ngay một nhà kiến trúc tồi từ đầu đã khác một con ong cừ nhất ở
chỗ trước khi dùng sáp xây tổ, nhà kiến trúc đã xây nó trong đầu mình rồi. Khi quá
trình lao động kết thúc, nhận được kết quả thì kết quả này đã có dưới dạng tinh
thần trong biểu tượng của con người từ lúc quá trình ấy mới bắt đầu. Con người
khơng những chỉ biến đổi hình thức cái thiên nhiên đã cho; trong cái thiên nhiên
cho, con người đồng thời thực hiện cả mục đích có ý thức của mình, mục đích này
là quy luật quy định phương thức và tính chất của hành động của con người, con
người bắt ý chí của mình phải theo mục đích đó”.
Như vậy, với những cống hiến của Vưgôtxki, lần đầu tiên trong lịch sử
khoa học tâm lý, ý thức được khẳng định là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học
với đầy đủ các yếu tố của nó - một phạm trù rất cơ bản mà khoa học tâm lý không
thể không đi sâu vào nghiên cứu. Lần đầu tiên trong lịch sử tâm lý học, ý thức với
tư cách là đối tượng của tâm lý học được nghiên cứu và xem xét trong hoạt động.
Hoạt động được coi là chiếc chìa khố vạn năng để đi sâu tìm hiểu và khám phá về
ý thức; Vưgơtxki chỉ ra rằng, muốn hiểu được ý thức thì chỉ có thể nghiên cứu hoạt

động và thơng qua hoạt động, nếu không lại rơi vào duy linh hay sinh vật luận.
Đây là sự cụ thể hoá và phát triển quan điểm của Mác về vấn đề hoạt động của con
người; từ đây, tác giả đã phác hoạ ra cương lĩnh đầu tiên của lý thuyết tâm lý học
về hoạt động bao hàm một quan điểm mới về đối tượng nghiên cứu của tâm lý họcđó là ý thức và một phương pháp tiếp cận mới khi nghiên cứu tâm lý người- nghiên


7
cứu ý thức, đó là phương pháp tiếp cận hoạt động. Sự khẳng định của Vưgôtxki về
phạm trù ý thức đã đánh dấu một bước chuyển căn bản về chất trong quan niệm cũng
như cách thức và phương pháp xem xét, luận giải các vấn đề của khoa học tâm lý nói
chung, tâm lý học Mác xít nói riêng; nó đã phủ định và đi đến đoạn tuyệt với các quan
niệm duy tâm, siêu hình hay cơ giới máy móc khi đi nghiên cứu nguồn gốc, bản chất,
cơ chế hình thành và những nhân tố quy định và ảnh hưởng đến các q trình đó. Cũng
từ đây, cùng với những sự cống hiến quan trọng khác như: hệ thống các nguyên tắc,
phương pháp tiếp cận... Vưgôtxki đã mở đường cho tâm lý học Mác xít phát triển, mở
đường cho các nhà tâm lý học Liên Xô tiếp tục khám phá xây dựng và phát triển ngành
khoa học còn rất non trẻ này.
Kế thừa những thành tựu của khoa học tâm lý nói chung, đặc biệt là những
luận điểm có tính chất cương lĩnh của Vưgơtxki, X.L.Rubinstêin là người đã có
cơng lao xuất sắc trong việc bổ xung, hoàn thiện và phát triển phạm trù ý thức một
cách triệt để; góp phần xây dựng khoa học tâm lý phát triển vững chắc trên nền
tảng triết học Mác- Lênin. Nếu như Vưgôtxki là người phác hoạ ra mơ hình ý thức
với những đường nét căn bản thì X.L.Rubinstêin có cơng lao đặc biệt trong việc
luận giải và cụ thể hố nó, làm cho nó có sức sống trường tồn đủ sức khẳng định vị
trí vai trị to lớn đối với tồn bộ đời sống tâm lý con người nói chung và đối với
các phạm trù khác của tâm lý học. Để minh chứng tính chất cách mạng và khoa
học những luận thuyết của Mác cũng như các quan điểm của Vưgôtxki, trong q
trình luận giải về vấn đề ý thức, X.L.Rubinstêin ln đem so sánh và đối lập với
các quan điểm của các trường phái tâm lý học cũ; quá trình phân tích chỉ ra những
hạn chế, sai trái và từ đó khẳng định tính đúng đắn của Mác và Vưgơtxki; đồng

thời đưa ra quan điểm của mình. Tồn bộ các q trình đó, X.L.Rubinstein ln
nghiên cứu vấn đề ý thức trong hoạt động, gắn với hoạt động và lấy hoạt động là
chìa khố để làm sáng tỏ phạm trù ý thức.
Trước tiên, X.L.Rubinstein đi sâu phân tích làm rõ quan niệm sai trái của
các dòng phái tâm lý học khác khi quan niệm về ý thức, theo tác giả, việc tâm lý


