RA QUYẾT ĐỊNH TRONG TÂM LÝ HỌC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ.
Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
===============================================
Ra quyết định là hoạt động quan trọng nhất của người lãnh đạo, quản
lý. Vấn đề ra quyết định là vấn đề trung tâm của tâm lý học lãnh đạo quản lý.
Chính vì vậy, nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về lý
luận và thực tiễn trong lãnh đạo, quản lý bộ đội hiện nay. Trong lãnh đạo quản
lý bộ đội, cán bộ lãnh đạo, quản lý luôn phải đối mặt với vấn đề thực tiễn nảy
sinh, địi hỏi phải giải quyết nhanh chóng, chính xác, kịp thời để đạt hiệu quả
cao. Điều đó phụ thuộc vào khả năng ra quyết định của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp. Để quyết định bảo đảm tính khách quan, khoa học, thiết
thực, pháp lý, quần chúng và có nghệ thuật cao, địi hỏi người lãnh đạo, quản
lý cần phải có phương pháp, cách thức tác động tư tưởng, tâm lý tới đối tượng
thực hiện quyết định một cách phù hợp. Do đó, những vấn đề tâm lý học ra
quyết định là cơ sở khoa học giúp cán bộ lãnh đạo, quản lý có những quyết
định đúng đắn trong lãnh đạo, quản lý. Trong phạm vi bài tiểu luận này, xin
được đề cập đến những vấn đề tâm lý học trong ra quyết định của người lãnh
đạo, quản lý, từ đó rút ra ý nghĩa trong hoạt động lãnh đạo, quản lý hiện nay.
1. Vấn đề ra quyết định trong tâm lý học lãnh đạo, quản lý
* Các quan điểm về quyết định trong lãnh đạo, quản lý
Có thể nói vấn đề ra quyết định là một khâu rất quan trọng trong công
tác lãnh đạo quản lý. Do đó, có nhiều cách, góc độ tiếp cận và quan niệm khác
nhau về quyết định trong lãnh đạo, quản lý. Có thể khái quát một số quan
điểm cơ bản sau:
V.G. Afanaxev cho rằng: quyết định là giai đoạn đầu tiên trong thực
hiện bất kỳ chu kỳ quản lý nào, là giai đoạn cực kỳ quan trọng, việc quản lý
có kết quả hay khơng, và có đạt được mục đích hay khơng là phụ thuộc vào
chỗ quyết định chuẩn bị tốt đến đâu. Năng lực chuẩn bị và ra quyết định là
2
hình thức chủ yếu của cơng tác quản lý. Từ đó tác giả đưa ra yêu cầu với
người ra quyết định là phải phát hiện ra vấn đề, phân tích vấn đề một cách tỷ
mỉ, khoa học; đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, thu thập và xử lý thông tin, trình bày
vấn đề một cách chính xác; xây dựng và đánh giá những phương án có thể lựa
chọn, phát hiện và đánh giá những hiệu quả có thể xẩy ra của quyết định, xây
dựng thực hiện các quyết định.
V.I. Mekheev coi quyết định quản lý là điều kiện then chốt của quản lý,
đó là hoạt động sáng tạo nhất trong tất cả các hoạt động, nó sáng tạo ra
phương hướng, cách thức và nội dung lao động của tập thể. Để ra quyết định
chính xác, yêu cầu người lãnh đạo - quản lý phải xây dựng được hàng loạt các
phương án, phải có các phẩm chất như: tự tin, quyết đoán, biết quy tụ các
chuyên gia, phải biết thừa nhận những sai lầm và dũng cảm gạt bỏ những
quyết định khơng đúng.
A.I. Kitov quan niệm: q trình ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết
định của người quản lý điều có sự tham gia của năng lực chuẩn đốn, năng
lực sáng tạo và năng lực tổ chức. Trong đó năng lực chuẩn đoán cho phép tạo
ra khái niệm rõ ràng về các tổ chức hiện tại và tương lai, năng lực sáng tạo
cho phép khải thảo những quyết định thích hợp với nhiệm vụ và mục tiêu
quản lý, năng lực tổ chức bảo đảm thực hiện được những quyết định ấy.
E.Ph. Xulimov coi quản lý bộ đội là công tác của con người và đối với
con người. Hoạt động quản lý bộ đội được thực hiện bằng các phương tiện kỹ
thuật, chủ yếu thông qua giải quyết mối quan hệ giữa các quân nhân. Vì vậy,
người lãnh đạo - quản lý với tư cách là chủ thể của hoạt động quản lý bộ đội
cần có năng lực nhận thức – nhận thức luận, năng lực tổ chức sáng tạo và
năng lực tác động xã hội.
Giáo sư Mai Hữu Khuê trong tác phẩm “Những khía cạnh tâm lý của
quản lý” cho rằng: ra quyết định là vấn đề trung tâm của hoạt động quản lý,
3
khía cạnh tâm lý học quan trọng nhất của ra quyết định là phải làm sáng tỏ
vấn đề. Người lãnh đạo - quản lý đang gặp khó khăn gì trong q trình tư duy,
người đó đang trải qua những cảm xúc và tình cảm nào. Người lãnh đạo quản
lý dùng ý chí mình ra sao? điều quan trọng là người lãnh đạo phải tìm giải
pháp để quản lý tình huống trong điều kiện có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới
hồn cảnh (tư duy, cảm xúc, tình cảm) ý chí, yếu tố tình huống có vai trị quan
trọng đối với q trình ra quyết định của người lãnh đạo - quản lý.
