LỜI MỞ ĐẦU
Sự xuất hiện triết học Mác là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết
học. Đó là kết quả tất yếu của sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học và khoa học
của nhân loại, trong sự phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội, mà trực
tiếp là thực tiễn đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Đó
cũng là kết quả của sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan.
Triết học của C.Mác (1818 – 1883) và Ph.Ăngghen (1820 – 1895) là sự kế
thừa những thành tựu vĩ đại của tư tưởng triết học từ thời cổ đại cho đến cuối thế
kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX.
Triết học Mác ra đời trong những điều kiện lịch sử giữa thế kỷ XIX. Nó là
kết quả của sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học và sự phát triển của khoa học
nói chung, trong sự phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ
XIX và cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đang diễn
ra mạnh mẽ ở thời kỳ dó.
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, của triết học Mác nói riêng là một
q trình, q trình này có thể được chia thành ba giai đoạn cơ bản sau:
* Giai đoạn 1: từ 1841 đến 1844: là giai đoạn hình thành dần dần các quan
điểm triết học, sự chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện
chứng và từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội khoa học.
* Giai đoạn 2: từ 1844 đến 1848: Khởi thảo những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quá trình này hoàn
thành vào năm 1848 với sự xuất hiện tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản”.
* Giai đoạn 3: từ 1848 đến 1895: Mác và Ăngghen bổ sung phát triển và
hoàn thiện hệ thống, quan điểm triết học mác-xít. Giai đoạn này được chia thành
ba thời kỳ:
- Thời kỳ thứ nhất, Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển triết học thông
qua tổng kết kinh nghiệm cách mạng tư sản (tháng 2/1848).
- Thời kỳ thứ hai, Mác và Ăngghen nghiên cứu các vấn đề kinh tế, viết bộ
Tư bản từ những năm 40 và xuất bản năm 1867.
- Thời kỳ thứ ba, Mác và Ăngghen bổ sung, phát triển và hoàn thiện triết
học và chủ nghĩa Mác, làm cho chủ nghĩa Mác trở thành hệ tư tưởng thống trị
trong phong trào công nhân.
1
PHẦN NỘI DUNG
1. Điều kiện hoàn cảnh ra đời
Cụ thể vào giữa những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa đã thống trị ở Anh, Pháp và trong một chừng mực quan trọng, cả
ở Đức. Vào thời kỳ ấy, nước Anh đã trở thành cường quốc tư bản chủ nghĩa lớn
nhất. Sự phát triển của sản xuất cơng nghiệp chứng minh rõ rằng tính ưu việt về
kinh tế của chủ nghĩa tư sản so với chủ nghĩa phong kiến. Vào giữa thế kỷ XIX,
ở Pháp cũng đã hồn thành cuộc cách mạng cơng nghiệp, ở Đức, cơng nghiệp
tuy cịn phụ thuộc vào Anh và Pháp, song phát triển cũng khá nhanh, ở nhiều
nước Tây Âu, quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản diễn ra khá mạnh trong
mức độ có khác nhau. Khi giai cấp tư sản chưa trở thành giai cấp thống trị về
chính trị và cịn là một lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa phong kiến thì sự
đối lập giữa lợi ích của nó với lợi ích giai cấp của giai cấp vô sản chưa bộc lộ
một cách gay gắt. Nhưng sau khi đã xác lập được sự thống trị của mình rồi, nó
khơng cịn là giai cấp cách mạng nữa và nó dần dần trở thành lực lượng bảo thủ.
Những mâu thuẫn giai cấp vốn có của xã hội tư bản ngày càng gay gắt mà trước
hết, là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Mâu thuẫn này là sự
biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa: mâu thuẫn giữa một bên là tính chất xã hội hóa và trình độ phát triển
ngày càng cao của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa với một bên là quan hệ
sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Ở thời kỳ này, phong trào vô sản đã phát triển mạnh mẽ và giai cấp vô sản
ngày càng chứng tỏ là một lực lượng xã hội to lớn, đóng một vai trị quan trọng
trong đời sống chính trị - xã hội. Ở Anh, phong trào Hiến chương của cơng nhân
trở thành một phong trào chính trị có tính chất qủần chúng rộng lớn. Ở Pháp,
cuộc đấu tranh của công nhân chống bọn tư bản đã phát triển thành một loạt
cuộc khởi nghĩa vũ trang. Cuộc khỏi nghĩa của công nhân Liông nổ ra năm 1831
đã bác hiệu một giai đoạn mới của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội tư bản.
Nước Đức ở vào đêm trước của cuộc cách mạng tư sản nhưng giai cấp vô sản
Đức đã tiến công mạnh mẽ vào giai cấp tư sản mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa
của thợ dệt Xilêdi năm 1844.
Vào giữa những năm 40 của thế kỷ XIX, trung tâm của phong trào cách
mạng chuyển sang nước Đức, trong khi nước này đang phải hoàn thành cuộc
cách mạng tư sản. Cuộc cách mạng tư sản Đức diễn ra trong những điều kiện
lịch sử phát triển hơn so với nước Anh trong thế kỷ XVII và nước Pháp trong thế
2
kỷ XVIII. Giai cấp tư sản Đức khiếp sợ cách mạng và ngày càng biến thành lực
lượng phản cách mạng. Nó lo sợ trước sự phát triển của giai cấp vô sản Đức và
sự thức tỉnh ý thức cách mạng của giai cấp này. Nó thỏa hiệp với giai cấp phong
kiến nhằm chống lại phong trào cách mạng của quần chúng lao động. Giai cấp
vô sản Đức phát triển cuộc đấu tranh của mình, một mặt, chống lại chế độ phong
kiến và, mặt khác, chống lại ngay chính giai cấp tư sản. Nhưng chính họ lại chưa
giác ngộ về địa vị của họ trong tiến trình lịch sử, chưa thấy con đường và thủ
đoạn thực hiện việc giải phóng bản thân họ và tồn xã hội. Phong trào vơ sản ở
Tây Âu lúc đó cịn mang tính chất tự phát và thiếu tổ chức, chưa có lý luận khoa
học dẫn đường. Các học thuyết xã hội chủ nghĩa không tưởng - phê phán của
Xanh Ximơng, Phuriê, Ơoen khơng đáp ứng được yêu cầu của phong trào vô
sản, không thể hiện được những lợi ích căn bản rủa giai cấp vơ sản trong sự
nghiệp giải phóng lao động khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính C.Mác và
Ph.Ăngghen đã thực hiện sứ mệnh vẻ vang đó: sáng tạo lý luận cách mạng của
phong trào vô sản, luận giải đúng đắn thế giới quan và hệ tư tưởng của giai cấp
vô sản, đáp ứng nhu cầu lịch sử quan trọng nhất của phong trào vơ sản. Giai cấp
vơ sản đã tìm thấy ởtriết học Mác vũ khí tinh thần của mình, cũng giống như
triết học Mác đã tìm thấy giai cấp vơ sản như là vũ khí vật chất của mình.
