Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.36 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Paul R. Krugman1<sub> </sub></b>
Chẳng có mấy sinh viên chưa tốt nghiệp vốn đã học một giáo trình nhập mơn
kinh tế học lại tiếp tục nghiên cứu tốt nghiệp trong lĩnh vực này, và thật ra đa số họ
thậm chí cũng khơng học tiếp các giáo trình nâng cao hơn về kinh tế học. Thế nên
những gì họ biết được về kinh tế học sẽ là những điều mà họ đã nhận thức được trong
giáo trình đầu tiên ấy. Vậy thì điều quan trọng hơn bao giờ hết là việc đào tạo cơ bản
phải bao gồm việc đặt nền tảng vững chắc trên các nguyên tắc của mậu dịch quốc tế.
Tơi có thể biện minh cho nhận định này bằng cách chỉ ra rằng mậu dịch quốc tế đối với
nền kinh tế Hoa Kỳ hiện nay quan trọng hơn nhiều so với trước kia. Nhưng có một lý do
<i>khác mà tơi nghĩ thậm chí cịn quan trọng hơn nữa: công chúng ngày càng nhận thức </i>
được rằng mậu dịch quốc tế là một vấn đề sống còn. Chúng ta sống trong một thời đại
<i>mà người Mỹ bị ám ảnh bởi sự cạnh tranh quốc tế, trong đó Đối đầu của Lester Thurow </i>
<i>là một tác phẩm người thật việc thật bán chạy nhất và Mặt trời mọc của Michael </i>
Crichton đứng đầu danh sách các tác phẩm hư cấu. Các phương tiện truyền thông đại
chúng và tư liệu kinh doanh tràn ngập những cuộc tranh luận về vai trò của Mỹ trong
nền kinh tế thế giới.
Vấn đề là phần lớn những gì một sinh viên có thể đọc được hay nghe thấy về kinh tế
học quốc tế thật là vô nghĩa. Điều tôi muốn lập luận trong bài viết này là: cái quan
trọng nhất cần dạy cho các sinh viên chưa tốt nghiệp về ngoại thương là làm thế nào
phát hiện ra sự vô nghĩa ấy. Nghĩa là, nhiệm vụ cơ bản của chúng ta là tiêm chủng
phòng ngừa cho tư duy của các sinh viên hầu chống lại những nhận thức sai lầm vẫn
chiếm ưu thế trong những thứ được cho là những cuộc thảo luận có trình độ về mậu dịch
quốc tế.
<b>I. Những lời lẽ hoa mỹ của tinh thần quốc tế bình dân </b>
Là điểm khởi đầu, tơi muốn trích dẫn một phát biểu điển hình về kinh tế học quốc tế.
(Vui lòng bỏ qua những con số trong giây lát.) Phát biểu ấy là: “Chúng ta cần một mẫu
hình kinh tế mới, bởi vì ngày nay nước Mỹ là một phần của nền kinh tế tồn cầu thật sự
(1). Để duy trì mức sống, nước Mỹ hiện phải học hỏi cạnh tranh trên một thương trường
quốc tế khốc liệt hơn bao giờ hết (2). Đó là lý do tại sao năng suất cao và chất lượng sản
phẩm trở nên có ý nghĩa thiết yếu (3). Chúng ta cần chuyển nền kinh tế Mỹ vào những
lĩnh vực có giá trị cao (4) mà sẽ tạo ra công việc làm (5) cho tương lai. Và con đường
duy nhất để ta có thể trở nên cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu mới là liệu chúng ta
có hun đúc được một tinh thần hợp tác mới giữa chính phủ và giới kinh doanh hay chăng
(6).”
Được rồi, tôi thú nhận đây chẳng phải là một lời trích dẫn thực sự. Tôi đã sắp xếp chúng
lại thành một bản tóm tắt những nhận thức sai lầm phổ biến về mậu dịch quốc tế.