Giáo sư Đỗ Hoàng Toàn đã nghiên cứu về quyết định, nguyên tắc cơ
bản ra quyết định, yêu cầu đối với các quyết định và các yếu tố tác động đến
việc ra quyết định quản trị kinh doanh. Tác giả cho rằng: hiệu quả của các
quyết định phụ thuộc chủ yếu vào động cơ, bản lĩnh, uy tín và trách nhiệm
của người quản lý. Các yếu tố khách quan tác động đến quá trình ra quyết
định và tổ chức thực hiện quyết định của giám đốc doanh nghiệp là tính đồng
bộ, tính hợp lý của hệ thống chính sách kinh tế, pháp luật của nhà nước, khả
năng của chủ thể và thị trường.
Nguyễn Đức Minh và Nguyễn Hải Khoát trong tác phẩm “Cơ sở tâm lý
học của công tác quản lý trường học” đã nghiên cứu bản chất của quyết định
quản lý, phân loại các quyết định, các giai đoạn của quá trình ra quyết định và
cho rằng: Hoạt động người lãnh đạo - quản lý muốn có chất lượng hiệu quả
cao người lãnh đạo - quản lý phải có các phẩm chất như : óc sáng tạo, dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có tầm nhìn xa trơng rộng, có nghệ
thuật quy tụ và khai thác trí tuệ của các chuyên gia.
Như vậy, các quan điểm ngoài nước và trong nước, bằng cách tiếp cận
khác nhau, song tựu chung lại đều khẳng định vị trí, vai trị, tầm quan trọng
của việc ra quyết định trong hoạt động lãnh đạo - quản lý, là quan điểm đầu
tiên, giai đoạn trung tâm của hoạt động quản lý, là khâu then chốt quyết định
tới chất lượng, hiệu quả, mục tiêu của hoạt động quản lý; quyết định đó phụ
4
thuộc vào cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan. (chủ quan đó là động cơ,
bản lĩnh, uy tín, trách nhiệm, là tư duy, cảm xúc, tình cảm, ý chí…, cịn khách
quan là tính chất của tình huống, điều kiện môi trường hành lang pháp lý…);
đặt ra yêu cầu với người ra quyết định phải phát hiện ra vấn đề, thu thập xử lý
thông tin, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, xác định các phương án để lựa chọn
người thực hiện.
* Quan niệm về ra quyết định trong lãnh đạo, quản lý
Theo V.G.Afanaxev: ra quyết định quản lý là hành vi của cơ quan quản
lý, hoặc của người lãnh đạo (viết hoặc nói), trong đó xác định mục tiêu đề ra
nhiệm vụ cho khách thể quản lý. Theo tác giả con người ra quyết định được
thể hiện: nói lên ý chí của mọi thành viên; được cơ quan quản lý, hoặc những
người lãnh đạo - quản lý được giao những quyền hạn cho con người; có sức
mạnh bắt buộc đối với những người được chỉ định thực hiện; tính phong phú
đa dạng: có nhiều kiểu loại quyết định khác nhau; có tính định hướng xã hội:
định hướng vào con người, phát triển con người toàn diện, liên quan tới nhu
cầu, lợi ích. Những quyết định đó phải khách quan, khoa học, thiết thực,
phong phú, quần chúng.
Trong tác phẩm “Những vấn đề cốt yếu của quản lý”, Harold Kôtz và
các cộng sự cho rằng: ra quyết định là sự lựa chọn một trong số các phương
án hành động, là cốt lõi của việc xây dựng kế hoạch, ra quyết định có hiệu
quả địi hỏi người lãnh đạo quản lý phải biết lựa chọn phương án hành động
tối ưu, trong nhiều phương án được đưa ra.
Penten Drucke (người Anh) cho rằng: Bản chất của ra quyết định quản
lý là sự nhận xét và lựa chọn trong số các phương án hành động, trong đó
khơng có phương án nào hồn tồn đúng và hồn tồn sai. Vì trong tổ chức
thực hiện nó mới bộc lộ ra vấn đề sai sót mà trước đây ra quyết định khơng
tính đến, hoặc dự báo đến.
5
Tác giả Jonathan Baron (người Anh) trong tác phẩm “Suy nghĩ và ra
quyết định” quan niệm: Trước mỗi tình huống đặt ra trong cuộc sống đòi hỏi
con người phải suy nghĩ quyết định cần làm gì và làm như thế nào, bản chất
của việc ra quyết định là sự lựa chọn hành động, nó được quy định bởi niềm
tin, mục đích của chủ thể và q trình tư duy của người quản lý.
F.F. Aunapu quan niệm: ra quyết định quản lý là chức năng quan trọng
nhất trong số các chức năng cơ bản của người lãnh đạo quản lý, mọi công việc
của người lãnh đạo - quản lý đều dẫn tới việc ra quyết định và tổ chức thực
hiện quyết định ấy.
V.I. Mekheev cho rằng: ra quyết định quản lý là điều then chốt trong
quản lý, ra quyết định quản lý là hoạt động tư duy sáng tạo của chủ thể quản
lý. Nó sáng tạo ra phương hướng, phương pháp, hình thức và nội dung lao
động của tập thể đơng đảo, ra quyết định quản lý chịu sự tác động trực tiếp
của các yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan mới trong quản lý.