Sự xuất hiện chủ nghĩa Mác phản ánh các quá trình kinh tế - xã hội xảy ra
không những ở Đức mà ở cả các nước khác ở châu Âu, đặc biệt là ở Anh và
Pháp, phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vơ sản ở các nước đó.
Nhưng rõ ràng là muốn khái quát được tiến trình lịch sử và xác minh một cách
khoa học con đường phát triển tiếp theo của xã hội, cần phải tiến hành một công
tác nghiên cứu khoa học lớn lao, phải dựa vào tất cả những thành tựu của tư
tưởng khoa học trước đó.
Đối với triết học cổ điển Đức sử nổi bật là ở chỗ, nó là một trong những
tiền đề lý luận cho việc hình thành thế giới quan duy vật biện chứng, ở đây phải
kể đến là phép biện chứng Hêghen và chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc. Công lao lịch
sử của Hêghen đã xây dựng một cách có hệ thống phương pháp biện chứng, mặc
dù nó núp dưới cái vỏ thần bí và dựa trên cơ sở duy tâm sai lầm. Những nhà
sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng đánh giá cao phương pháp biện chứng
của Hêghen, đồng thời chỉ rõ những hạn chế của Hêghen. Mác chỉ rõ: "Tính chất
thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải trong tay Hêghen tuyệt nhiên không
ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý
thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng ấy. Ở Hêghen, phép
biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được
cái hạt nhân hợp lý của nó đằng sau lởp vỏ thần bí". Mác và Ăngghen đã thực
hiện một cách tài tình nhiệm vụ đó. Các ơng đã cải tạo phép biện chứng duy tâm
của Heghen thành phép biện chứng duy vật triệt để nhất, phát triển nó trên cơ sở
3
đối lập với phương pháp Hêghen, mở rộng nó vàc tất cả các lĩnh vực của tự
nhiên, xã hội và tư duy.
L. Phoiơbắc là đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức. Công lao lịch
sử của ông là ở chỗ ông kiên quyết chống lại chủ nghĩa duy tâm của Hêghen và
các nhà triết học khác, chống lại tôn giáo, khôi phục và tiếp tục phát triển chủ
nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII. Trong khi bác bỏ chủ nghĩa duy tâm của
Hêghen, ông cũng đá vứt bỏ luôn cả phép biện chứng của Hêghen mà giữ lấy
cho mình phương: pháp siêu hình cùng với quan niệm duy tâm về đời sống xã
hội. Mác và Ăngghen đánh giá cao công lao của Phoiơbắc, đồng thời chỉ ra
những hạn chế của ông và khả năng khắc phục những hạn chế đó. Mác và
Ăngghen thừa nhận rằng, chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc cùng coi phép biện chứng
của Hêghen đã trở thành một trong những tiền đề lý luận cho sự ra đời của triết
học Mác. Cần nhấn mạnh rằng, đó chỉ là vấn đề trực tiếp, cịn dĩ nhiên, triết học
Mác là sự kế thừa toàn bộ những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng triết học của
nhân loại.
Việc cải tạo có phê phán những gì có giá trị trong kinh tế - chính Trị học
cổ điển Anh (đại biểu là Ađam Smit, Đavít Ricácđơ...) có một vai trị to lớn
trong việc sáng tạo ra học thuyết kinh tế mácxít và triết học Mác. Khơng có sự
cải tạo ấy, khơng có học thuyết kinh tế mácxít ấy thì khơng thể phát hiện ra cơ
sở vật chất của quá trình lịch sử - xã hội, không thể sáng lập ra quan điểm duy
vật về lịch sử và không thể khắc phục được tính chất khơng triệt để của chủ
nghĩa duy vật trước Mác.
Với thiên tài của mình, Mác và Ăngghen đã kế thừa được những thành
tựu lớn lao nhất của tư tưởng loài người: triết học cổ điển Đức, chủ nghĩa xã hội
khơng tưởng Pháp và kinh tế - chính trị học cổ điển Anh.
Sự phát triển của những quan hệ tư bản chủ nghĩa ở các nước lớn Tây Âu
làm lộ rõ thêm những mâu thuẫn bên trong vốn có của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa và đã tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa
Mác nói chung, triết học Mác nói riêng. Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra điều kiện
thực tiễn tuyệt đối cần thiết cho sự thốt khỏi lý tưởng khơng tưởng xã hội chủ
nghĩa cho chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng, bởi lẽ, chính sự
phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra cơ cở vật chất – kỹ thuật cho
việc thực hiện những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản.
Thứ hai, chính sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã đặt ra nhiều vấn đề
thực tiễn, lý luận, chính trị, xã hội... địi hỏi các nhà lý luận phải giải trả lời,
4
nghĩa là nó kích thích cho các trào lưu tư tưởng triết học ra đời trong đó có triết
học Mác.
Thứ ba, chính sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa làm cho giai cấp
công nhân phát triển cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân ngày càng phát triển chuyển từ tự phát lên tự giác. Từ đấu
tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị, điển hình như cuộc khởi nghĩa của công
nhân dệt ở Liông (Pháp – 1831), khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi (Đức – 1844),
Phong trào Hiến chương ở Anh (Từ năm 1836 đến năm 1847). Cuộc đấu tranh
của giai cấp cơng nhân địi hỏi phải có một lý luận khoa học, cách mạng dẫn
đường, trong khi đó có rất nhiều các trào lưu tư tưởng phản khoa học tìm cách
len lỏi vào phong trào cơng nhân. Điều này đã thúc đẩy cho sự ra đời của triết
học Mác. Có thể nói, sự xuất hiện của giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử
cùng với cuộc đấu tranh mạnh mẽ của họ là điều kiện chính trị - xã hội quan
trọng nhất thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói
riêng.