Nhưng chắc chắn nó nghe như thể những gì người ta vẫn đọc được hay nghe được vào
mọi lúc – về nội dung và văn vẻ, nó rất gần với bản tun ngơn hiện vẫn cịn có ảnh
hưởng của Ira Magaziner và Robert Reich (1982), hay về mặt chủ đề, nó rất gần với bài
thuyết trình của John Sculley thuộc hãng máy tính Apple tại Hội nghị Kinh tế của tổng
thốâng mới được bầu, ông Clinton, hồi tháng mười hai vừa rồi (1993). Những người nói
những điều đại loại như thế tin rằng mình rất khơn ngoan, tinh tế, và nhìn xa trơng rộng.
Họ không biết rằng họ đang lặp lại một loạt những lời lẽ hoa mỹ gây hiểu lầm mà tôi
gán cho cái tên là “tinh thần quốc tế bình dân.”
Thật dễ hiểu tại sao tinh thần quốc tế bình dân ấy lại có sức hấp dẫn phổ thơng đến thế.
Thật ra, nó mơ tả nước Mỹ như một cơng ty từng có nhiều thế lực độc quyền, và do đó
có thể thu được lợi nhuận thoải mái bất chấp cách thức kinh doanh luộm thuộm, nhưng
hiện đang đứng trước sự cơng kích dữ dội từ các đối thủ cạnh tranh khác. Nhiều công ty
ngày nay hiện đang ở trong tình thế đó (cho dù các đối thủ cạnh tranh mới không nhất
thiết là nước ngồi), và vì thế hình ảnh ấy nghe có vẻ thật.
Đáng tiếc thay, đó là một hình ảnh hết sức gây hiểu lầm, bởi vì nền kinh tế quốc
gia chẳng giống gì với một cơng ty cả. Và cái nhìn ở trình độ bình dân của các doanh
nhân thì thật chẳng có kiến thức gì về những vấn đề cân bằng tổng quát cố hữu trong
kinh tế học quốc tế.
Vậy thì các sinh viên chưa tốt nghiệp cần biết gì về ngoại thương? Họ cần biết
<i>rằng cái tinh thần quốc tế bình dân ấy thật là vô nghĩa – và họ cần biết tại sao nó vơ </i>
nghĩa.
<b>II. Những nhận thức sai lầm phổ biến </b>
Tôi ghi thêm những con số vào đoạn trích dẫn tưởng tượng của mình để đánh
dấu 6 nhận thức sai lầm phổ biến mà ta có thể xố bỏ và nên xố bỏ khỏi các giáo trình
kinh tế học nhập môn.
1.- “Chúng ta cần một mẫu hình mới…” Tinh thần quốc tế bình dân tuyên bố
rằng mọi thứ bây giờ đã khác đi vì rằng Hoa Kỳ là một nền kinh tế mở. Có lẽ ý nghĩa
quan trọng nhất mà một giáo trình nhập mơn có thể truyền đạt về kinh tế học quốc tế là
<i>nó khơng làm thay đổi những điều cơ bản: ngoại thương chỉ là một hoạt động kinh tế, </i>
phụ thuộc vào cùng những nguyên tắc như bất kỳ một hoạt động kinh tế nào khác.
