Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.49 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
68 <b><sub>TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI </sub></b>
<b>Nguyễn Thu Hạnh </b>
<i>Trường Đại học Thủ đơ Hà Nội</i>
<i>Tóm tắt: Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tác động mạnh mẽ và kéo theo sự thay đổi </i>
<i>nhanh chóng đời sống xã hội trên tất cả mọi lĩnh vực. Bản chất của cách mạng công </i>
<i>nghiệp 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thơng </i>
<i>minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất. Giáo dục lý luận chính trị trong các </i>
<i>trường đại học cũng phải thay đổi để thích ứng với những tác động đó. Việc đổi mới dạy </i>
<i>và học các mơn lý luận chính trị tại các trưởng cao đẳng và đại học đạt được những kết </i>
<i>quả nhất định, song vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Những hạn chế đó là trở ngại, giảm tính </i>
<i>hiệu quả trong việc dạy và học các mơn lý luận chính trị trong bối cảnh cách mạng 4.0. </i>
<i>Từ khóa: Cách mạng cơng nghiệp 4.0, lý luận chính trị, đại học, khoa học công nghệ… </i>
Nhận bài ngày 19.1.2019; gửi phản biện, chỉnh sửa, duyệt đăng ngày 20.2.2019
Liên hệ tác giả: Nguyễn Thu Hạnh; Email:
<b>1. ĐẶT VẤN ĐỀ </b>
Chính trị gắn với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, khơng có lĩnh vực nào của đời
sống xã hội hiện đại lại đứng ngồi chính trị, từ vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa đến xây
dựng đạo đức, lối sống; từ sự đánh giá về quá khứ đến dự báo tương lai... đều phải có định
hướng chính trị rõ ràng. Theo đó, nội dung của các mơn lý luận chính trị (LLCT) là rất
rộng, từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính
Đối với sinh viên (SV), việc học tập các môn LLCT và quán triệt nghiêm túc nội dung
LLCT có ý nghĩa quan trọng. Học tập và quán triệt nội dung các môn LLCT giúp SV có
trình độ và năng lực tư duy lý luận khoa học, có quan điểm đúng đắn, lập trường cách
mạng vững chắc và phương pháp luận khoa học, là điều kiện để SV chủ động, tự tin vươn
lên làm chủ khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại.
<b>TẠP CHÍ KHOA HỌC </b><b> SỐ 29/2019 </b> 69
đã, đang và sẽ tiếp tục tạo ra những biến động mạnh mẽ, gây ảnh hưởng đến mọi mặt của
cuộc sống con người trong thế kỷ 21. Cuộc cách mạng này sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến nền
kinh tế, xã hội tồn cầu, trong đó có có việc dạy và học các mơn LLCT. Nó đặt ra những
vấn đề cấp bách cho giáo dục đại học nói chung và việc dạy và học các mơn LLCT nói riêng.
<b>2. NỘI DUNG </b>
<b>2.1. Thực trạng việc dạy và học các môn LLCT của SV các trường đại học, cao </b>
<b>đẳng hiện nay </b>
Mặc dù Đảng và Nhà nước rất quan tâm và coi trọng giáo dục LLCT trong các trường
đại học, cao đẳng, tuy nhiên, việc dạy và học tập các mơn LLCT cịn chưa tương xứng, còn
nhiều vấn đề bất cập.
<i>Một là, sự bất hợp lý trong kết cấu chương trình các mơn LLCT</i>
Theo Quyết định 52/2008/QĐ-BGDĐT (Quyết định ban hành chương trình các mơn
LLCT trình độ cao đẳng, đại học cho SV khối không chuyên ngành Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh), các mơn <i>Triết học Mác - Lênin</i>, <i>Kinh tế chính trị học Mác - Lênin</i> và <i>Chủ </i>
<i>nghĩa xã hội khoa học</i> đã hợp thành một môn <i>Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác </i>
Việc kết cấu lại chương trình, nội dung các môn LLCT đã giảm tải thời lượng học các
môn LLCT vốn được xem là “nặng” đối với SV. Bên cạnh đó, việc ra đời môn <i>Những </i>
<i>nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin</i> thay cho ba môn học bộ phận trước đây có
thể giúp cho SV nhận thấy được tính thống nhất và logíc của học thuyết Mác - Lênin.