2. Tiền đề về khoa học tự nhiên
Bước sang đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên có bước phát triển vượt
bậc, đã chuyển từ trình độ thực nghiệm lên trình độ lý luận, đặc biệt xuất hiện
nhiều phát minh khoa học vạch thời đại, có ảnh hưởng to lớn đến sự ra đời của
triết học Mác:
Định luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng của Mikhail Vasilyevich
Lomonosov (8/11/1711 – 4/4/1765) và Antoine Lavoisier (26/8/1743 –
8/5/1794).
Thuyết tế bào của Theodor Schwann (sinh ngày 7/12/1810, Neuss, Đức;
mất ngày 11/1/1882, Köln, Đức) và Matthias Schleiden (1804-1881). Chứng
minh sự thống nhất về mặt kết cấu sinh học của thế giới hữu sinh.
Học thuyết tiến hóa của Charles Darwin (12/2/1809 – 19/4/1882) là học
thuyết cho rằng sự sống của sinh vật chịu tác động dưới một áp lực gay gắt gọi
là chọn lọc tự nhiên. Chứng tỏ có sự phát triển từ thế giới vơ cơ. Giữa các lồi
sinh vật với giới tự nhiên có mối quan hệ chặt chẽ. Đó là kết quả của sự tiến hóa
tự nhiên. Bác bỏ quan điểm tơn giáo, thần học về lồi người, nguồn gốc lồi
người.
Ý nghĩa của các định luật và học thuyết đối với sự hình thành và phát triển triết
học Mác: Khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại
khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của
thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
5
3. Tiền đề lý luận
Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh với những lý luận kinh tế quan
trọng của A.X-mít (1723-1790) và Đ.Ri-các-đơ (1772 – 1823). Hai ông đã có
những đóng góp quan trọng cho lý luận về kinh tế. Đặc biệt, đã chỉ ra nguồn gốc
của giá trị. Tuy nhiên, hai ông chưa chỉ ra được nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Mác – Ăngghen trên cơ sở kế thừa những giá trị trong học thuyết của hai ông đã
chỉ ra được nguồn gốc của giá trị thăng dư – một cơ sở khoa học để phân tích,
giải thích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như xã hội tư bản chủ
nghĩa, làm cơ sở khoa học cho quan niệm duy vật về lịch sử của Mác.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như
Xanh Ximông (1760 - 1825) và Sáclơ Phuriê (1772 –1837). Hai ơng đã có nhiều
đóng góp cho lý luận về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt hai ông đã chứng minh được
hai điểm quan trọng:
- Một là, cần phải đập tan nhà nước tư sản;
- Hai là, có thể đập tan được nhà nước tư sản.
Tuy nhiên, hai ơng cũng cịn nhiều hạn chế, nhưng hạn chế cơ bản nhất là
tính khơng tưởng trong lý luận của các ông.
Mác – Ăngghen trên cơ sở tiếp thu những giá trị tích cực, khắc phục tính
khơng tưởng, tổng kết phong trào công nhân, tổng kết thực tiễn lịch sử, đã chỉ ra
rằng muốn xóa bỏ nhà nước tư sản phải bằng con đường cách mạng vô sản và
thay thế nó bằng nhà nước vơ sản kiểu mới.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hê-ghen
(1770-1831) và Phoiơbắc (1804-1872), là nguồn gốc lý luận trực tiếp.
Với triết học Hêghen thì giá trị hạt nhân hợp lý là phép biện chứng, nhưng
hạn chế lớn nhất ở Hêghen là thế giới quan duy tâm khách quan.
Với Phoiơbắc, giá trị lớn nhất trong tư tưởng của ông là thế giới quan duy
vật nhân bản. Nhưng hạn chế lớn nhất của ơng là tính chưa triệt để, máy móc,
siêu hình.
Mác – Ăngghen kế thừa phép biện chứng của Hêghen, cải tạo nó, khắc
phục tính chất duy tâm, thần bí và đặt nó trên nền tảng thế giới quan duy vật.
Đồng thời Mác – Ăngghen kế thừa thế giới quan duy vật của Phoiơbắc, khắc
phục tính chất siêu hình, máy móc, tính khơng triệt để của nó và làm giàu chủ
nghĩa duy vật này bằng phép biện chứng. Trên cơ sở đó, Mác – Ănghen sáng tạo
ra chủ nghĩa duy vật biện chứng.
4. Nhân tố chủ quan
6
Ngoài những điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề khoa học tự nhiên và lý
luận, thì sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng khơng
thể thiếu nhân tố chủ quan của bản thân Mác và Ăngghen. Đó là sự thơng minh
hơn người của các ông. Đã vậy, hai ông lại cần cù, chịu khó, nghiêm túc trong
nghiên cứu khoa học. Nhờ những tố chất ấy hai ơng đã kế thừa được tồn bộ
tinh hoa trong lịch sử tư tưởng nhân loại, tổng kết được những thành tựu của
khoa học đương đại, tổng kết phong trào công nhân để cho ra đời một chủ nghĩa
Mác – ngọn cờ lý luận của giai cấp cơng nhân - hồn bị trong cả lĩnh vực tự
nhiên và lĩnh vực xã hội.
Cùng với sự thông minh, tinh thần làm việc khơng mệt mỏi là tình u
thương con người hết mình của hai ơng và quyết tâm hy sinh vì con người, là
những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết
học Mác nói riêng.
Tóm lại: Triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một
tất yếu lịch sử khơng những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng
của giai cấp công nhân địi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà cịn vì những
tiền đề cho sự ra đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.
5. Những nội dung trong bảo vệ triết học Mác – Lênin hiện nay.
* Khái quát những vấn đề chung.
Trong những năm qua, các thế lực thù địch vin vào sự sụp đổ chế độ
XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, vào sự phát triển nhanh chóng của khoa học,
cơng nghệ, của sản xuất hiện nay... để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy
nhiên, từ thực tiễn đấu tranh tư tưởng - lý luận của V.I.Lênin để bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa Mác và thực tiễn công cuộc đổi mới của Việt Nam, có thể khẳng
định rằng, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn có giá trị bền
vững; chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là học thuyết khoa học, cách mạng và nhân
văn duy nhất đáp ứng được nhiệm vụ lịch sử mà không một học thuyết nào có
thể thay thế được.