một doanh nghiệp mới sử dụng một công nghệ bí mật để chuyển hố lúa mì, gỗ, v.v…
của Hoa Kỳ thành những mặt hàng công nghiệp tiêu dùng chất lượng cao giá rẻ. Nhà
kinh doanh được tán dương như một vị anh hùng công nghiệp; cho dù một số đối thủ
cạnh tranh trong nước của anh ta bị thiệt hại, mọi người đều chấp nhận rằng tình trạng
mất phần thỉnh thoảng xảy ra như thế là cái giá phải trả cho một nền kinh tế thị trường
tự do. Nhưng rồi khi một phóng viên điều tra khám phá ra rằng điều anh ta thực sự đang
làm chẳng qua chỉ là đưa lúa mì và gỗ tới châu Á và dùng tiền bán được mua hàng công
nghiệp chế tạo – và thế là anh ta bị lên án là kẻ lọc lừa, người phá hoại công việc làm
Không chừng cũng là một điều hay nếu các sinh viên chưa tốt nghiệp có được
một nhận thức định lượng thực tế hơn so với nhận thức của những người có tinh thần
quốc tế bình dân về việc Hoa Kỳ thực sự trở thành một phần của nền kinh tế toàn cầu
tới một chừng mực giới hạn như thế nào. Thật ra, hàng nhập khẩu và xuất khẩu vẫn chỉ
chiếm khoảng 1/8 sản lượng, và ít nhất 2/3 giá trị gia tăng của Hoa Kỳ là bao gồm
những hàng hoá và dịch vụ khơng thể ngoại thương. Ngồi ra, ta nên có một cái nhìn
lịch sử nhất định để qua đó có thể chống đối quan niệm ngốc nghếch cho rằng tình thế
hiện nay của Hoa Kỳ là hồn tồn chưa từng có: Hoa Kỳ bây giờ hiện khơng mở cửa và
có lẽ cũng chẳng bao giờ mở cửa ngoại thương được như Vương quốc Anh dưới triều Nữ
hoàng Victoria.
2.- “Cạnh tranh trên thị trường thế giới”: Một trong những nhận định sai lầm dai
dẳng và phổ biến nhất về những con người thực tiển là: các quốc gia đang cạnh tranh
với nhau theo cùng một cách thức như các công ty trong cùng ngành đang cạnh tranh với
nhau. Ricardo đã biết điều này giỏi hơn từ năm 1817. Một giáo trình nhập môn kinh tế
học nên nhấn mạnh cho sinh viên hiểu rằng mậu dịch quốc tế không phải bàn về sự
cạnh tranh, mà là về sự trao đổi có lợi cho cả đơi bên. Thậm chí cịn cơ bản hơn, chúng
ta nên dạy cho các sinh viên hiểu rằng chính nhập khẩu là mục đích của ngoại thương,
chứ không phải xuất khẩu. Nghĩa là, cái mà một quốc gia được lợi nhờ ngoại thương là
quốc gia ấy có khả năng nhập khẩu được những gì mình muốn nhập. Bản thân xuất
khẩu không phải là một mục tiêu: nhu cầu xuất khẩu là một gánh nặng mà một đất nước
phải mang vì các nhà cung ứng hàng nhập khẩu thì cũng đủ thơ lỗ để u cầu thanh
tốn.
tế bình dân: “Cạnh tranh trong những lĩnh vực chuyên môn sâu là một tình huống tất
thắng cho mọi người. Mỗi người đều có một lĩnh vực nào đó để có thể vượt trội hơn
3.- “Năng suất”: Các sinh viên nên biết rằng năng suất cao thì có lợi, chẳng phải
vì nó giúp một quốc gia cạnh tranh với những quốc gia khác, mà vì nó giúp đất nước sản
xuất được nhiều hơn và nhờ đó cũng tiêu dùng được nhiều hơn. Điều này sẽ đúng trong
một nền kinh tế đóng; nó cũng đúng hệt như thế đối với một nền kinh tế mở, nhưng nó
khơng phải là những điều mà những người có tinh thần quốc tế bình dân tin tưởng.
Tơi thấy thật bổ ích nếu ta để cho các sinh viên thực hiện một thử nghiệm tư duy
sau đây. Thứ nhất, hãy tưởng tượng một thế giới trong đó năng suất tăng thêm 1 phần
trăm hàng năm tại tất cả các nước. Mức sống ở Mỹ sẽ có xu hướng như thế nào? Các
sinh viên chẳng phiền hà gì sẽ đồng ý ngay rằng mức sống sẽ tăng thêm 1 phần trăm
một năm. Tuy nhiên, giả sử hiện giờ trong lúc Hoa Kỳ tiếp tục tăng năng suất thêm chỉ
1 phần trăm một năm thôi, nhưng phần còn lại của thế giới giỏi xoay xở đạt được sự
tăng trưởng năng suất 3 phần trăm một năm. Thế thì mức sống của nước Mỹ sẽ có xu
hướng như thế nào?