Tuy nhiên, việc thực hiện chương trình môn học như trên đã xuất hiện một số bất cập
“lớn” trong quá trình dạy và học tập như sau:
<i>Thứ nhất</i>, sự hợp nhất trong nội dung môn học không đạt được sự thống nhất như
mong muốn, bởi vì đã là một mơn khoa học phải có đối tượng, phạm vi và phương pháp
nghiên cứu riêng của nó. Mỗi bộ phận trong chủ nghĩa Mác - Lênin có tính khu biệt về đối
tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu cũng như phương pháp nghiên cứu của mình. Như
vậy, không làm rõ đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu riêng, thì rất khó có thể
coi mơn <i>Nhữngnguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin</i> là một môn khoa học.
70 <b><sub>TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI </sub></b>
được đào tạo và bảo đảm chất lượng đào tạo. Đối với môn <i>Những nguyên lý của chủ nghĩa </i>
<i>Mác - Lênin</i>, có trường cho SV học trong 1 kì và giao cho 1 GV đảm nhiệm; có trường cho
học trong 1 kì và cử 3 GV giảng dạy từng phần theo chuyên môn được đào tạo. Hầu hết
các trường chia môn học thành 2 phần: Nguyên lý 1 (phần 1: 2 tín chỉ), Nguyên lý 2 (phần
2 và 3: 3 tín chỉ). Nhìn chung, việc bố trí GV giảng dạy LLCT ở hầu hết các trường đều
xáo trộn. Một GV có thể phải dạy cả phần triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội,
đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Như vậy, một mâu thuẫn lớn là GV dạy các môn LLCT thường chỉ được đào tạo
chuyên sâu một chuyên ngành, nay họ phải dạy cả những môn trái chuyên ngành. Mặc dù,
<i>Hai là, đặc thù các mơn LLCT có tính trừu tượng, lại nặng về lý thuyết hàn lâm, làm </i>
<i>cho SV ngại học</i>
Thực tiễn đã có nhiều thay đổi, nhưng trong nội dung các môn LLCT vẫn nặng tính
hàn lâm, ít có sự bổ sung, phát triển, nhiều vấn đề về kinh tế thị trường, nhà nước pháp
quyền, dân chủ, nhân quyền, hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức... còn rất mờ nhạt, làm cho
SV cảm thấy khô khan, khó hiểu, xa rời thực tiễn. Điều đó dẫn tới việc SV đã ngại học
càng trở nên “nản học” các môn lý luận chính chị.
Giáo trình và tài liệu học tập được biên soạn lại theo một chương trình khung và chuẩn
quốc gia. Các kiến thức được bố trí theo kiểu “nhồi nhét”; tính gợi mở, tính mềm hóa bị
thủ tiêu, làm cho người học khó lĩnh hội kiến thức.
<i>Ba là, thực hiện học chế tín chỉ đã làm cho thời lượng học giảm nhiều trong khi SV </i>
<i>chưa thực sự có ý thức tự học, tự nghiên cứu</i>
Thực hiện chủ trương đổi mới giáo dục đại học theo học chế tín chỉ, số tiết dạy - học
trên lớp của các môn LLCT giảm lớn: Trước năm 2009, số tiết môn <i>Triết học Mác - Lênin</i>
<b>TẠP CHÍ KHOA HỌC </b><b> SỐ 29/2019 </b> 71
Như vậy, tổng số tiết các môn LLCT như sau:
<i>Hệ đại học</i>:
Các ngành không chuyên kinh tế và quản trị kinh doanh: 300 tiết;
Các ngành kinh tế và quản trị kinh doanh: 345 tiết.
<i>Hệ cao đẳng</i>:
Các ngành không chuyên kinh tế và quản trị kinh doanh: 255 tiết;
Các ngành kinh tế và quản trị kinh doanh: 285.
Hiện nay, số tiết các môn LLCT ở các trường cao đẳng, đại học như sau: Môn <i>Những </i>
<i>nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin</i> có 5 tín chỉ, mơn <i>Đường lối cách mạng Việt </i>
<i>Nam</i> có 3 tín chỉ, mơn <i>Tư tưởng Hồ Chí Minh</i> có 2 tín chỉ. Việc thực hiện tín chỉ ở các
trường cũng rất khác nhau, hầu hết các trường vẫn áp dụng số tiết tín chỉ như niên chế: 1
tín chỉ = 15 tiết; có trường thực hiện 1 tín chỉ = 22,5 tiết, nhưng những trường này lại quy
định giờ học trên lên lớp chỉ có 2/3 thời lượng, tự nghiên cứu 1/3 thời lượng, như thế số
tiết trên lớp vẫn không khác gì 1 tín chỉ = 15 tiết.