8
học nội quan đem đồng nhất tâm lý với ý thức; coi nhiệm vụ của tâm lý học là
nghiên cứu các hiện tượng ý thức trong khuôn khổ của ý thức cá thể mà con người
trực tiếp kiểm nghiệm; tồn tại của tâm lý giới hạn trong cứ liệu mà ý thức nghiệm
thấy và con người không thể nhận thấy được- điều này đồng nghĩa với việc coi đối
tượng của tâm lý học không tồn tại khách quan. Đây là quan niệm phản khoa học
khơng thể chấp nhận được, vì như vậy thì việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý
người không thể tiến hành bằng phương pháp khách quan. Quan điểm này chủ yếu
vẫn dựa trên lập trường hiện tượng luận của MaKhơ, đồng nhất hiện tượng với bản
chất - tách cái tâm lý ra khỏi mọi cái gián tiếp khách quan. Thực chất, đây là một
luận đề duy tâm triệt để: mọi cái vật chất, cái bên ngoài, cái vật lý đề tồn tại gián
tiếp thông qua ý thức và tâm lý- tâm lý ý thức là cái có trước. Đây là quan niệm
ngược, khơng đúng với bản chất của tâm lý- ý thức. Ông viết “Và nếu vậy thì tâm
lý học tự đặt cho mình nhiệm vụ khám phá ra cái nghiệm thấy trực tiếp ấy sẽ tỏ ra
là một khoa học thừa”. Thuyết hành vi lại quá đề cao yếu tố bản năng, sinh lý
thuần tuý và gạt bỏ ý thức ra khỏi tâm lý; quan niệm rằng giữa ý thức và tâm lý là
hoàn toàn biệt lập khơng có sự quan hệ, liên hệ giàng buộc gì. Họ quan niệm hết
sức sai lệch về hoạt động của con người, coi hoạt động của con người chỉ là tổng
số các hành vi đáp ứng lại các kích thích của mơi trường bên ngồi theo cơ chế cứ
có kích thích là có phản ứng đáp lại( S - R), mà khơng cần tính tốn hay cân nhắc
của chủ thể (nghĩa là khơng tính gì đến yếu tố ý thức với tư cách là tành tố chỉ đạo
định hướng mọi hành vi và hoạt động đó); và như vậy họ đồng nhất hoạt động của
con người với hoạt động của động vật; mà khơng thấy được vai trị quyết định của

yếu tố xã hội. Rubinstein viết “kết quả là hoạt động bị mất hết tính chất xã hội và
nội dung tâm lý; từ lĩnh vực xã hội và tâm lý, hoạt động hoàn toàn bị liệt xuống
lĩnh vực sinh lý”. Thuyết tinh thần thì quá nhấn mạnh yếu tố tinh thần, ý thức,
nhưng họ đã tách rời ý thức khỏi những mối liên hệ ý nghĩa của ý thức đó với tư
tưởng, đã cố biến ý thức thành một vật độc lập, tự thân và trở thành đối tượng của
tâm lý học chân chính như là một khoa học về tinh thần chủ quan, mà khơng có sự


9
liên hệ, liên quan gì đến các yếu tố tự nhiên và xã hội với tư cách là môi trườngnguồn gốc của ý thức. Xét về thực chất, “tâm lý học tinh thần” cũng khơng có gì
khác so với tâm lý học nội quan; hành vi hay phản xạ học khi giải quyết vấn đề
ý thức. Một số tác giả khác ở phương tây và ở nước Nga mà đại biểu như K.
Buyle và K.N. Coocnhilov đã đứng trên phương diện khác với ý định xây dựng
một khoa tâm lý học mác xít, nhưng bằng cách tổng hợp các trường phái tâm lý
học khác nhau và xem như đó là sự bổ xung cho nhau. Họ cố ý liên kết cách tiếp
cận đối tượng của cả thuyết nội quan, hành vi và tinh thần; coi chúng như là ba
mặt của cùng một đối tượng thống nhất của tâm lý học. Đây là quan niệm hết
sức chủ quan -duy tâm , cơ giới máy móc và kết quả của sự liên kết đó khơng có
gì khác là sự cộng lại các sai lầm đã phạm phải của các trường phái nêu trên:
“kết hợp quan niệm phi lý về ý thức với quan niệm giả dối về hoạt động của con
người và nhận thức không đúng về quan hệ giữa tâm lý với tư tưởng”.
Như vậy, theo Rubinstein thì vấn đề khơng phải là ở chỗ đem kết hợp quan
niệm về ý thức của tâm lý học nội quan với quan niệm hành vi chủ nghĩa về hoạt
động của con người, mà là phải đánh bại những quan niệm đó, cải tạo nhận thức về
ý thức cũng như về hoạt động của con người đã hình thành trong các quan niệm
tâm lý học đó và chính điều ấy đã khiến cho tâm lý học đi vào khủng hoảng. Từ sự
phân tích sâu sắc các quan niệm trên, ông đã đi đến kết luận chung về sai lầm của
các trường phái: “Sai lầm của tâm lý học nội quan không phải là ở chỗ nó đã muốn
đặt ý thức thành đối tượng nghiên cứu tâm lý học, mà là ở chỗ cái cách hiểu của nó
về ý thức, tâm lý con người. Sai lầm của thuyết hành vi cũng không phải là ở chỗ

nó muốn nghiên cứu con người trong hoạt động, mà trước hết là ở cái cách hiểu
của nó về hoạt động đó. Và điều lầm lẫn của tâm lý học tinh thần khơng phải là ở
chỗ nó thừa nhận tình chất trung gian (gián tiếp) của ý thức, quan hệ của nó với
văn hố, với hệ tư tưởng, mà là ở cái cách mà nó xem xét mối quan hệ đó”. Từ đó,
ơng khẳng định muốn thốt khỏi cuộc khủng hoảng này phải đoạn tuyệt với những
sai lầm, hạn chế của các trường phái trên: Cần phải nhận thức đúng đắn về tâm lý-