Ngày nay, qua thực tiễn ta có thể kết luận rằng chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn
là học thuyết khoa học và cách mạng duy nhất đáp ứng được nhiệm vụ lịch sử
mà không một học thuyết nào có thể thay thế được. Sức sống của chủ nghĩa Mác
- Lênin được thể hiện ở chỗ, nó soi sáng các nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của
nhân loại, nhiệm vụ giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột,
bất cơng, tha hóa. Thời đại ngày nay có nhiều nội dung, đặc điểm rất mới so với
thời C.Mác và V.I.Lênin sống và hoạt động. Song các giá trị bền vững trong tư
tưởng, quan điểm và phương pháp của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã và
7
đang là lý luận và phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới,
còn những hạn chế lịch sử trong một số luận điểm cụ thể nào đó của các ơng thì
lại đặt ra u cầu phải bổ sung, phát triển cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới.
Chính bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi phải
như vậy. Giá trị, sức sống của học thuyết Mác - Lênin khơng phải ở chỗ mọi câu
nói của các ơng là những chân lý vĩnh cửu, những người cách mạng cứ thế mà
áp dụng không cần xem xét điều kiện, hồn cảnh cụ thể. Chính C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nhiều lần tuyên bố: Học thuyết của chúng tôi không phải là giáo
điều mà là kim chỉ nam cho hành động.
* Thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam
Đối với đất nước ta từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến
nay, chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu,
vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam và
thời đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng
tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho con đường cách mạng của nước ta.
Từ sự thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giải phóng
đất nước, thống nhất Tổ quốc, và những thành tựu trong công cuộc đổi mới, xây
dựng CNXH hơn 30 năm qua đã khẳng định sức sống, ý nghĩa thời đại của chủ
nghĩa Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam.
Trong công cuộc và sự nghiệp đổi mới, Nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử cả về nhận thức lý luận và thực tiễn. Nhận thức về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn, ngày
càng được bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội Đảng. Trên cơ sở lý luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn biến đổi của tình hình thế giới, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã có cách tiếp cận tình hình quốc tế và thời đại ngày càng phù
hợp hơn và sâu sắc hơn; nhận thức đầy đủ hơn tính chất lâu dài, quanh co phức
tạp của thời đại quá độ lên CNXH và đánh giá đúng hơn những mâu thuẫn cũng
như tiềm năng phát triển của CNTB hiện đại, thấy rõ hơn các xu hướng biến đổi
của tình hình thế giới và khu vực, từ đó đề ra đường lối, chủ trương, chính sách
phù hợp.
Những thành tựu về lý luận và thực tiễn của Việt Nam qua hơn 30 năm
đổi mới đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, hợp lòng dân,
con đường đi lên CNXH là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển
của thời đại, phù hợp với các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy Đại hội XII của Đảng yêu cầu toàn Đảng và mỗi cán
bộ, đảng viên phải “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
8
vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam” trong tình hình
mới.
Từ thực tiến sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, tình
hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, nhất là đối với nước
ta trong những năm gần đây.
Song hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, những cuộc đấu
tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột
dân tộc, tôn giáo, khủng bố, chủ nghĩa ly khai, chiến tranh mạng, xâm phạm chủ
quyền quốc gia tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực trên thế giới.
Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh, từ đó thúc đẩy
các nước tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Tuy nhiên, xu thế toàn cầu hóa đang vấp phải nhiều rào cản do tác động của
những nhân tố phản tồn cầu hóa như sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ thương
mại, sự nổi lên của chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xô vanh nhất
là của một số nước lớn.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0) phát triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều
đột phá trong các lĩnh vực, tác động sâu sắc và nhiều chiều đến kinh tế, chính trị,
xã hội của trong nước và thế giới.
Cục diện thế giới từ chỗ tồn tại hai phe, hai siêu cường là Mỹ và Liên Xô,
giờ đây lại theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh chóng. Hợp tác,
cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là xung đột
về lợi ích giữa các nước lớn ngày càng tăng.
Cùng với những diễn biến trên, thì những vấn đề mang tính chất tồn cầu,
như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn
nước, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh... có nhiều diễn biến phức tạp. Đòi
hỏi cộng đồng quốc tế phải tăng cường đối phó với những thách thức an ninh
truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến
tranh kiểu mới...
Có thể nói, tình hình thế giới hai thập niên đầu thế kỷ XXI với sự xuất
hiện của những xu thế và đặc điểm nổi bật trên đây rất khác so với thời kỳ
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin sống và hoạt động. Tình hình đó tác động đến
các Đảng Cộng sản, các cán bộ, đảng viên của các đảng, trong đó có Đảng Cộng
sản Việt Nam, nó đã đặt ra nhiều vấn đề mới trong việc nhận thức, nghiên cứu
để vận dụng, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin.
9
Ở những vấn đề trên, theo tôi, ta phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ
biện chứng giữa kiên định và sáng tạo, giữa bảo vệ và phát triển. Kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin khơng có nghĩa là cứng nhắc trong việc nắm giữ những câu
chữ và nội dung không phù hợp với thời đại ngày nay của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin mà ta phải nắm vững những nội dung mang bản chất khoa học và cách
mạng của nó, phải vận dụng và phát triển sáng tạo nó một cách kinh hoạt. Kiên
định và sáng tạo đối với chủ nghĩa Mác - Lênin là hai mặt của một vấn đề thống
nhất với nhau, kiên định phải trên cơ sở sáng tạo, còn sáng tạo phải trên cơ sở
kiên định. Cũng với tinh thần đó, có thể coi bảo vệ và phát triển là hai mặt của
một vấn đề. Cách tốt nhất để bảo vệ một học thuyết khoa học và cách mạng là
phải phát triển sáng tạo nó cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Bảo vệ bằng
cách phát triển và thông qua sự phát triển là cách tốt nhất để bảo vệ một học
thuyết khoa học. Ngày nay, sự biến đổi của tình hình thế giới cũng đặt ra nhiều
thách thức cho việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin mà những người
cán bộ, đảng viên phải nỗ lực vượt qua bằng bản lĩnh chính trị, bằng năng lực tư
duy lý luận sáng tạo, bằng việc tăng cường tổng kết thực tiễn đất nước, nghiên
cứu lý luận, khắc phục cả bệnh giáo điều, bảo thủ cũng như chủ nghĩa cơ hội,
xét lại lẫn phương pháp tư duy siêu hình, cực đoan.