Như vậy, số tiết học trên lớp của các môn LLCT áp dụng cho tất cả các ngành không
chuyên chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hệ đại học và cao đẳng hiện nay rất
“nghèo nàn”. Nếu cộng một cách cơ học, các môn LLCT sẽ có số tiết là: 75 tiết (môn
<i>Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin</i>) + 45 tiết (môn <i>Đường lối cách mạng </i>
<i>của Đảng Cộng sản Việt Nam</i>) + 30 tiết (mơn <i>Tư tưởng Hồ Chí Minh</i>) = 150 tiết. Thậm
chí, một số trường đã áp dụng dạy học theo hình thức online, tiếp tục cắt giảm số tiết trên
lớp chỉ còn lại 2/3. Với thời lượng học trên lớp ít như vậy, trong khi khối lượng kiến thức
lại lớn, GV không thể truyền thụ được sâu sắc kiến thức môn học, lại càng không có điều
kiện tổ chức học tích cực, cịn SV lĩnh hội kiến thức theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”. Việc
quy ước rằng SV phải tự học, tự nghiên cứu ở nhà cũng là một điều khó. Việc học ở nhà,
GV phải giao bài tập, tổ chức thảo luận, semina, phải có tiêu chí kiểm tra đánh giá việc học
ở nhà của SV... Đây quả thực cũng là một công việc mà không phải GV nào hay bài nào
GV cũng có thể làm được.
72 <b><sub>TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI </sub></b>
Việc giảm tiết, ghép lớp đã làm giảm khối lượng công việc của GV giảng dạy các môn
LLCT; thêm vào đó, nhiều trường khơng tuyển sinh đủ SV. Cho nên có trường, một năm,
mỗi GV chỉ dạy 1 lớp; có trường, GV phải chuyển sang làm các công việc không đúng
chun mơn; thậm chí có trường cho GV nghỉ việc không lương và vào danh sách cắt giảm
biên chế.
<i>Bốn là, trình độ và phương pháp giảng dạy các mơn LLCT cịn nhiều hạn chế</i>
Để giảng dạy lý luận tốt, các GV phải có trình độ lý luận; đồng thời cần có vốn sống,
vốn hiểu biết xã hội dầy dặn; khơng chỉ có kinh nghiệm thực tiễn và mà cịn cần có tư duy
trừu tượng hóa, khái quát hóa.
Bên cạnh nhiều GV đã sử dụng tốt giáo án điện tử, sơ đồ, biểu đồ, hình ảnh, phim tư
liệu; seminar, thảo luận vẫn còn một bộ phận khơng nhỏ GV cịn chậm đổi mới phương
pháp. Một số GV sử dụng giáo án điện tử chưa hiệu quả, theo kiểu chiếu chữ trên màn
hình. Ở một số trường, cơ sở vật chất thiếu thốn, khơng có máy tính, máy chiếu, loa, tài
liệu học tập... nên GV khó áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực. Tình trạng thầy cơ
đọc, trị chép vẫn còn nhiều. Giờ học thiếu tính đối thoại làm cho các tiết giảng trở nên
nhàm chán, SV không hứng thú học tập.
<i>Năm là, SV thiếu hụt nền tảng kiến thức lịch sử, xã hội và ít trải nghiệm thực tiễn</i>
Để học tốt các mơn LLCT, SV phải có nền tảng kiến thức khoa học xã hội. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây học sinh phổ thơng ít quan tâm đến các môn khoa học xã hội,
nhất là môn lịch sử, trừ một số học sinh chọn khối thi đại học có các mơn xã hội. Lỗ hổng
về kiến thức xã hội ở phổ thông là một trở lực khiến SV khó tiếp thu kiến thức các môn
LLCT.
Bên cạnh thiếu nền tảng kiến thức xã hội, SV Việt Nam cịn ít trải nghiệm thực tiễn, ít
hiểu biết về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội quốc tế và trong nước, nên càng khó khăn
hơn khi học tập LLCT.