10
ý thức và hoạt động của con người; nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa ý
thức và hoạt động- đó là mối quan hệ biện chứng; khơng được tách rời ý thức với
hoạt động, mà phải coi ý thức là một thành tố quan trọng của hoạt động của con
người, chỉ đạo hoạt động đó. Hành vi chỉ là sự biểu hiện cụ thể của hoạt động dưới
sự chỉ đạo của ý thức; hành vi của con người là hành vi đã được ý thức hoá. Đây là
sự khác nhau căn bản về chất giữa tâm lý học mới- tâm lý học Mác xít với các
trường phái tâm lý học cũ khi nó đã chỉ ra cơ sở khoa học của đối tượng tâm lý
học; chỉ ra nguồn gốc, bản chất của tâm lý - ý thức và cách thức xem xét, nghiên
cứu nó trong hoạt động, thơng qua hoạt động. Chính q trình con người hoạt động
đã làm nảy sinh tâm lý - ý thức của mình, vì thế để nghiên cứu tâm lý - ý thức
khơng thể tách nó ra khỏi hoạt động, ngược lại phải nghiên cứu sâu sắc vấn đề hoạt
động đó trong mối quan hệ- liên hệ chặt chẽ, biện chứng với tâm lý - ý thức. Đó
cũng là thực chất yêu cầu của Mác về tâm lý học, vì thế tác giả khẳng định : Những
lời nói đó đã đề cập một cách xem xét hoàn toàn khác về ý thức và hoạt động của
con người, đã đánh đổ tận gốc việc cắt rời ý thức với hoạt động và tạo ra cơ sở để
xây dựng tâm lý học Mác xít thành một khoa học “có nội dung phong phú và hiện
thực”. Tiếp đến, ông đã khái quát và hệ thống những tư tưởng cơ bản của Mác về
tâm lý học, phân tích và làm sáng tỏ vấn đề ý thức thơng qua việc đi sâu vào phân
tích vấn đề hoạt động. Chính q trình này đã giúp X.L.Rubinstein có những kết
luận hết sức đúng đắn và khoa học về phạm trù ý thức, từ đó đã đưa ơng lên vị trí
xứng đáng là một trong những nhà tâm lý học đầu tiên có cơng đặt nền móng cho

khoa học tâm lý phát triển theo quan điểm Mác xít. Từ những luận điểm của
C.Mác về hoạt động của con người rằng: con người và thế giới tự nhiên (hiện thực
khách quan) luôn có mối quan hệ qua lại khăng khít với nhau. đó là sự tác động
qua lại có nội dung hoạt động (hay hoạt động tác động của con người vào hiện thực
khách quan là có đối tượng rõ ràng). Trong mối quan hệ đó, sự tác động của con
người là cái thứ nhất, tâm lý là cái thứ hai. Tác động ấy giống như nhu cầu đối với
một cái gì đó ở bên ngồi con người, nhu cầu về một khách thể có thể thoả mãn


11
nhu cầu ấy của con người. Quá trình hiện thực hoá mối quan hệ ấy, con người cải
tạo tự nhiên bằng chính hoạt động của mình nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của mình và thơng qua đó con người sản xuất ra thế giới đối tượng đa dạng phong
phú. Như vậy, đối tượng hoạt động được con người tạo ra; đối tượng chính là
“những lực lượng bản chất” bên trong của con người được đưa ra bên ngoài thành
sản phẩm hoạt động: “chỉ nhờ có sự phong phú được mở ra trong đối tượng của tồn
tại người mà sự phong phú của tình cảm, tính chủ quan của con người được phát
triển.... Tóm lại, q trình tác động qua lại có nội dung hoạt động giữa con người
và thế giới xung quanh được xem như là một quá trình hố chủ thể đối tượng
(nghĩa là con người tạo ra sản phẩm) và q trình đối tượng hóa chủ thể (nghĩa là
con người lĩnh hội các thao tác, các quan hệ sau đối tượng). Quá trình thứ nhất con
người sử dụng tri thức, kỹ xảo, kỹ năng, kinh nghiệm, vốn sống tác động vào thế
giới để tạo ra đối tượng. Quá trình thứ hai là quá trình hình thành và phát triển tâm
lý - ý thức mới (nghĩa là hình thành hệ thống tri thức, kỹ xảo, kỹ năng mới). Bằng
sự phân tích trên, X.L.Rubinstein cho thấy chính nhờ có q trình hoạt động có đối
tượng của mình mà tâm lý - ý thức con người được hình thành và phát triển. Từ
quan niệm như vậy đã cho chúng ta nhận thức rằng chính hoạt động là chiếc chìa
khố để nhận thức bản chất tâm lý - ý thức và các quy luật của nó. Nghĩa là, để
nghiên cứu tâm lý - ý thức phải nghiên cứu họat động.
Theo X.L.Rubinstein, hoạt động ở đây được hiểu là một hệ thống các thao