Câu trả lời đúng là vẫn có xu hướng tăng 1 phần trăm, ngoại trừ việc có thể có
những ảnh hưởng tinh tế thông qua tỷ giá ngoại thương; và là một vấn đề thực nghiệm,
những thay đổi trong tỷ giá ngoại thương của Mỹ gần như khơng có tác động gì đến mức
sống của người Mỹ trong mấy thập niên qua. Nhưng chẳng có mấy sinh viên có được
kết luận này – điều này cũng chẳng ngạc nhiên, bởi vì gần như mọi thứ họ đọc được hay
nghe thấy ở bên ngồi lớp học đều truyền đạt hình ảnh về mậu dịch quốc tế như một
môn thể thao đầy cạnh tranh.
Có một giai thoại thế này: Khi tơi cho đăng một bài báo có kết thúc mở trên tờ
<i>New York Times năm ngối, tơi nhấn mạnh đến tầm quan trọng của năng suất gia tăng. </i>
Người trợ lý chủ bút khăng khăng bảo tôi nên “giải thích” rằng chúng ta cần phải có
năng suất để “cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu.” Anh ta khơng sẵn lịng đăng bài
báo trừ khi tơi thêm vào cụm từ ấy. Anh ta bảo cần phải làm thế để độc giả có thể hiểu
lý do tại sao năng suất có ý nghĩa quan trọng. Chúng ta cần cố gắng tạo ra một thế hệ
sinh viên là những người chẳng những không cần cái kiểu giải thích ấy, mà cịn hiểu
được tại sao giải thích như thế là sai.
trị trên một lao động nhiều hơn và (2) chúng ta duy trì một vị thế trong những ngành
nghề này, vốn dĩ ưu việt hơn so với các đối thủ cạnh tranh quốc tế của ta” (Magaziner
và Reich, 1982, trang 4).
Tơi nghĩ rằng chúng ta có thể dạy cho sinh viên lý do tại sao đây là một khái
niệm ngốc nghếch. Lấy ví dụ như một mơ hình đơn giản gồm hai mặt hàng của Ricardo
chẳng hạn, trong đó một nước có năng suất cao hơn nước kia trong cả hai ngành sản
xuất. (Tôi đang nghĩ về mơ hình được sử dụng trong sách giáo khoa của Krugman và
Maurice Obstfeld [1991, trang 20-1]). Dĩ nhiên, đất nước có năng suất cao hơn sẽ có
mức lương cao hơn và do đó, bất kể lĩnh vực nào mà đất nước đó chun mơn hố sản
xuất cũng sẽ là lĩnh vực “có giá trị cao”, nghĩa là, sẽ có giá trị gia tăng trên một lao
động cao hơn. Liệu điều này có nghĩa là mức sống cao của đất nước là kết quả của việc
chọn đúng lĩnh vực, hay nước nghèo hơn sẽ trở nên giàu hơn nếu nước ấy cố gắng đua
tranh theo chiều hướng chun mơn hố trong lĩnh vực kia? Dĩ nhiên câu trả lời là
không.
5.- “Việc làm”: Một điều mà cả các bạn hữu lẫn những người chống đối mậu
dịch tự do xem ra đều đồng ý là: vấn đề trung tâm vẫn là việc làm. George Bush công
bố mục tiêu của chuyến đi tệ hại của ông tới nước Nhật là “ việc làm, việc làm, và việc
làm”; cả hai phía trong cuộc tranh luận về Hiệp định Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ đều cố
gắng đưa ra lập luận theo chiều hướng tạo ra công việc làm. Và đáng kinh ngạc là đa số
Cũng có thể nên nhấn mạnh cho các sinh viên hiểu rằng việc làm là một vấn đề
kinh tế vĩ mơ; trong ngắn hạn, nó phụ thuộc vào tổng cầu, và trong dài hạn, nó phụ
thuộc vào tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mà những chính sách kinh tế vi mô như thuế xuất
nhập khẩu có tác dụng rịng khơng đáng kể. Người ta nên tranh luận về chính sách
ngoại thương theo tác động của nó đối với tính hiệu quả, chứ khơng nên tranh luận theo
những con số dỏm về tạo ra việc làm hay mất việc.