Như trên đã nói, sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, sự tiếp
tục tồn tại và phát triển, nhất là về kinh tế của CNTB, sự xuyên tạc tấn công của
các thế lực thù địch trong và ngoài nước, cơ hội chính trị vào ý thức hệ XHCN
đã làm cho một số cán bộ, đảng viên thiếu bản lĩnh chính trị vững vàng, giảm sút
niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH. Có quan điểm vin vào sự sụp đổ
của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chúng ta thấy rằng, sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xơ là sự sụp đổ của một
mơ hình CNXH - mơ hình CNXH tập trung quan liêu, bao cấp chứ khơng phải là
sự sụp đổ của CNXH nói chung, đó là mơ hình cũ của CNXH. Sự sụp đổ của nó
có nguyên nhân khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài, nguyên nhân
sâu xa và nguyên nhân trực tiếp. Chính những thiếu sót và sai lầm của mơ hình
CNXH đó khơng được phát hiện và khắc phục kịp thời, tồn tại kéo dài, tích tụ
lại, đã đẩy xã hội Xô viết đến nguy cơ sụp đổ. Kết hợp sự sai lầm về đường lối
cải tổ của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô - cả đường lối kinh tế, chính trị,
tư tưởng, tổ chức, đối ngoại, cùng với sự phản bội lý tưởng XHCN của những
người lãnh đạo cao nhất trong Đảng và Nhà nước và với sự chống phá, âm mưu
và hoạt động “diễn biến hịa bình” của chủ nghĩa đế quốc.
Vì vậy chúng ta không thể quy sự sụp đổ của Liên Xô vào chủ nghĩa Mác
- Lênin. Chính từ việc nhận thức sai, vận dụng sai, và sự phản bội lại chủ nghĩa
10
Mác - Lênin của lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô là một nguyên nhân trực tiếp
quan trọng.
Ngày nay kinh nghiệm cải cách, mở cửa của Trung Quốc, và sự đổi mới,
chuyển mình của Việt Nam là minh chứng cho điều đó. Cơng cuộc cải tổ là tất
yếu, nhưng sự thất bại của cải tổ không phải là tất yếu, nếu Đảng Cộng sản có
đường lối cải tổ đúng đắn, trung thành và sáng tạo trong vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin, trung thành với lý tưởng XHCN, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
cảnh giác với âm mưu và hoạt động chống phá CNXH của các thế lực thù địch,
tổ chức xây dựng Đảng và Nhà nước vững mạnh, chống được nạn quan liêu,
tham nhũng trong bộ máy vận hành, và huy động được sức mạnh của toàn dân
để bảo vệ chế độ XHCN.
Bài học về sự sụp đổ của Liên Xô tuy đã trôi qua gần 30 năm, song vẫn là
lời cảnh báo thường xuyên, và rất đắt giá đối với các Đảng Cộng sản đang cầm
quyền ở các nước XHCN để phòng, tránh đi vào “vết xe đổ” của một mơ hình
khơng phù hợp Liên Xơ.
Hiện nay có quan điểm dựa vào yếu tố thời đại để phủ nhận chủ nghĩa
Mác - Lênin. Quan điểm đó cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với
thế kỷ XIX hoặc cùng lắm là đầu thế kỷ XX – với thời đại văn minh cơ khí, cịn
bây giờ là thế kỷ XXI - thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ, cách
mạng công nghiệp 4.0, văn minh tin học, kinh tế tri thức, kinh tế số, tồn cầu
hóa và hội nhập quốc tế nên khơng cịn thích hợp nữa, nó đã bị lỗi thời.
Cũng có quan điểm dựa vào yếu tố địa lý, vào trình độ phát triển của quốc
gia để phủ nhận tính phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin. Quan điểm đó cho
rằng, chủ nghĩa Mác được xây dựng trên cơ sở thực tiễn các nước tư bản phát
triển nên không phù hợp với các nước lạc hậu, kém phát triển như Việt Nam, đó
khơng phải là sản phẩm của Việt Nam mà du nhập từ phương Tây nên không
phù hợp với điều kiện Việt Nam. Quan điểm đó đã khơng thấy sức mạnh của sự
trừu tượng hóa, khái quát hóa lý luận của chủ nghĩa Mác, những quy luật của
chủ nghĩa Mác vạch ra không chỉ đúng với các nước phát triển mà đúng cả với
các nước kém phát triển. Về mặt phương pháp luận, C.Mác đã từng chỉ ra rằng
trong cái phát triển cao chứa đựng cái phát triển ở trình độ thấp hơn dưới dạng
lọc bỏ.
Các ý kiến trên đây không thấy rằng đứng trên quan điểm khách quan mà
xem xét có một số luận điểm cụ thể của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin khơng
cịn phù hợp với điều kiện lịch sử mới hiện nay, đã bị thực tiễn lịch sử vượt qua
hoặc bị nhận thức sai mà bây giờ phải nhận thức lại cho đúng, song những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong bản chất khoa học và cách
11
mạng của nó, vẫn giữ nguyên giá trị cần phải bảo vệ. Chẳng hạn các quy luật
của phép biện chứng duy vật, của lý luận nhận thức mácxít, của học thuyết về
hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết giá trị thặng dư, học thuyết về sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân, những tư tưởng khoa học về nhà nước, cách mạng xã
hội, về CNXH...
Hiện nay hoàn cảnh lịch sử - cụ thể luôn luôn thay đổi, song những quy
luật phát triển cơ bản, phổ biến của lịch sử loài người mà chủ nghĩa Mác - Lênin
nêu lên là khơng thay đổi, có giá trị bền vững lâu dài...
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều đổi mới
về tư duy lý luận, đã nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lênin theo tinh thần khẳng
định sức sống, giá trị bền vững của những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, đồng thời loại bỏ những nhận thức không đúng, ấu trĩ, giáo điều, duy ý
chí về chủ nghĩa Mác - Lênin, về CNXH, phân biệt những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin với những luận điểm cụ thể của các nhà kinh điển gắn
liền với những hoàn cảnh cụ thể lúc đó mà sau này đã bị lịch sử vượt qua. Đảng
ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp với
điều kiện lịch sử mới của Việt Nam và thời đại ngày nay trên một loạt vấn đề
như mục tiêu, đặc trưng và phương hướng cơ bản của công cuộc xây dựng
CNXH, vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, vấn đề xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân..., đó là
những vấn đề khơng có sẵn trong di sản kinh điển mácxít. Khơng có sự vận
dụng, phát triển sáng tạo đó thì khơng có những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử quan trọng mà nhân dân Việt Nam đạt được qua hơn 30 năm đổi mới.
Thực tế cho chúng ta thấy là trong khi có những người xuyên tạc, phủ
nhận chủ nghĩa Mác thì cũng tại các nước tư bản phát triển, nhiều học giả tư sản
như Giắc cơ Đêriđa, Tery Igơletơn, Diđiê Êribông... vẫn thừa nhận chủ nghĩa
Mác, đề cao C.Mác, kêu gọi nhân loại hãy “trở về với Mác”, “nhân loại không
thể thiếu Mác”, “khơng có tương lai nếu khơng có Mác, nếu khơng có các di sản
của Mác”.