tác hay hành vi ứng xử ít nhiều có ý thức. đặc trưng của thao tác là có sự tham gia
của ý thức vào điều chỉnh hành động; ý thức dùng để chỉ thái độ của chủ thể đối
với khách thể (đối tượng) mà chủ thể hướng hoạt động của mình vào đó, cịn đối
với hành vi ứng xử thì cần có sự tham gia của tự ý thức vào hành động. Như vậy,
theo tác giả trong cấu trúc của hoạt động, ngoài các phản ứng sinh lý hay vận động
được xem là những trả lời máy móc đối với các kích thích bên ngồi, cịn có các
thao tác và hành vi có ý thức (nghĩa là hoạt động của con người không chỉ thuần


12
t là sự đáp lại các kích thích bên ngồi theo cơ chế phản ứng sinh học như thuyết
hành vi), mà đó chính là sự chỉ đạo và định hướng của ý thức.
Từ luận thuyết tính chất gián tiếp của hoạt động của con người của Mác,
X.L.Rubinstein chỉ ra rằng hoạt động của con người mang tính chất gián tiếp; hành
động có cấu trúc gián tiếp. Mọi kế hoạch trong đầu óc, trong tư tưởng là cơ chế
gián tiếp của hành động. Kế hoạch đó là ý thức, tâm lý như là sự phản ánh được
đưa vào đứng giữa hoàn cảnh và hành động; quan niệm này đã khắc phục được
những sai lầm và hạn chế của thuyết hành vi và nội quan, đồng thời đi đến khẳng
định tâm lý- ý thức đã trở thành đối tượng thực sự của một nền tâm lý học có thựchiện đại. Quán triệt sâu sắc các quan điểm của Mác, tác giả khẳng định: Tâm lý- ý
thức được hình thành trong hoạt động, thông qua hoạt động. Theo X.L.Rubinstein,
thực chất phương pháp tiếp cận hoạt động vào giải quyết các vấn đề tâm lý học của
chủ nghĩa Mác là: tâm lý- ý thức của con người được nảy sinh từ những biến đổi
trong các quan hệ hiện thực giữa con người với môi trường sống xung quanh. Khác
về chất so với các trường phái tâm lý học duy tâm hay phân tâm và hành vi, quan
niệm Mác-xít coi ý thức con người là sự minh chứng của cuộc sống thực và ý thức
là sản phẩm do đời sống sinh ra. X.L.Rubinstein viết: “Luận điểm xuất phát cho
rằng bản chất bên trong của ý thức người hình thành trong quá trình con người tác
động vào thế giới bên ngồi, trong q trình thực tiễn xã hội.Trong thực tiễn ấy
diễn ra sự xâm nhập giữa hành động và đối tượng, diễn ra sự hình thành chủ thể và
ý thức thông qua sản phẩm của thực tiễn xã hội”. Tâm lý- ý thức không phải là cái

tồn tại trong thế giới nội tại khép kín tách biệt, mà nó là cái tồn tại thực thơng qua
hoạt động thực tiễn của con người trong thế giới sự vật, thế giới đối tượng. ý thức
hình thành và vận hành trong q trình chuyển hố qua lại giữa chủ thể và khách
thể; các q trình chuyển hố này được thực hiện bằng chính hoạt động của chủ
thể. Trong quan hệ với môi trường, ý thức không phải là cái gì hồn tồn thụ động,
đứng ngồi hoạt động mà nó với tư cách là thành phần có chức năng tích cực đối
với hoạt động tác động vào môi trường xung quanh nhằm cải tạo hiện thực; đồng


13
thời tác động vào chính chủ thể của hoạt động đó. Như vậy theo X.L.Rubinstein,
tâm lý- ý thức được hình thành trong hoạt động, thông qua hoạt động, biểu hiện
trong hoạt động. Do đó để nghiên cứu tâm lý- ý thức của con người phải nghiên
cứu hoạt động của họ- đó cũng là thực chất yêu cầu phương pháp tiếp cận hoạt
động trong xem xét, đánh giá, nghiên cứu các hiện tượng tâm lý người nói chung,
ý thức nói riêng.
Khi bàn về vấn đề nguồn gốc và bản chất của ý thức, tác giả đã dẫn chứng
ý kiến của Mác cho rằng: ý thức của con người được hình thành một cách khách
quan thông qua hoạt động xã hội và là sản phẩm của xã hội, chứ tuyệt nhiên không
phải là c có sẵn. ý thức khơng phải cái gì khác hơn là sự tồn tại của ý thức- nghĩa
là ý thức bản thân nó ln tồn tại khách quan; nó có nguồn gốc từ hiện thực khách
quan : “ý thức khơng phải là cái gì khác hơn là tồn tại được ý thức, mà tồn tại của
người ta là quá trình thực tế của đời sống người ta” và “ý thức của chủ thể đó chỉ là
cái bên ngồi được phản chiếu vào mà thôi”, chứ không phải tự thân bên trong con
người theo kiểu “tự sản sinh” như quan niệm của Hêghen : “ý thức con người hình
thành khơng phải theo cách chìm đắm trong cái âm thầm khơng bộc lộ ra của tính
trực tiếp, khơng phải trong trạng thái vô vị không hoạt động, mà là trong lao động,
trong bản thân hoạt động cải tạo thế giới của con người”, mà là theo công thức nổi
tiếng trong “Tư bản” của Mác: “Bằng cách biến đổi tự nhiên bên ngồi con người,
đồng thời biến đổi bản tính của chính mình”. Khi con người tham gia vào các q