Theo Từ điển Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên quan niệm: ra quyết
định là hành động ý chí hình thành theo trình tự của những hành động, nhằm
thực hiện mục đích. Trên cơ sở biến đổi thơng tin ban đầu theo tình huống bất
định. Quá trình ra quyết định là khâu trung tâm của các giai đoạn biến đổi
thông tin và điều chỉnh tâm lý trong hệ thống hoạt động có mục đích. Những
bước cơ bản của ra quyết định quản lý là chuẩn bị thơng tin, phân tích thơng
tin, xây dựng mơ hình thơng tin.
Theo Giáo sư Đỗ Hồng Tồn: ra quyết định quản lý là hành vi sáng tạo
của chủ doanh nghiệp (giám đốc) nhằm định ra mục tiêu, chương trình và tính
chất hoạt động của doanh nghiệp để giải quyết một vấn đề chín mười.
Tác giả Nguyễn Hữu Sơn cho rằng: ra quyết định là quá trình xác định
vấn đề và lựa chọn một chương trình hành động thích hợp trong số nhiều
chương trình hành động khác nhau đã được chuẩn bị nhằm đáp ứng những
nhu cầu của tình huống.
6
Theo các nhà tâm lý học quân sự thì: Quyết định trong hoạt động lãnh
đạo quản lý chính là phương án tối ưu của nhà lãnh đạo quản lý nhằm xử lý
mâu thuẫn giữa diễn biến của tình huống và hồn cảnh, các địi hỏi nhiệm vụ
của đơn vị phải hoàn thành cùng các khả năng thực hiện chúng. Thực chất của
việc ra quyết định là tìm được phương án tối ưu để thực hiện các nhiệm vụ
của đơn vị một cách có hiệu quả.
Tóm lại, từ nghiên cứu các quan niệm của các tác giả trong và ngoài nước
về khái niệm ra quyết định, có thể khái quát thành một số hướng chính sau:
Quan điểm hành vi, tiếp cận vấn đề ra quyết định ở góc độ hành vi và
hành động cho rằng: ra quyết định là sự đánh giá, lựa chọn phương án hành
động của người lãnh đạo - quản lý, khi xuất hiện tình huống có vấn đề trong
hoạt động lãnh đạo chỉ huy. Quan niệm này chưa đi sâu nghiên cứu việc ra
quyết định một cách tồn diện, khơng xem xét các yếu tố và các khâu của quá
trình ra quyết định.
Quan điểm chức năng: coi ra quyết là chức năng quan trọng nhất trong
số các chức năng cơ bản của người lãnh đạo quản lý. Quan niệm này tập trung
phân tích vai trị của ra quyết định, chưa nghiên cứu sâu bản chất ra quyết
định của người lãnh đạo - quản lý.
Quan niệm hoạt động: nghiên cứu ra quyết định một cách tồn diện, có
hệ thống, coi ra quyết là hoạt động sáng tạo nhất trong các hoạt động của
người lãnh đạo - quản lý. Nó sáng tạo ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp
và chương trình hành động của mỗi tập thể. Ra quyết định được thực hiện ở
tất cả các cấp của hệ thống lãnh đạo - quản lý và là hoạt động chủ đạo của
người lãnh đạo - quản lý.
Như vậy, ra quyết định là sự lựa chọn và quyết định phương án hành
động hợp lí của người lãnh đạo, quản lý nhằm giải quyết mâu thuẫn nảy sinh
trong hoạt động thực tiễn.
Ra quyết định là hành động trí tuệ, ý chí ở trình độ cao của người lãnh
đạo nhằm vào những mục tiêu, nhiệm cụ thể. Xác định những phương pháp
7
và phương tiện hành động tốt nhất để đạt đến mục tiêu; ý thức rõ và tuân theo
đúng những qui luật của hoạt động.
Ra quyết định là nhân tố cốt lõi trong cơ cấu của hoạt động lãnh đạo quản lý, được quy định bởi hệ thống những nhân tố khách quan và chủ quan
của hoạt động. Trong đó những yếu tố quan trọng nhất là: môi trường hoạt
động, những đặc điểm tâm sinh lí của người lãnh đạo; đặc điểm tâm lí của đối
tượng lãnh đạo; hệ thống các nguyên tắc của pháp luật, những cơ chế lãnh đạo
và quy luật tác động qua lại của toàn bộ hệ thống...
Ra quyết định có mối quan hệ biện chứng với các hoạt động nhận thức,
hoạt động tổ chức thực hiện quyết định và hoạt động kiểm tra kiểm sát hoạt
động thực hiện quyết định.
* Quan niệm về các giai đoạn ra quyết định trong lãnh đạo quản lý
Do quyết định là một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn, liên
quan tới nhiều hành động, thao tác khác nhau. Vì vậy, có rất nhiều các ý kiến
khác nhau về sự phân chia các giai đoạn của chuẩn bị và ra quyết định.
O.V. Entraninôva đưa ra 7 giai đoạn của ra quyết định: sự quy định của
nhiệm vụ, mục tiêu; sự quy định của số lượng và chất lượng thông tin cần
thiết cho việc ra quyết định; thu thập và xử lý ( hệ thống hố thơng tin; xây
dựng các mơ hình thơng tin; xây dựng các phương án giải quyết nhiệm vụ;
đánh giá các phương án, chọn phương án ra quyết định; điều chỉnh quyết định
trong quá trình thực hiện).