<i>Bảy là, cơng cuộc đổi mới đất nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng</i>, song còn
tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập cũng ảnh hưởng tới niềm tin, lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, tinh thần học tập LLCT của SV
<b>TẠP CHÍ KHOA HỌC </b><b> SỐ 29/2019 </b> 73
gánh nặng xã hội; tình trạng suy thối về đạo đức xã hội, tình trạng mất dân chủ, tình trạng
người lao động bị bóc lột, nạn thất nghiệp... xuất hiện ngày càng nhiều.
Trong bối cảnh như vậy, tư tưởng của SV cũng bị ảnh hưởng làm cho họ bị mất
phương hướng và định hướng giá trị. Niềm tin, lý tưởng xã hội chủ nghĩa vì thế bị tác
động, SV vốn đã khơng thích học các mơn LLCT nay lại càng suy giảm động lực để tiếp
thu kiến thức các môn học này.
<b>2.2. Tác động của cách mạng 4.0 tới việc dạy học các môn LLCT </b>
<i>Cách mạng cơng nghiệp 4.0 là gì? </i>
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là xu hướng tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong
cơng nghệ sản xuất. Bản chất của CMCN 4.0 là dựa trên nền tảng cơng nghệ số và tích hợp
tất cả các cơng nghệ thơng minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh
những cơng nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là cơng nghệ in 3D, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy... Nó bao gồm các hệ thống
không gian mạng, Internet vạn vật và điện tốn đám mây. Qua đó, người ta tạo ra những
nhà máy thơng minh với hệ thống máy móc tự kết nối với nhau, tự tổ chức và quản lí. Đây
cịn được gọi là cuộc cách mạng số, vì chúng ta sẽ được chứng kiến cơng cuộc “số hóa” thế
giới thực thành thế giới ảo.
Điều khác biệt giữa CMCN 4.0 với ba cuộc cách mạng trước đó là CMCN 4.0 không
gắn với sự ra đời của một công nghệ nào cụ thể mà là kết quả hội tụ của nhiều cơng nghệ
khác nhau, trong đó trọng tâm là công nghệ nano, công nghệ sinh học và công nghệ thông
tin - truyền thông. Cuộc cách mạng này trực tiếp nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết
hợp các cơng nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Nó
sẽ diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Cơng nghệ sinh học, Kỹ thuật số và Vật lý. Những
yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối
- Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data).
74 <b><sub>TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI </sub></b>
nhu cầu về nguồn lao động có tay nghề cao, tư duy sáng tạo, thực hiện những công việc
phức tạp, làm chủ máy móc lại tăng lên.
CMCN 4.0 lần này cũng đang đặt ra nhiều thách thức mới đối với các nước đang phát
triển như Việt Nam. Đó là thách thức tụt hậu xa hơn, lao động chi phí thấp mất dần lợi thế,
khoảng cách công nghệ và tri thức nới rộng hơn dẫn đến phân hóa xã hội sẽ sâu sắc hơn...
Chính phủ, các doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu và cơ sở giáo dục của Việt Nam
cần phải nhận thức được, sẵn sàng thay đổi và có chiến lược phù hợp cho việc phát triển
công - nông nghiệp, dịch vụ và kinh tế hay nguồn nhân lực. Trong tương lai, năng lực sẽ
trở thành nhân tố cốt lõi của nền sản xuất. Điều đó sẽ tạo nên một sự gia tăng trong thị
trường việc làm và ngày càng phân hóa theo hai nhóm: Nhóm kỹ năng thấp/trả lương thấp
và nhóm kỹ năng cao/trả lương cao. Điều này sẽ góp phần làm gia tăng những mâu thuẫn
trong xã hội.
<b>2.3. Tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với việc dạy và học các môn </b>
<b>LLCT</b>
Theo các chuyên gia trong ngành giáo dục, trong thời đại mới, người ta sẽ khơng cịn
Đối với các trường đại học, CMCN 4.0 đòi hỏi phải đào tạo ra nguồn nhân lực có các
kỹ năng mới và trình độ giáo dục cao hơn so với 10 năm trước, bởi thị trường đòi hỏi lao
động có trình độ giáo dục và đào tạo cao hơn.
Thực tế hiện nay, giáo dục đại học về tổng thể vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của các nhà
tuyển dụng.