trình hoạt động thực tiễn xã hội (bao gồm cả hoạt động thuần t lý luận), thì con
người ln nhập vai với tư cách là chủ thể của hoạt động có ý thức, nhưng con
người khơng thể tách mình biệt lập ra khỏi mơi trường đó, mà ngược lại con người
đã bị “khách quan hố”- nghĩa là con người khơng thể tự ý hành động một cách
chủ quan mà do chính những quy luật xã hội quyết định và kết quả khách quan của
hoạt động của chủ thể là do những quan hệ xã hội khách quan quyết định: các sản
phẩm hoạt động của chủ thể về thực chất là sản phẩm của hoạt động xã hội: “mỗi
một tư tưởng mà tôi diễn đạt ra đều mang một ý nghĩa khách quan, một ý nghĩa


14
khách quan do nhu cầu xã hội mà có, tuỳ thuộc vào hồn cảnh khách quan đó tơi
diễn đạt nó, chứ không tuỳ thuộc vào ý định và cứ nguyên chỉ có chủ quan thúc
đẩy tơi đi đến có tư tưởng đó; những sản phẩm hoạt động lý luận cũng như những
sản phẩm thực tiễn của tôi về mặt nội dung khách quan thực chất là sản phẩm của
hoạt động hội”. Xét về mặt bản chất của ý thức là ở chỗ: trong mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên, trực tiếp là quá trình con người hoạt động tác động cải tạo
tự nhiên, hoàn cảnh được nghiệm thấy trong ý thức của mình như một thái độ,
nghĩa là thái độ thực sự của con người đã trở thành trung gian thông qua sự phản
ánh của tinh thần. Sự phản ánh đó được thực hiện trong ngơn ngữ, thơng qua ngơn
ngữ và được ngơn ngữ ghi lại với tính cách là cái vỏ vật chất của ý thức; đồng thời,
ngay chính cả ngơn ngữ cũng là sản phẩm tất yếu của hiện thực khách quan. Khi
nói về vấn đề này, Mác viết : “cả đến bản thân ngôn ngữ mà nhà tư tưởng dùng để
hoạt động,- được cung cấp cho tơi với tính cách là một sản phẩm xã hội, mà tồn tại
của bản thân tôi cũng là hoạt động xã hội; cho nên, cái mà tôi làm ra từ trong con
người của tôi là cái mà tôi làm ra cho xã hội, từ trong bản thân tôi, trong khi tơi có
ý thức về tơi như một thực thể xã hội” và đối với Mác, ngôn ngữ là “ý thức thực sự
thực tiễn tồn tại đối với những người khác và do đó cũng tồn tại đối với tơi”.
Như vậy, về bản chất, ý thức con người không phải là cái gì trừu tượng và
khó hiểu; nó khơng phải là thứ được tự sản sinh ra theo kiểu “gan tiết ra mật” ngay

chính trong chủ thể; nó lại càng không phải do thần linh hay thượng đế sinh ra, mà
ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan của một dạng vật chất đặc
biệt có tổ chức cao nhất đó là óc người. Cũng như tâm lý người nói chung, ý thức
mang bản chất xã hội rất sâu sắc- ý thức là sản phẩm cao nhất của phản ánh và hoạt
động xã hội của con người, nghĩa là ý thức chịu sự quy định và chi phối của điều
kiện và hoàn cảnh xã hội lịch sử nhất định; trong xã hội có giai cấp, ý thức mang
tính chất giai cấp rất sâu sắc và tồn tại cả trong ý thức cá nhân và ý thức xã hội.
Tiếp tục đi sâu phân tích sự phản ánh tâm lý, tác giả đã khẳng định sự khác nhau
căn bản về chất so với mọi sự phản ánh khác như cơ học, vật lý hay sinh học; phản
ánh ý thức là sự phản ánh mang tính tích cực và sáng tạo rất cao của chủ thể; quá