6.- “Một tinh thần hợp tác mới”: Vấn đề mấu chốt đối với nhiều người có tinh
thần quốc tế bình dân là vì các công ty Mỹ đang cạnh tranh với các công ty nước ngồi
thay vì cạnh tranh với nhau, chính phủ Mỹ nên chuyển từ vị thế bị cho là đối thủ sang vị
thế hỗ trợ họ chống lại các đối thủ cạnh tranh nước ngồi. Một người có tinh thần quốc
<i>tế bình dân tinh tế hơn như Robert Reich (1991) nhận ra rằng lợi ích của các cơng ty Mỹ </i>
<i>và lợi ích của các cơng nhân Mỹ chẳng phải là như nhau (bạn có thể thấy khó mà tin </i>
được rằng cịn có ai đó cần nêu điều này ra, nhưng trong những người có tinh thần quốc
tế bình dân thì điều này được coi là một ý tưởng sâu sắc và cịn có thể bàn cãi), nhưng
ông ta vẫn chấp nhận tiền đề cơ bản là chính phủ Mỹ nên giúp đỡ các ngành công
nghiệp của chúng ta cạnh tranh.
<i>diễn ra là cuộc cạnh tranh giữa các ngành công nghiệp của Mỹ với nhau xem ngành nào </i>
sẽ dành được những nguồn lực khan hiếm về vốn, kỹ năng, và vâng, cả lao động nữa.
Sự hỗ trợ của chính phủ dành cho một ngành có thể giúp ngành đó cạnh tranh với nước
ngồi, nhưng nó cũng thu hút nguồn lực ra khỏi những ngành công nghiệp khác trong
nước. Điều này có nghĩa là tầm quan trọng của mậu dịch quốc tế ngày gia tăng vẫn
không làm thay đổi ý tưởng là chính phủ khơng thể ưu tiên cho một ngành công nghiệp
nội địa nào đó mà khơng gây tổn thất cho những ngành khác.
Bây giờ có những lý do, chẳng hạn như hiệu quả kinh tế theo quy mơ bên ngồi,
<b>III. Chúng ta nên dạy cái gì </b>
Cho tới giờ thì cũng nên nêu rõ sự cơng kích trong bài thảo luận của tơi. Đối với
đa số các sinh viên kinh tế học, mục tiêu của chúng ta nên là trang bị cho họ sự đáp ứng
thông minh trước những thảo luận phổ biến về các vấn đề kinh tế. Phần lớn các cuộc
thảo luận này sẽ là về mậu dịch quốc tế, vì thế mậu dịch quốc tế nên là một phần quan
trọng trong chương trình học.
Tuy nhiên, điều quan trọng là phải hiểu rằng các cuộc thảo luận của cơng chúng
thì cực kỳ thơ sơ. Thật vậy, trình độ đó thấp đến nỗi những người lặp đi lặp lại những lời
lẽ khuôn sáo ngốc nghếch cứ tưởng rằng mình là những con người tinh tế. Điều đó có
nghĩa là các giáo trình của chúng ta cần hướng cho sinh viên hiểu càng rõ về những
điểm cơ bản càng tốt. Các đường cung ngoại thương (Offer curve) và hiệu ứng
Rybczinski là những điều hay ho. Tuy nhiên, điều mà hầu hết các sinh viên cần được
được chuẩn bị cho một thế giới mà ở đó các “chun gia” vơ tuyến truyền hình, các tác
giả có sách bán chạy nhất và các nhà tư vấn lương 30.000 $ một ngày thì khơng am hiểu
gì cả về các ràng buộc ngân sách, và bỏ mặc các lợi thế so sánh.