Theo A.G. Vendelin có 8 giai đoạn: phân tích tình huống, phát hiện nêu
ra vấn đề; xác định và trình bày các sự kiện; soạn thảo các phương án giải
quyết; phát hiện ưu và nhược của cách giải quyết mà phương án đã chọn;
đánh giá các phương án giải quyết vấn đề; tính xắc xuất những hiệu quả của
quyết định; thông qua quyết định; vạch kế hoạch thực hiện quyết định.
Theo F.F. Aunapu: ra quyết định gồm 8 giai đoạn khác nhau: nêu sơ bộ
nghiên cứu; chọn tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của quyết định; thu thập các số
8
liệu bổ sung để chính xác nhiệm vụ; nêu chính xác nhiệm vụ; xây dựng các
phương án có thể có của quyết định; xây dựng mơ hình tốn học; so sánh các
phương án quyết định; ra quyết định.
Theo A. Rapoto người Mỹ: ra quyết định có 7 giai đoạn: nêu vấn đề;
chia vấn đề phức tạp ra thành các vấn đề nhỏ; xây dựng một loạt mục tiêu; tìm
kiếm các tình huống tương tự và cách giải quyết chúng; khảo sát các chỉ số có
lợi cho việc giải quyết vấn đề; đưa ra một hệ thống gọi tên và ghi các tỷ số hệ
thống; “làm giàu” hay “đơn giản” hoá mơ hình.
Tóm lại, có bao nhiêu giai đoạn trong ra quyết định hiện nay còn nhiều
ý kiến khác nhau. Nhưng chung quy lại cách cơ bản nhất là quy trình thu thập
và xử lý thông tin về trạng thái bên trong của hệ thống và mơi trường bao
quanh nó vẫn là chủ yếu, là xuất phát điểm trong việc chuẩn bị quyết định.
Việc phân chia các giai đoạn chỉ là tương đối, tuy nhiên trong thực tế nó diễn
ra đan xen, có quyết định khơng thực hiện được.
* Các yếu tố tâm lý xã hội cần quan tâm khi ra quyết định
- Trong mọi trường hợp người lãnh đạo - quản lý cần phải cân nhắc kỹ
lưỡng các điều kiện, tình huống, hồn cảnh dù cho đó là tình huống và hồn
cảnh nào, có thời gian chuẩn bị hay khơng khơng có thời gian chuẩn bị, thuận
lợi dễ dàng, hay khó khăn phức tạp đều phải tính đến đầy đủ các yếu tố khách
quan và chủ quan, bảo đảm tính luận cứ đúng đắn của các quyết định đề ra.
Điều này liên quan trực tiếp đến năng lực chuyên môn của người lãnh đạo
quản lý, cũng như những kinh nghiệm được tích luỹ trong thực tiễn hoạt động
quân sự của họ.
- Phải nắm được đặc điểm tâm lý, nhất là nhu cầu lợi ích, trình độ tâm
trạng và khả năng của những người trực tiếp thực hiện quyết định. Các quyết
định của người lãnh đạo quản lý đưa ra bao giờ cũng vì con người, cho con
người, nó liên quan đến nhu cầu, lợi ích của các thành viên trong tập thể và xã
9
hội. Đây là nguồn sức mạnh tinh thần rất lớn bảo đảm cho tính khả thi của
quyết định. Bởi vì chính cấp dưới sẽ là những người trực tiếp thực hiện các
quyết định, các mệnh lệnh, các chỉ thị của người lãnh đạo quản lý. Tính đến
điều này các quyết định sẽ mang tính khả thi, khơng mâu thuẫn hay cản trở
với những kế hoạch, dự án đã có, đồng thời phát huy được sức mạnh, khả
năng sở trường của cấp dưới. Điều đó địi hỏi người lãnh đạo quản lý phải sâu
sát với cấp dưới, đánh giá đúng phẩm chất, năng lực chuyên môn của cấp
dưới, giao việc cho họ đúng chức trách, đúng tầm, đúng sở trường, đúng lúc
và biết tạo điều kiện giúp đỡ họ hoàn thành nhiệm vụ. Để thực hiện được điều
đó phải thực hiện tốt mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa lãnh đạo và
chỉ huy, giữa lãnh đạo và phục tùng sự lãnh đạo, và ln có sự quan tâm đến
lợi ích, tâm tư nguyện vọng chính đáng của cấp dưới, cũng như cuộc sống đời
thường của họ, có như vậy với tạo ra được sự nhất trí cao, sự ủng hộ của cấp
dưới làm cho các quyết định có sức mạnh thực sự. Phải tính đến cả đặc điểm
tâm lý cá nhân của người trực tiếp thừa hành công việc để ra quyết định chính
xác. Mỗi cá nhân là một nhân cách có đặc điểm tâm lý khác nhau, biểu hiện ở
những đặc điểm của quá trình nhận thức; q trình cảm xúc, tình cảm; q
trình ý chí… đặc biệt ở xu hướng, tính cách khí chất, năng lực. Có người có
xu hướng chính trị đạo đức, xu hướng nghề nghiệp qn sự tốt nhưng năng
lực chun mơn có thể yếu. Có người trung thực thẳng thắn nhưng tính tình
lại nóng nảy, hấp tấp vội vàng. Có người có khả năng hồn thành nhiệm vụ rất
nhanh chóng nhưng lại thiếu tỷ mỉ, thận trọng… Do đó việc ra quyết định,
giao nhiệm vụ cho cấp dưới cần phải tính đến đặc điểm tâm lý cá nhân, những
phẩm chất tâm lý ổn định tạo nên hai mặt đức và tài của người trực tiếp thừa
hành cơng việc, sao cho có thể phát huy được sức mạnh của từng người phù
hợp với phẩm chất năng lực thực sự của họ bảo đảm cho công việc được tiến
10
hành trôi chảy thuận lợi, tránh được những rủi ro khơng đáng có, hoặc khơng
hồn thành nhiệm vụ.