15
trình đó diễn ra trong mối quan hệ biện chứng giữa hai q trình cơ bản đó là: chủ
thể hố đối tượng (xuất tâm) và đối tượng hoá chủ thể (nhập tâm). Hai q trình
này ln xâm nhập và chuyển hố cho nhau trong suốt q trình hoạt động của con
người; vì thế ý thức vừa mang tính chủ quan, đồng thời lại vừa mang tính khách
quan. Điều này cũng đồng nghĩa với việc một mặt coi ý thức là sự phản ánh của
tồn tại (là sản phẩm của hoàn cảnh); đồng thời mặt khác ý thức cũng chính là thái
độ của chủ thể đối với tồn tại đó (là chủ thể tích cực): “thái độ của tơi đối với hồn
cảnh của tơi cũng là ý thức của tơi”. Từ sự phân tích đó, tác giả khẳng định: ý thức
con người là sản phẩm hoạt động của chính họ; nó được hình thành trong hoạt
động và thơng qua hoạt động cải tạo tự nhiên, xã hội. ý thức mang tính khách quan,
gián tiếp; nó được hình thành và phát triển một cách khách quan dưới sự tác động
và quy định của thế giới khách quan: “ ý thức của tôi được hình thành trong hoạt
động của tơi và thơng qua sản phẩm hoạt động đó thì nghĩa là ý thức được hình
thành một cách khách quan thơng qua những sản phẩm của hoạt động xã hội. ý
thức của tôi về thực chất bên trong là cái có tính gián tiếp thơng qua những mối
liên hệ khách quan hình thành trong thực tiễn xã hội mà tôi nhập vào, mà tôi đóng
góp vào bằng mỗi hành động của cả hoạt động lý luận và thực tiễn của mình”.

Theo Rubinstein, sở dĩ ý thức mang tính gián tiếp khách quan là do chỗ nhờ
quá trình hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội mà ý thức của con người được hình
thành; nhưng cũng đồng thời nhờ có ý thức mà chủ thể đã tự tách mình ra khỏi đối
tượng; đối lập mình với thế giới sự vật để nhận thức, xem xét và cải tạo nó. Do đó,
hành động của con người ln có tính lựa chọn, tính mục đích và tính ý chí. Như
vậy, cấu tạo và nội dung của ý thức đều phản ánh hiện thực khách quan (điều kiện
và hồn cảnh xã hội- lịch sử; nền văn hố…); chịu sự chi phối và quy định của các
yếu tố đó một cách tự nhiên nhưng rất phức tạp, đa dạng và phong phú mn hình
mn vẻ. Chính sự phong phú mn vẻ đó của hiện thực khách quan đã quy định
sự đa dạng nhiều vẻ của ý thức của chủ thể: “ý thức của tơi hồn tồn mang tính
gián tiếp bởi mỗi việc làm trong hoạt động của tôi và bản thân tơi ràng buộc với nó
qua hàng ngàn sợi dây, bởi những mối liên hệ nhiều vẻ nằm trong các cấu tạo


16
khách quan của nền văn hố đã hình thành một cách lịch sử. Vì thế, việc nghiên
cứu ý thức phải sử dụng phương pháp khách quan và chỉ có thể nghiên cứu nó
thơng qua hoạt động và sản phẩm của hoạt động của chính chủ thể; có như thế mới
khắc phục được những hạn chế và sai lầm của các trường phái tâm lý học cũ.
Tất cả các trường phái tâm lý học trước Mác đều phản ánh không đúng bản
chất xã hội của ý thức; hoặc là tuyệt đối hố, hoặc khơng tính đến hay xem xét một
cách phiến diện các yếu tố xã hội với tính cách là nguồn gốc xã hội của ý thức.
Nếu như thuyết nội quan cho rằng quan hệ giữa ý thức với hành vi chỉ thuần tuý
bên ngoài; ngược lại, Mác lại chỉ ra mối quan hệ giữa ý thức và lao động (hoạt
động): “là mối quan hệ hỗ tương đến mức là thật sự có thể nhìn thấu ý thức con
người qua phân tích hoạt động của họ, hoạt động qua đó mà ý thức được hình
thành và bộc lộ ra”. Nghĩa là Mác đã xác định bản thân ý thức bằng cách xuất phát
từ những biến đổi ngay trong chính những quan hệ có thực của con người đối với
hồn cảnh; sự hình thành, phát sinh và phát triển của ý thức gắn liền với những
biến đổi của những mối quan hệ đó. ý thức con người trước hết cũng là sản phẩm

của lao động, ý thức được hình thành về mặt bản chất bên trong của nó. Các tác
động của thực tiễn xã hội quyết định cái ý thức bên trong của chủ thể. Trường phái
xã hội học mà đại biểu là E. Đuychkhêm cũng đã nêu lên luận điểm về tính chất
xã hơị của ý thức, nhưng Ơng cho rằng ý thức là một cấu thành của xã hội và quy ý
thức vào hệ tư tưởng. Ch.Blon-đen lại cho rằng: ý thức hồn tồn khơng tương ứng
với thực tại tâm lý; cịn H.Wan-lon thì cho rằng: ý thức và tâm lý là hai lĩnh vực
hoàn toàn xa lạ nhau, khơng liên quan gì đến nhau, cái nọ nằm ngồi cái kia.
S.Freud thừa nhận sự tồn tại của cái “tôi” với tính cách là ý thức thuộc về chủ thể,
cái ý thức đó là sản phẩm của xã hội theo một nghĩa nhất định, nhưng Ông lại cho
rằng lực lượng thúc đẩy bên trong của sự phát triển tâm lý cá nhân là thuộc về lĩnh
vực của vô thức. Quan niệm này hết sức duy tâm, chủ quan khi xem xét, đánh giá
về ý thức con người; đề cao và tuyệt đối hoá mặt bản năng, sinh vật hay mặt vô
thức của con người mà không thấy hết được vai trị và tính chất xã hội của ý thức