Và thực sự trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế - tài chính những năm 2008
- 2009 ở các nước tư bản phát triển, bộ “Tư bản” của C.Mác đã được in và tái
bản với số lượng tăng vọt, trở thành sách bán chạy ở các nước tư bản phát triển
cao như Anh, Đức, Pháp, Italia, Nhật Bản... Sở dĩ có hiện tượng đó vì người ta
muốn tìm câu trả lời từ trong tác phẩm vĩ đại của C.Mác về những vấn đề của xã
hội tư bản hiện đại. Nhà sử học người Anh Êrích Hơxbon nhận xét rằng “việc
quay trở lại đọc Mác có nghĩa là thế giới cần phải nghiên cứu học thuyết của ông
12
về CNTB và về vị trí của học thuyết đó trong sự phát triển của xã hội loài
người”.
Tất cả những ý kiến phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin đã không nhận thức
đúng bản chất, nội dung của chủ nghĩa Mác - Lênin, có ý kiến đem quy chủ
nghĩa Mác - Lênin về đấu tranh giai cấp, chun chính vơ sản, bạo lực trấn áp;
hoặc đem đối lập chủ nghĩa Mác - Lênin với lợi ích của dân tộc, hoặc đối lập với
tư tưởng Hồ Chí Minh... để phủ nhận, bác bỏ vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin
đối với cách mạng Việt Nam.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi chủ nghĩa Mác - Lênin là “Chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất”. Người coi chủ nghĩa
Mác - Lênin là “cái cẩm nang thần kỳ”, “mặt trời chói lọi” soi sáng con đường
cách mạng Việt Nam. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam ln yêu cầu “phải nắm
vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh”.
* Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng Quân đội hiện nay.
Đối với Quân đội ta do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh trực tiếp sáng lập, tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, rèn luyện; là lực lượng
vũ trang cách mạng mang bản chất giai cấp cơng nhân, tính nhân dân và tính dân
tộc sâu sắc. Trải qua hơn 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đảng ta
luôn kiên định nguyên tắc: lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân
đội nhân dân. Đó là một nguyên tắc xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị,
là nguyên lý cơ bản nhất trong học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của giai cấp công nhân.
Vì vậy học tập nghiên cứu, và bảo vệ triết học Mác thực chất là bảo vệ
nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, và thực tiễn trong xây dựng QĐND
Việt Nam về chính trị thực chất là xây dựng và giữ vững bản chất giai cấp công
nhân, tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc, đảm bảo cho Qn đội ln là lực
lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và
nhân dân; là đội quân cách mạng của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà
chiến đấu.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Quân ủy
Trung ương, Bộ Quốc phịng, qn đội ta khơng ngừng trưởng thành, lớn mạnh,
thực sự là đội quân cách mạng, của dân, do nhân dân và vì nhân dân; xứng đáng
với danh hiệu “Bộ đội Cụ Hồ” mà nhân dân đã trao tặng và lời khen ngợi của Bác
Hồ: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc
lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó
13
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Gắn liền với sự nghiệp cách
mạng của Đảng, quân đội ta đã vượt qua muôn vàn thử thách, hy sinh, cùng nhân
dân cả nước lập nên những chiến công chói lọi: Tiến hành Cách mạng Tháng Tám 1945 thành cơng, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hịa, Nhà nước dân chủ đầu
tiên ở Đông Nam Á; đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất
đất nước, hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tiếp đó, thực hiện nhiệm vụ
quốc tế cao cả, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng; đánh thắng
chiến tranh xâm lược biên giới ở hai đầu đất nước và tích cực tham gia sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, v.v...
Bước vào thời kỳ đổi mới, để xây dựng quân đội ta vững mạnh về chính trị,
Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Qn uỷ Trung ương, Bộ Quốc phịng, Tổng cục
Chính trị và cấp ủy, chỉ huy các cấp đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch
và hướng dẫn nhằm tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội,
nâng cao hiệu quả công tác đảng, cơng tác chính trị. Đặc biệt, qua kiểm điểm, tự
phê bình và phê bình theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá XI), ngày 1601-2012 về xây dựng Đảng cho thấy, Đảng bộ Quân đội thực sự là một tập thể lãnh
đạo đoàn kết, thống nhất, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách; đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững
vàng, khơng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; vai trò, trách nhiệm
của người đứng đầu được phát huy.
Những thành quả đó là cơ sở thực tiễn minh chứng cho việc Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh ln đặc biệt quan tâm xây dựng quân đội vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức trong suốt 75 năm qua. Dù thời bình hay thời chiến, nhiệm
vụ huấn luyện hay lao động sản xuất, việc xây dựng quân đội vững mạnh về chính
trị ln được Đảng ta đặt lên hàng đầu. Bởi vậy, đã tạo cơ sở nền tảng vững chắc để
nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, bảo đảm cho quân đội ta luôn
xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy
của Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực, nhất là tình hình Biển Đơng tiếp tục
diễn biến phức tạp, khó lường. Đảng ta chỉ rõ: “Tình hình chính trị, an ninh thế
giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp; tình trạng xâm phạm chủ quyền
quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can
thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng,... tiếp tục diễn ra
gay gắt ở nhiều khu vực”. Trên cơ sở đường lối bảo vệ Tổ quốc đã được thể
hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội
XII, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về: “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới”; đồng thời tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa luận điểm giữ vững
sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với QĐND Việt Nam;
14
phát huy nội lực là chính; kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố, tạo sức mạnh tổng hợp
để bảo vệ Tổ quốc.
Theo đó, tiếp tục củng cố, bổ sung, hồn thiện chức năng, nhiệm vụ và cơ chế,
luật pháp xây dựng quân đội. Đảng ta chỉ rõ: “Xây dựng QĐND, Cơng an nhân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đaị hóa một số
quân, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp
sức chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân
dân”. Chú trọng giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, chiến sĩ có lập trường tư tưởng
chính trị vững vàng, kiên định, có ý chí tiến cơng cách mạng, tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Trong bối cảnh đó, yêu cầu xây
dựng QĐND Việt Nam vững mạnh về chính trị càng phải được coi trọng, trở
thành vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách.