- Nắm chắc được đặc điểm tâm lý của người tham gia vào việc ra quyết
định. Nếu những người cùng tham gia quyết định mà tâm đầu ý hợp, tương
đồng về tâm lý nhất là tính cách và khí chất thì các quyết định đó đưa ra sẽ
nhanh chóng, chính xác, kịp thời và ngược lại. Những quyết định có liên quan
trực tiếp đến lợi ích vật chất của người tham gia quyết định cần phải chú ý tới
mục tiêu của việc ra quyết định và thái độ của những người cùng tham gia.
Khắc phục, ngăn chặn những biểu hiện độc đoán, gia trưởng trong vấn đề ra
quyết định.
- Phải đặt mình vào vai trò của người thực hiện để xem xét, kiểm tra
khả năng thực thi của quyết định. Là khâu quyết định được thực hiện thuận
lợi và có kết quả. Phát huy tích tích cực, chủ động, sở trường cấp dưới.
Phải tính trước được những khó khăn, trở ngại phải giải quyết. Những
quyết định mà bản thân người lãnh đạo quản lý cũng cảm thấy khó thực
hiện càng phải đặc biệt chú ý, tìm kiếm lực lượng và điều kiện khả thi
trước khi ra quyết định.
- Tính đến hiệu quả giáo dục của các quyết định. Mỗi quyết định của
người lãnh đạo – quản lý nhất thiết phải phản ánh được ý chí chung của cả tập
thể, phản ánh được nguyện vọng của của từng thành viên, những quyết định
như vậy sẽ được quần chúng tin tưởng, ủng hộ, tạo nên động lực mạnh mẽ
thúc đẩy các thành viên hang háy, tích cực khắc phục khó khăn trở ngại hồn
thành tốt mọi nhiệm vụ. Tính giáo dục của các quyết định được đặc biệt chú ý
khi nó liên quan đến vấn đề khen thưởng, kỷ luật, cất nhắc, đề bạt, v.v. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Đối với những người có thành tích, phải khen
thưởng, đối với những người mắc sai lầm thì phải phê bình, kiểm thảo giúp
họ sửa chữa. Khi cần thiết thì phải thi hành kỷ luật nghiêm minh, đúng mức”.
Thực hiện lời dạy của Bác “ai có cơng thì thưởng, ai có tội thì phạt” làm cho
11
đúng điều này khơng phải là đơn giản. Bởi vì đây là vấn đề nhạy cảm trong
quan hệ người – người. Do đó đây là một khía cạnh tâm lý đòi hỏi các nhà
lãnh đạo – quản lý cần đặc biệt quan tâm khi ra quyết định. Chỉ khi các quyết
định đưa ra có tính giáo dục cao mới thực sự có sức mạnh trong thực tiễn và
mang lại hiệu quả. Đồng thời chống quan điểm, tình trạng nóng vội, độc đoán,
gia trưởng, phiêu liêu mạo hiểm, liều lĩnh thiếu căn cứ khoa học khi đưa ra
quyết định.
- Ký ban hành quyết định với tâm lý tự tin, lạc quan và tinh thần trách
nhiệm cao. Nó thể hiện quyết định được chuẩn bị chu đáo, có chất lượng tốt
và có khả năng thực thi. Là bước kết thúc của ra quyết định nhưng mở đầu
cho trách nhiệm của người lãnh đạo quản lý tránh biểu hiện tuỳ tiện, thơ ơ,
thiếu tin tưởng, không kiểm tra, thiếu trách nhiệm.
- Khắc phục một số khó khăn tâm lý trong ra quyết định: do thiếu thơng
tin và gắn việc xử lý nó với lợi ích, giá trị của cá nhân hay nhóm người; khắc
phục tâm lý quyết định nào cũng phải “tối ưu” cái gì cũng muốn được; khắc
phục tâm lý tiểu nơng: đại khái, qua loa, ko dám chịu trách nhiệm cá nhân,
chủ nghĩa tình cảm…; háo danh, uy quyền mà đưa ra quyết định có tính chất
độc tài, trấn áp làm cho cấp dưới sợ hãi; sức ì của thói quen, sự chậm trễ trong
nắm bắt hoàn cảnh, tư tưởng mới…
2. Ý nghĩa của vấn đề trong lãnh đạo, quản lý bộ đội hiện nay
Quá trình ra quyết định, chủ thể lãnh đạo quản lý bộ đội hiện nay luôn
bị tác động ảnh hưởng của các yếu tố khách quan và chủ quan. Các yếu tố này
chi phối trực tiếp đến tính chất của các quyết định đó là: Nếu trong điều kiện,
tình huống cấp bách, hồn cảnh tác động có nhiều khó khăn phức tạp thì
người lãnh đạo, quản lý đơn vị phải có tính quyết đốn, ra quyết định khẩn
trương, kịp thời, phải cân nhắc kỹ lưỡng mọi tình huống có thể xẩy ra. Hồn
cảnh càng phức tạp khó khăn, quyết định càng phải thận trọng. Đặc biệt trong
các tình huống chiến đấu, một quyết định sai lầm có thể dẫn tới những hậu
12
quả nghiêm trọng, tổn hại đến sinh mạng của bộ đội, hoặc là một quyết định
điều động, bổ nhiệm cán bộ, xử lý kỷ luật cán bộ chiến sĩ đều ảnh hưởng rất
lớn, thậm chí ảnh hưởng đến sinh mạng chính trị của cán bộ, chiến sĩ, hỏng cả
cuộc đời phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của cán bộ chiến sĩ thuộc quyền.