17
cũng như mối quan hệ giữa cái bên ngoài và cái bên trong... và như vậy ý thức đó
theo Freud mới chỉ dừng lại ở việc chủ thể tự ý thức về bản thân mình mà thơi,
chưa phản ánh đầy đủ cấu trúc, cơ chế của quá trình hình thành và phát triển ý thức
theo đúng nghĩa của nó.
Để đối lập với các quan điểm đó, Mác khẳng định rằng không thể đem đối
lập cái xã hội với cái cá thể, cái bên ngoài với cái bên trong, mà phải xem xét nó
trong mối quan hệ biện chứng khơng thể tách rời, trong đó yếu tố xét đến cùng giữ
vai trị quyết định là yếu tố bên ngồi- cái xã hộ. ý thức phát triển cùng với thực
tiễn xã hội- lịch sử của con người: “ý thức do đó, ngay từ đầu đã là sản phẩm xã
hội và vẫn còn là sản phẩm xã hội chừng nào nói chung con người còn tồn tại”.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc khơng chỉ là sự thừa nhận tính chất lịch sử- xã
hội của ý thức( bản chất xã hội), mà còn chỉ ra cách thức, con đường hình thành ý
thức và biện pháp để xem xét, nghiên cứu và đánh giá tính chất lịch sử- xã hội đó
như thế nào. phát điểm của Mác khi nghiên cứu về ý thức là đi từ quan niệm hết

sức khoa học khi coi con người vừa là một thực thể tự nhiên đồng thời lại là một
thực thể xã hội. Nghiên cứu ý thức con người luôn đặt trong mối quan hệ mật thiết
gắn bó giữa con người với tự nhiên và xã hộ. Việc nghiên cứu ý thức con người chỉ
có thể thơng qua hoạt động tác động vào cải tạo thế giới bên ngồi vì q trình này
làm nảy sinh ý thức- chính lao động đã trực tiếp làm nảy sinh ý thức; nhưng ý thức
ra đời với tư cách là sản phẩm của q trình lao động đó, nhưng khơng phải là sản
phẩm thụ động, mà ý thức có vai trị hết sức to lớn với tính cách là thành tố chỉ đạo
hoạt động lao động đó cuả con người.
Cũng vẫn với phương pháp tiếp cận tương tự như vậy, A.N.Lêônchiev tiếp
tục phát triển sâu sắc thêm phạm trù ý thức dưới ánh sáng của học thuyết Mác xít.
Tác giả tiếp tục khẳng định nguồn gốc nảy sinh ý thức là phải thơng qua hoạt động
có đối tượng của con người với tư cách là chủ thể tich cực cải tạo hiện thực khách
quan. Ý thức có nguồn gốc từ hiện thực khách quan và mang bản chất xã hội sâu
sắc. Qua đó, tác giả chỉ ra, phân biệt và cụ thể hoá thành ý thức cá nhân và ý thức
xã hội; ý thức cá nhân với tư cách là hình thức chuyên biệt của con người phản ánh


18
một cácch chủ quan về thế giới khách quan, nó là cơ sở của ý thức xã hội, còn ý
thức xã hội với tư cách là sản phẩm tất yếu của quá trình con người hoạt động cùng
nhau và phản ánh tính chất xã hội - lịch sử, giai cấp. Với việc phát hiện ra cấu trúc
chung của hoạt động, Leonchiev đã cung cấp cho tâm lý học một công cụ, phương
thức tuyệt vời để nghiên cứu ý thức, khám phá bản chất đời sống tinh thần con
người. Theo Leonchiev, ý thức cá nhân được cấu thành bởi 3 thành tố có mối quan
hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau, đó là: chất liệu cảm tính của ý thức, nghĩa và ý cá
nhân. Đi sâu phân tích về ý thức, tác giả đã luận giải nghĩa của ý thức và cho rằng
nghĩa với tư cách là một thành phần của cấu trúc ý thức cá nhân; đó là những kinh
nghiêm của xã hội- lịch sử được biểu đạt, phản ánh trong ngơn ngữ văn hố và trở
thành sự kiện của ý thức cá nhân. Còn ý nhân cách, ý cá nhân là cái nghĩa được
chủ thể tiếp nhận dưới góc độ ý nghĩa đối với chính mình và muốn hiểu được nhân

cách thì phải hiểu ý của nhân cách.
Tóm lại, quá trình ra đời, hình thành và phát triển của phạm trù ý thức
trong tâm lý học luôn gắn liền với quá trình ra đời, hình thành và phát triển của
khoa học tâm lý nói chung và tâm lý học Mác xít nói riêng. Q trình đó ln gắn
liền với sự ra đời hình thành và phát triển của các phạm trù khác trong mối quan hệ
biện chứng với nhau không thể tách rời. Việc giải quyết vấn đề này là cuộc đấu
tranh gay gắt và quyết liệt giữa các dịng phái tâm lý học khác nhau, vì mỗi dịng
phái tâm lý học đều đặt cho mình một phương pháp tiếp cận khác nhau dựa trên
một nền tảng triết học nhất định. Dựa trên nền tảng triết học Mác với thế giới quan
duy vật triệt để và phương pháp biện chứng khi nghiên cứu và xem xét các hiện
tượng tâm lý người tâm lý học Mác xít đã giải quyết tận gốc những vấn đề của
phạm trù ý thức như: nguồn gốc nảy sinh ý thức, bản chất của ý thức, cơ chế hình
thành và phát triển ý thức cũng như các nhân tố quy định và ảnh hưởng đến q
trình đó. Những cống hiến và đóng góp quan trọng của các nhà tâm lý học mác xít
về việc nghiên cứu phát triển phạm trù ý thức đã một lần nữa chứng minh tính
đúng đắn của học thuyết mác xít nói chung, tâm lý học mác xít nói riêng; đồng thời
đập tan mọi quan niệm sai trái, siêu hình về vấn đề này. Việc nghiên cứu một cách