Kế thừa và phát huy bài học kinh nghiệm 75 năm qua, trong tình hình
hiện nay, xây dựng quân đội ta về chính trị, trước hết phải khơng ngừng tăng
cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân
đội. Đây là giải pháp then chốt có tính bao trùm, xun suốt q trình xây dựng,
chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta. Bài học từ sự đổ vỡ của Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào cuối những năm 80 đầu 90 của thế kỷ
XX đã chứng minh điều đó. Vì thế, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội là nguyên tắc bất di bất dịch trong xây dựng quân đội cách mạng.
Để làm được điều đó, tồn qn phải tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị
quyết 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khố IX), ngày 20-7-2005 về: “Tiếp tục
hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn
với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong QĐND Việt Nam”. Các cấp
ủy cần làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương
4 (khóa XII); trọng tâm là nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ
chức đảng; gắn xây dựng cấp ủy với xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì, xây dựng
tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh tồn diện.
Trong đó, phải hết sức chú ý đề cao tính tiền phong, gương mẫu của
người đứng đầu cấp ủy và chỉ huy đơn vị; giữ vững nguyên tắc tập trung dân
chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách. Đồng thời, tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát; đổi mới cơ chế, chính sách; thực hiện nghiêm Quy chế
dân chủ cơ sở; giải quyết hài hòa các mối quan hệ, nhất là quan hệ giữa người
chỉ huy và chính ủy, chính trị viên. Cùng với đó, phải tiếp tục qn triệt và thực
hiên Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) và Cuộc vận động “Phát
huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” bằng việc làm
cụ thể, thiết thực; gắn “xây” với “chống”, tích cực đẩy lùi tiêu cực, tạo nhiều
nhân tố điển hình, cán bộ đủ “tâm” và “tầm”, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
15
Thực tiễn 75 năm qua xây dựng QĐND Việt Nam cho thấy, để nâng cao
chất lượng xây dựng quân đội về chính trị, phải tạo được sự đồng thuận cao cả
về nhận thức, tư tưởng và hành động của mọi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội.
Giải pháp có ý nghĩa thiết thực là:
Trước hết, phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục
chính trị, định hướng tư tưởng cho bộ đội. Đây thực chất là định hướng tăng
cường bản chất giai cấp cơng nhân, tính dân tộc và tính nhân dân của qn đội.
Qua đó, làm cho cán bộ, chiến sĩ giác ngộ sâu sắc lý tưởng cách mạng, mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trung thành vô hạn với Đảng, Tổ
quốc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; có phẩm chất đạo đức trong sáng;
kiên định, vững vàng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ln đồn
kết, gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do
của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Để thực hiện được điều đó, trước mắt, cấp ủy, chỉ huy các cấp phải tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Đề án “Đổi mới cơng tác giáo dục
chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”; sớm hoàn thiện Quy chế giáo dục
chính trị đi đơi với tích cực đổi mới chương trình, nội dung, hình thức, phương
pháp sát với yêu cầu xây dựng quân đội về chính trị. Đặc biệt, phải gắn cơng tác
đảng, cơng tác chính trị với định hướng tư tưởng để mỗi cán bộ, chiến sĩ nhận
thức đúng tình hình, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội; nắm vững
thời cơ, thách thức, thuận lợi, khó khăn; phân biệt rõ “đối tượng”, “đối tác” theo
quan điểm của Đảng; không mơ hồ, mất cảnh giác, xử lý tốt mọi tình huống
khơng để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Hai là, cần coi trọng phát huy vai trò và hiệu lực, hiệu quả của hoạt
động cơng tác đảng, cơng tác chính trị, để công tác này thực sự là “linh hồn,
mạch sống” của quân đội. Cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ
quan chính trị các cấp cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các mặt công tác: tư
tưởng, tổ chức, cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ, dân vận, chính sách, quần chúng;
đề cao dân chủ, kỷ cương, kỷ luật; giữ vững đoàn kết nội bộ. Đồng thời, quán
triệt và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Quân uỷ
Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, nhất là Nghị quyết 769NQ/QUTW, ngày 31-12-2012 của Quân uỷ Trung ương về: “Xây dựng đội ngũ
cán bộ quân đội giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo”.
Trên cơ sở đó, xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội vững mạnh cả về số
lượng, chất lượng và cơ cấu; nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ chủ
chốt các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, cán bộ quân sự địa phương tham gia
tỉnh ủy, thành ủy; chuẩn bị tốt nhân sự cho Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ
16
2021-2025, Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, tiến tới Đại hội XIII của
Đảng.
Toàn quân tập trung nâng cao hiệu quả cơng tác đảng, cơng tác chính trị
trong các nhiệm vụ; trọng tâm là nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến
đấu, xây dựng đơn vị, công tác quân sự, quốc phòng địa phương, phòng, chống,
khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn và nhiệm vụ gìn giữ hịa
bình của Liên hợp quốc, v.v. Để thực hiện tốt điều đó, cấp ủy, chỉ huy các đơn vị
phải chăm lo xây dựng cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị vững mạnh về
mọi mặt, nhất là khả năng tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, Quân uỷ
Trung ương, Bộ Quốc phòng những vấn đề chiến lược, nhằm tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với nhiệm vụ xây dựng QĐND, xây dựng nền quốc phịng
tồn dânvà thế trận quốc phịng tồn dân, bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ và chủ động đấu tranh
chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của
Đảng trong quân đội. Đây vừa là định hướng cơ bản, vừa là một trong những giải
pháp quan trọng để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị.
Trước hết, các cấp ủy phải chăm lo thực hiện tốt cơng tác bảo vệ chính trị
nội bộ; chú trọng bảo vệ tổ chức, con người trong sạch, vững mạnh, an tồn tuyệt
đối về chính trị, chống sự xâm nhập, móc nối, cài cắm, lộ lọt thông tin. Đồng thời,
chủ động đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch, nhất là âm mưu “phi chính
trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong các cơ quan, đơn vị, góp phần bảo vệ vững chắc trận địa tư
tưởng của Đảng trong Quân đội. Cùng với đó, phải chú trọng đấu tranh làm thất
bại mọi thủ đoạn thâm độc của địch, kiên quyết, kiên trì bác bỏ những luận điệu,
quan điểm sai trái, thù địch, tuyên truyền, kích động, gây tâm lý cho cán bộ, chiến
sĩ, đồng thời phải chủ động bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, thành tựu cơng cuộc đổi mới của Đảng.