Trong các năm qua đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong toàn
quân cơ bản có khả năng nhận thức tình huống sâu sắc, nhạy cảm, phần lớn
việc ra quyết định được kịp thời, chính xác, phù hợp với đối tượng cán bộ
chiến sĩ thuộc quyền. Việc ra các quyết định đều được cấp uỷ, ban chỉ huy
trao đổi, dân chủ bàn bạc thống nhất cao. Mọi cấp uỷ và người lãnh đạo, quản
lý đều quán triệt, nhận thức đúng nhiệm vụ, xác định những thuận lợi khó
khăn cũng như khả năng thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, dân chủ bàn bạc
cùng nhau ra quyết định . Do vậy, phần lớn ra các quyết định đều mang tính
tích cực, đúng đắn và có sức mạnh, tính quàn chúng và đúng với quan điểm,
đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và quân đội.
Cơ bản đội ngũ cán bộ, lãnh đạo các đơn vị trong tồn qn có bản lĩnh
chính vững vàng, có năng lực trình độ chun mơn giỏi, nhạy cảm quyết
đốn, linh hoạt sáng tạo, có trạng thái tâm lý cân bằng, tính cách ổn định và
đưa ra những quyết định thường đúng đắn và sáng suốt. Có được kết quả trên
là xuất phát từ các đặc điểm tâm lý cá nhân của người lãnh đạo, chỉ huy được
thể hiện ở những phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, những đặc điểm về
cảm xúc, tình cảm, ý chí, ở trình độ tri thức, kỹ xảo, kỹ năng, v.v. đặc biệt
được thể hiện thơng qua các thuộc tính tâm lý của nhân cách như: xu hướng,
tính cách khí chất, năng lực. Trong đó tính cách và khí chất là những yếu tố có
ảnh hưởng khơng nhỏ đến tính chất của các quyết định (bình tĩnh, thận trọng,
hay hấp tấp vội vàng) của cán bộ lãnh đạo, quản lý khi ra quyết định.
Năng lực ra quyết định trong lãnh đạo – quản lý là một trong những
yếu tố tâm lý chủ quan quy định trực tiếp chất lượng, hiệu quả của các quyết
định lãnh đạo, chỉ huy. Thơng qua đó nó chi phối tới hiệu quả hoạt động của
13
đơn vị. Trong những điều kiện khách quan như nhau nếu người lãnh đạo, chỉ
huy nào có năng lực ra quyết định giỏi sẽ đưa ra được những quyết định đúng
đắn, sáng tạo. Đánh giá về hiệu quả của ra quyết định thì năng lực ra quyết
định trong hoạt động lãnh đạo, quản lý bộ đội của người cán bộ lãnh đạo,
quản lý đều được hình thành, phát triển theo xu hướng ngày càng hồn thiện,
chặt chẽ hơn thơng qua hoạt động thực tiễn ở đơn vị. Thể hiện yếu tố tâm
lý này là từ bản chất của năng lực ra quyết định trong lãnh đạo- quản lý, là
tổ hợp những thuộc tính tâm lý cá nhân đáp ứng yêu cầu của hoạt động ra
quyết định lãnh đạo quản lý, bảo đảo cho cán bộ lãnh đạo, quản lý đưa ra
được những quyết định đúng đắn, kịp thời và có hiệu quả. Nó có quan hệ
và tác động qua lại với những phẩm chất và năng lực khác trong cấu trúc
nhân cách của họ thể hiện thông đức và tài. Năng lực ra quyết định được
coi là một trong những thành tố cốt lõi trong cấu trúc năng lực của người
cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Tuy nhiên, trong những năm qua việc ra quyết định ở một số cán bộ
lãnh đạo, quản lý các đơn vị trong tồn qn cịn bộc lộ những hạn chế bất
cập: người lãnh đạo, chỉ huy nhận thức tình huống cịn nơng cạn, hời hợt,
khơng đầy đủ, thiếu những cơ sở khoa học; việc ra quyết định thường mắc
phải những sai lầm, nhất là trong điều kiện chiến đấu khẩn chương phức
tạp; trong việc khen thưởng, kỷ luật; trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chiến
sỹ thuộc quyền.v.v. chưa khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể, chưa đúng
đường lối quan điểm, phương châm, của Đảng, của Nhà nước, của quân đội
về vấn đề ra quyết định. Có nhiều nguyên nhân, xong nguyên nhân trực
tiếp, chủ yếu là người lãnh đạo, chỉ huy chưa thường xuyên tu dưỡng,
không chịu rèn luyện nâng cao phẩm chất, năng lực, trình độ tư duy, khả
năng nhận thức tình huống hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày
càng cao của hoạt động quản lý - lãnh đạo bộ đội.