19
sâu sắc và đầy đủ về vấn đề ý thức khơng chỉ có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận (chỉ
ra thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn), mà cịn có ý nghĩa thiết thực
trong hoạt động thực tiễn của con người.
3. Ý nghĩa của vấn đề trong xây dựng ý thức hệ giai cấp vô sản ở
nước ta hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch đang tích cực trong phá nước
ta trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, chúng tiến hành nhiều âm mưu thủ đoạn thâm
độc tấn công vào hệ tư tưởng của đảng và nhân dân ta đó chính là chủ nghĩa Mác –
lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm phai nhạt lý tượng công sản, ý thức hệ của giai
cấp vô sản. Việc nghiên cứu một cách hệ thống và cấu trúc về ý thức sẽ là cơ sở để

chúng ta xây dựng ý thức của con người mới xã hội chủ nghĩa, ý thức là chủ xã
hội, làm chủ bản thân, làm chủ tập thể.
Phạm trù ý thức trong tâm lý học Mác xít có ý nghĩa hết sức quan trọng cả
về lý luận và thực tiễn đối với việc nghiên cứu tâm lý học ở Việt Nam hiện nay.
Cách thức tiếp cận, hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận và các kết quả
nghiên cứu cụ thể chính là những định hướng sâu sắc cho các nhà tâm lý học Việt
Nam. Trong nghiên cứu, giảng dạy về các hiện tượng tâm lý – ý thức người cần
quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo phương pháp tiếp cận hoạt động, những
nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, đặc biệt là nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý
– ý thức và hoạt động. Đồng thời phải biết kế thừa và phát triển các kết quả nghiên
cứu về phạm trù ý thức, từng bước cụ thể hóa cho phù hợp với đặc điểm tâm lý con
người Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập, phát triển kinh tế thị trường
hiện nay. Bên cạnh đó, cần không ngừng đấu tranh chống các quan điểm duy tâm,
siêu hình, quan điểm sinh vật luận trong nghiên cứu phạm trù ý thức, bảo vệ và
phát triển hệ thống tri thức của tâm lý học Mác xít về phạm trù ý thức.
Hệ thống tri thức về phạm trù ý thức còn là cơ sở tâm lý của việc giáo dục,
bồi dưỡng phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam nói chung, người
quân nhân nói riêng; đặc biệt là xây dựng và phát triển ý thức hệ giai cấp vơ sản (ý
thức chính trị và hệ tư tưởng) làm cho nó trở thành nền tảng tư tưởng- tinh thần-


20
tâm lý vững chắc trong đời sống xã hội đất nước; góp phần tạo tiền đề cơ sở vững
chắc cho Đảng ta hoạch định đường lối chiến lược, sách lược trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để làm tốt mục tiêu đó, trước hết cần phải thực hiện nhất quán đường lối và
chính sách phát triển kinh tế- văn hố- xã hội, thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng
nghiệp hố- hiện đại hố đất nước, đưa nước ta từng bước trở thành một nước công
nghiệp phát triển, tạo tiền đề vật chất cho xã hội - yếu tố suy đến cùng quyết định
sự hình thành và phát triển ý thức; tăng cường các tác động xã hội tích cực bằng

việc củng cố và mở rộng các quan hệ xã hội cho mọi người và các tập thể người;
thực hiện và tổ chức tốt mọi hoạt động, nhất là cơng tác giáo dục tồn diện, chú
trọng giáo dục chính trị tư tưởng ở mọi cấp mọi ngành, mọi đơn vị theo những
chuẩn mực mới.


21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các lý thuyết phát triển tâm lý người, Nxb ĐHSP, H 2003.
2. Tuyển tập Phạm Minh Hạc, Nxb CTQG, H 2006.
3. Bản thảo kinh tế - triết học, Nxb Sự thật, H 1962.
4. Tâm lý học Liên Xô, Nxb Tiến bộ, H 1978.
5. Những vấn đề Tâm lý học trong các tác phẩm của C.Mác, HVCTQS, 1984
6. A.N. Leonchiev, Một số cơng trình Tâm lý học, Nxb Giáo dục, H 2003.
7. B. Ph. Lomov, Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học (sách
dịch), Nxb ĐHQG, H 2000.
8. A.N. Leonchiev, Hoạt động – ý thức – nhân cách (sách dịch), Nxb Giáo dục, H
1989.
9. Tâm lý học, Những cơ sở lý luận và phương pháp luận, HVCTQS, 1984.
10. Lịch sử tâm lý học và tâm lý học quân sự, Nxb QĐND, H 2003.



×