Về mặt nhận thức, ta cần phải thấy rõ đây là cuộc chiến không khoan
nhượng, nhưng rất gay go, quyết liệt, bởi đó là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh
về tư tưởng, lý luận. Cuộc chiến đó diễn ra thường xuyên, quyết liệt đối với Quân
đội và ngay trong đời sống tinh thần của từng cán bộ, chiến sĩ. Do đó, các đơn vị,
trước hết là đội ngũ cán bộ chính trị các cấp cần coi trọng cơng tác giáo dục chính
trị tư tưởng, làm cho cán bộ, chiến sĩ hiểu rõ sự nguy hiểm của chiến lược “Diễn
biến hịa bình”, âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch; từ
đó, nâng cao tinh thần cảnh giác, có giải pháp phịng, chống hiệu quả. Các cơ
quan Báo chí quân đội phải thể hiện rõ vai trị nịng cốt, xung kích, tích cực, chủ
động viết các bài có tính lý luận, tính chiến đấu cao, kịp thời phản bác quan điểm
sai trái của các thế lực thù địch. Các đơn vị văn hóa - nghệ thuật quân đội cần
tăng cường nghiên cứu, sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật, tính chính
17
trị cao, tơn vinh hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” cả trong thời kỳ chiến tranh cách mạng
và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, nâng cao hiệu quả xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, cần tích
cực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm cơ sở đề ra giải pháp phù hợp. Suốt
75 xây dựng, chiến đấu và phát triển, trong đó có xây dựng QĐND Việt Nam vững
mạnh về chính trị. Chúng ta đã có rất nhiều bài học thực tiễn có giá trị cần được
nghiên cứu, được rút ra để tiếp tục vận dụng xây dựng quân đội vững mạnh về chính
trị.
Ngày nay, sự nghiệp xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tăng cường
quốc phịng, bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra nhiều vấn đề mới cả về lý luận và thực tiễn
cần được tiếp tục nghiên cứu, luận giải thấu đáo, có cơ sở khoa học. Do đó, công tác
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận càng phải được quan tâm đúng mức. Đó là
nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết đối với toàn quân, trước hết của các cơ quan nghiên
cứu, học viện, nhà trường quân đội, nhằm giúp cho Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc
phòng, trực tiếp là Tổng cục Chính trị có cơ sở để xác định hệ thống giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác đảng, cơng tác chính trị, xây dựng qn đội vững mạnh về
chính trị.
Từ những bài học rút ra qua 75 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và
giành thắng lợi ve vang của quân đội ta cho thấy, bất luận trong hoàn cảnh nào,
việc xây dựng QĐND Việt Nam vững mạnh về chính trị ln là một ngun tắc
cơ bản, hàng đầu, phải được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ. Đây là cơ sở
để Đảng, Nhà nước ta tiếp tục vận dụng vào xây dựng quân đội vững mạnh về
chính trị trong giai đoạn cách mạng mới, đảm bảo cho QĐND Việt Nam Việt
Nam thực sự là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và
nhân dân, sẵn sàng nhận, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong tình hình mới./.
KẾT LUẬN
Sáng tạo và cho ra đời chủ nghĩa mang tên mình, cả C.Mác và Ăngghen
đã làm biến đổi căn bản mối quan hệ giữa triết học với các khoa học khác, và
sau này được Lênin phát triển và cho ra đời và áp dụng vào nhà nước Chun
chính vơ sản, cơng nơng đầu tiên đó là CNXH hiện thực. Triết học Mác- Lênin
có ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận to lớn đối với các khoa học cụ
thể.
Triết học Mác ra đời cũng đã chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học
muốn biến triết học thành “khoa học của mọi khoa học”, đứng trên mọi khoa
học, xác lập đúng đắn mối quan hệ giữa triết học với khoa học cụ thể. Trên thực
tế, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái
quát các thành tựu của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Ph.Ăngghen đã
18
vạch ra rằng, mỗi lần có phát minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa
học tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật không trách khỏi phải thay đổi hình thức của
nó. Đến lượt mình, triết học Mác ra đời đã trở thành thế giới quan khoa học và
phương pháp luận chung cần thiết cho sự phát triển của mọi khoa học cụ thể. Sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học ngày nay càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư
duy biện chứng duy vật và ngược lại, chỉ có dựa trên những thành tựu của khoa
học hiện đại để phát triển thì triết học Mác mới khơng ngừng nâng cao được sức
mạnh “cải tạo thế giới” của mình. Một trong những đặc trưng nổi bật của triết
học Mác là tính sáng tạo. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác là kết quả
hoạt động nghiên cứu khoa học công phu và sáng tạo của C.Mác và
Ph.Ăngghen. Lịch sử hình thành, phát triển của triết học Mác cho thấy đây chính
là một học thuyết triết học chân chính khoa học đã và đang phát triển giữa dòng
văn minh nhân loại, gắn với thực tiễn sinh động của phong trào cơng nhân. Sáng
tạo chính là đặc trưng chủ yếu ngay trong bản chất của triết học Mác - một học
thuyết phán ánh thế giới vật chất luôn luôn vận động phát triển. Triết học Mác là
một hệ thống mở luôn luôn được bổ sung, phát triển bởi những thành tựu khoa
học và thực tiễn,... Không được coi những nguyên lý triết học Mác là những
giáo điều, mà chỉ là kim chỉ nam cho nhận thức và hành động, cần phải vận
dụng một cách sáng tạo trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Triết học Mác
mang trong mình tính nhân đạo cộng sản. Đó chính là lý luận khoa học xuất phát
từ con người, vì mục tiêu giải phóng con người, trước hết là giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức bóc lột, phát triển tự do, tồn
diện con người. Tóm lại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng tạo ra một học thuyết
triết học cao hơn, phong phú hơn, hoàn bị hơn,... trở thành một khoa học chân
chính, vũ khí tinh thần cho giai cấp vô sản và nhân dân lao động trong cuộc đấu
tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải phóng xã hội.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Lịch sử Triết Học, TCCT, Nxb QĐND, H. 2014.
- V.I. Lê-nin, Toàn tập, , Nxb. Tiến Bộ, M. 1977, t. 41.
- Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H. 2011, t. 7.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật. H. 2016,
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII.
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H. 2016, tr. 149.
- Trung tướng Lê Văn Hân - Ngun Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị: “Xây
dựng quân đội về chính trị: Bài học thực tiễn trong xây dựng, trưởng thành,
chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam”. Tuyên Giáo online, Thứ Bảy,
ngày 21/12/2019.
20