14
Thực trạng cho thấy, vẫn cịn có tập thể trong hoạt động lãnh đạo
thiếu sự nhất trí, nhận thức tư tưởng thiếu nhất qn, sự đồn kết nhất trí
trong hoạt động lãnh đạo chỉ huy còn hạn chế, dẫn đến việc ra các quyết
định khơng có sức mạnh, thiếu tính thuyết phục, tính quần chúng, tính tập
thể và tính khả thi không cao.
Thực tiễn đã xảy ra ở một số cán bộ lãnh đạo, quản lý do không nắm
hết được các khía cạnh tâm lý tác động đến việc ra quyết định, khơng thấy
được một số thuộc tính tâm lý chủ đạo của việc ra quyết định hoặc không thấy
được những phẩm chất ổn định trong nhân cách của cán bộ, chiến sĩ thuộc
quyền nên ra quyết định còn thiếu tự tin, bị động, khơng sát với đối tượng và
tình huống. Điều này thường xuất hiện ở những người cán bộ lãnh đạo, chỉ
huy thiếu bản lĩnh chính trị, chưa có kinh nghiệm, vốn sống và chưa từng trải,
khơng sâu sát với đơn vị. Hạn chế khả năng tư duy linh hoạt nhạy bén, khơng
chủ động để thích ứng nhanh với mọi hồn cảnh, tình huống. Chưa chủ động
phân tích nghiên cứu kỹ lưỡng các đòi hỏi, nhiệm vụ của cấp trên, các điều
kiện hoàn cảnh cụ thể của đơn vị và thực trạng diễn biến tâm lý của đơn vị.
Nội dung của các quyết định kiểu này không lường trước được những khó
khăn trở ngại và để lại hậu quả lớn, dẫn đến kết quả đơn vị hoàn thành nhiệm
vụ thấp, cá biệt có đơn vị khơng hồn thành nhiệm vụ.
Hiện nay cũng có những cán bộ lãnh đạo, chỉ huy ra quyết định thụ
động, hoặc bị kích động thiếu thận trọng: đó là quyết định mang tính đối phó,
thiếu chủ động. Do người cán bộ thiếu khả năng nhìn xa trơng rộng, thiếu
năng lực và kinh nghiệm điều hành cơng việc, nhưng lại có tư tưởng chạy đua
thành tích, tạo uy tín giả, mang tính hình thức, cịn thực chất đơn vị có nhiều
vấn đề mà người lãnh đạo, quản lý và cấp uỷ ở đó cần phải giải quyết như:
mâu thuẫn nội bộ, mất đoàn kết bằng mặt khơng bằng lịng trong ban chỉ huy,
việc cục bộ bề phái địa phương chủ nghĩa, việc gia trưởng, thiên vị bè cánh….
Để công việc xẩy ra rồi mới chạy theo giải quyết, từ thụ động này lại nảy sinh
15
ra các thụ động khác. Kết quả làm việc của người lãnh đạo, chỉ huy rất thấp,
thiếu tính sáng tạo, dẫn đến đơn vị khó hồn thành nhiệm vụ. Chính vì vậy,
nghiên cứu những vấn đề tâm lý trong ra quyết định lãnh đạo, quản lý sẽ cung
cấp những căn cứ khoa học giúp cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy đơn vị
có những quyết định đúng đắn, kịp thời.
Chất lượng các quyết định ban hành sẽ được nâng cao và có khả năng
thực thi nếu bảo đảm tốt các yếu tố tâm lý xã hội tác động đến những quyết
định đó. Ln xác định vấn đề ra quyết định là một khâu rất quan trọng của
quá trình lãnh đạo - quản lý bộ đội thuộc quyền. Nội dung được tổ chức thực
hiện quyết định đó có ý nghĩa quyết định sự thắng lợi và hiệu quả của quyết
định. Đây là khâu có ý nghĩa cốt lõi trong công tác lãnh đạo - quản lý của bất
kỳ người lãnh đạo, chỉ huy đơn vị. Ra quyết định vừa là một khoa học, vừa là
một nghệ thuật. Để ra được một quyết định đúng, người cán bộ trong lãnh đạo
- quản lý cần phải: nắm chắc đặc điểm, quy luật, cơ chế của hiện tượng tâm lý
xã hội đối tượng thực hiện quyết định thuộc phạm vi mình quản lý; nắm vững
các yếu tố ảnh hưởng đến tính chất của các quyết định cũng như các khía cạnh
tâm lý cần chú ý trong quá trình ra quyết định. Đồng thời, đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, chỉ huy phải không ngừng học tập nâng cao phẩm chất, năng lực của bản
thân. Trước hết cán bộ lãnh đạo, chỉ huy phải tiêu tiểu về phẩm chất chính trị.
Đó là phẩm chất và năng lực cần thiết giúp cho người lãnh đạo, chỉ huy làm
trịn vai trị là người chủ trì về chính trị của đơn vị. Đây là phẩm chất cơ bản
chủ đạo trong nhân cách người cán bộ, là cái cốt lõi, là hạt nhân định hướng
chính trị trong hoạt động của người cán bộ lãnh đạo. Đối vối chính uỷ, chính
trị viên phẩm chất chính trị khơng chỉ có ý nghĩa định hướng cho bản thân mà
còn trở thành phẩm chất, nưng lực hàng đầu của họ trong việc định hướng
chính trị – tư tưởng, tâm lý cho cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền, trong giải quyết
các mối quan hệ giữa đơn vị mình với xã hội, với nhân dân và với kẻ thù,
phẩm chất chính trị của chính uỷ trong thời kỳ mới có những yêu cầu cao hơn.
16
Mẫu mực về đạo đức, lối sống, có tính kỷ luật, là trung tâm đồn kết và có tín
nhiệm cao trong cấp uỷ, tổ chức đảng và đơn vị. Đồng thời chính uỷ, chính trị
viên phải có kiến thức, năng lực tồn diện, cần thiết, giỏi tiến hành CTĐ,
CTCT. Chính uỷ, chính trị viên phải là người có tính Đảng, tính ngun tắc
cao, có tác phong dân chủ, sâu sát thực tế, nói đi đơi với làm. Đặc biệt là năng
lực ra quyết định đáp ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ trên các cương vị công tác
khác nhau. Trong hoạt động lãnh đạo – quản lý người chính uỷ, chính trị viên
có rất nhiều quyết định và giao nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sỹ cấp dưới từ
công việc lớn đến công việc cụ thể đều phải khoa học và có nghệ thuật. Phải
ra quyết định và giao nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sỹ cấp dưới không nhiều
quá và cũng khơng ít q. Nếu quyết định nhiều q và giao nhiệm vụ nặng
quá sẽ bị rối loạn, gây ức chế cho cán bộ chiến sĩ cấp dưới và cán bộ chiến sỹ
khó có thể hồn thành nhiệm vụ, ngược lại nếu ra ít quyết định và nhiệm vụ
nhẹ nhàng quá sẽ không đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ. Do vậy, khi ra
quyết định và giao nhiệm vụ chính uỷ, chính trị viên phải tính đến hồn cảnh,
yếu tố tâm sinh lý và khả năng hoàn thành nhiệm vụ của cấp dưới. Xem xét
ngoài nhiệm vụ chung và riêng cần tính đến khả năng cán bộ, chiến sĩ có thể
vượt qua quyết định, nhiệm vụ được giao hay khơng, từ đó mà chính uỷ,
chính trị viên cần chú ý đến việc tạo khả năng, việc cổ vũ động viên giúp đỡ
cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền hoàn thành nhiệm vụ.
Nắm vững vấn đề này giúp cho người chính uỷ, chính trị viên trong
hoạt động lãnh đạo quản lý, chỉ huy bộ đội không bị mắc sai lầm khi đưa ra
quyết định, nó phát huy được sức mạnh tổng hợp, sở trường của các lực
lượng, làm cho quyết định đó trở thành hiện thực và có tính khả thi cao. Đồng
thời khắc phục được tình trạng độc đốn, gia trưởng, phiêu liêu mạo hiểm,
liều lĩnh thiếu căn cứ khoa học khi đưa ra quyết định, hoặc là dựa dẫm ỉ nại
vào người chỉ huy, thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo quản lý, không dám ra
quyết định, thiếu kiên quyết, tỷ mỉ, cận thận.
17
KẾT LUẬN
Ra quyết định là một khâu rất quan trọng trong quy trình lãnh đạo, quản
lý, đồng thời là hoạt động cốt lõi của người lãnh đạo, quản lý. Ra quyết định
vừa là một khoa học, vưa là một nghệ thuật. Chính vì vậy, nghiên cứu những
vấn đề tâm lý học trong ra quyết định có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và
thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo quản lý bộ đội hiện nay. Đó là những căn
cứ, cơ sở khoa học để người lãnh đạo, quản lý bộ đội có những quyết định
đúng đắn trong lãnh đạo, quản lý, chỉ huy đơn vị. Để ra được quyết định đúng
đắn, người lãnh đạo, quản lý bộ đội cần phải nắm vững các yếu tố ảnh hưởng
đến tính chất của các quyết định cũng như những khía cạnh tâm lý xã hội cần
chú ý trong ra quyết định, đồng thời phải không ngừng học tập nâng cao
phẩm chất, năng lực của bản thân, đặc biệt là năng lực ra quyết định đáp ứng
với đòi hỏi của nhiệm vụ trên các cương vị công tác khác nhau.
18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tổng cục Chính trị, Tâm lý học lãnh đạo - quản lý bộ đội, Nxb
QĐND, H 2002.
2. Nguyễn Bá Dương, Tâm lý học quản lý dành cho người lãnh đạo,
Nxb CTQG, H 2000.
3. Vũ Dũng, Tâm lý học quản lý, Nxb ĐHSP, H 2006.
4. Mai Hữu Khuê, Những khía cạnh tâm lý của quản lý, Nxb Lao động, H 1985.
5 V.G. Afanaxev, Thông tin xã hội và quản lý xã hội, Nxb KHXH, H 1979.
6. V.I. Mikheev, Những vấn đề xã hội – tâm lý trong quản lý, Nxb Lao
động, H 1979.
7. Nguyễn Ngọc Chỉnh – Phạm Ngọc Uyển, Tâm lý học quản lý, Nxb
Giáo dục, H 1998.