Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Địa danh tiếng MNôngÊ Đê ở Đắk Nông Niên luận Ngôn Ngữ Học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.67 KB, 64 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ

NIÊN LUẬN
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
Đề tài:

ĐỊA DANH TIẾNG M’ NÔNG / Ê ĐÊ
Ở ĐẮK NÔNG
CBHD: PGS.TS. NGUYỄN CÔNG ĐỨC
SVTH:
LỚP:
MSSV:

TP.HCM, ngày tháng năm


MỤC LỤC


DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài

Thế giới này mn màu mn vẻ, vì vậy việc đặt tên để phân biệt, định
hình và để thơng báo cho người khác biết những gì có liên quan đến chúng là một
việc làm cần thiết. Do đó, trong một quốc gia rộng lớn cũng như trong một vùng,
một khu vực, cũng cần có tên gọi để chúng ta có thể định hình, phân giới, ghi nhớ
chúng. Và những tên gọi đó, được gọi chung là địa danh. Sự ra đời của địa danh,
không phải do ngẫu nhiên mà có, nó thường được dựa vào các phương thức đặt tên


và trong đó có sự thể hiện văn hóa đặc thù, những phong tục tập qn, những tín
ngưỡng thơng qua địa danh này. Vì thế, mỗi địa danh đều phải thể hiện một ý
nghĩa nào đó và phải có lý do ra đời gắn với các sự kiện về chính trị, xã hội, lịch
sử, địa lý, ngơn ngữ,…Chính vì vậy, một trong những con đường để tiếp cận, tìm
hiểu, khám phá, nguồn gốc lịch sử, văn hóa, ngơn ngữ, của một địa bàn, một vùng
đất, một dân tộc, chính là đi “ngược lại”, lột tả những nét đặc trưng của địa danh
trên vùng ấy.
Bằng việc nghiên cứu địa danh, chúng ta sẽ tìm ra được nguồn gốc, ý nghĩa
trong việc đặt tên ở vùng phương ngữ. Mỗi địa danh đều gắn với những chủ thể ở
các giai đoạn xã hội, lịch sử mang dấu ấn văn hóa nhất định. Bên cạnh đó, là bộ
phận cấu thành hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ, địa danh và ngơn ngữ có quan
hệ biện chứng với nhau. Nó vừa là một hình thức biểu hiện phong phú, vừa chính
là phương thức tồn tại khá đặc biệt của ngơn ngữ. Do đó, có thể xem địa danh là
một loại cứ liệu lịch sử đối với việc nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển
từ vựng nói riêng và ngơn ngữ nói chung. Xét ở góc độ ngơn ngữ, việc nghiên cứu
địa danh có ý nghĩa và giá trị rất lớn, bởi địa danh có thể được xem là hiện thân
của lịch sử phát triển ngôn ngữ.
Là một trong những tỉnh của mảnh đất Tây Nguyên, Đăk Nông đã đi vào
huyền thoại sử sách với nhiều chiến công oanh liệt của các dân tộc thiểu số miền
3


núi qua sử thi và trường ca . Đây là nơi mang nhiều dấu ấn lịch sử dân tộc cho nên
việc tìm hiểu đặc điểm cấu tạo, phương thức địa danh, nguồn gốc, cấu tạo và ý
nghĩa địa danh ở Đăk Nơng sẽ có giá trị về nhiều mặt, góp phần làm phong phú
nguồn tư liệu cho vùng đất nói riêng và cho cơng trình nghiên cứu các địa danh ở
Việt Nam nói chung. Vì M’nơng , Ê đê nằm trong số các dân tộc sinh sống chủ
yếu ở Đắk Nơng, nên ít nhiều những địa danh nơi đây cũng được ra đời từ ngôn
ngữ của hai dân tộc ấy. Vậy nên trong niên luận này, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu về
Địa danh tiếng M’nơng , Ê đê ở Đăk Nơng. Việc nghiên cứu này sẽ góp phần vào

việc giữ gìn ngơn ngữ dân tộc và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của người
M’nơng, Ê đê. Bên cạnh đó, giúp ta hiểu đầy đủ hơn về nét văn hóa cũng như làm
phong phú hơn về mặt tư liệu của các dân tộc này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Việt Nam từ xưa đã khơng ít người có mối quan tâm đến địa danh. Dù
không phải là cách nghiên cứu như địa danh học nhưng đó cũng là những cơng
trình nghiên cứu về địa lý, lịch sử, hành chính nước nhà. Một số cơng trình tiêu
biểu như: Dư địa chí của Nguyễn Trãi ( 1380 – 1442). Đại Việt sử ký tồn thư của
Ngơ Sĩ Liên ( thế kỷ XV), Ô châu cận lục của Dương Văn An (1553), Lịch triều
hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1782 – 1840), Gia Định thành thơng chí
của Trịnh Hồi Đức ( 1765 – 1825), Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử quán
triều Nguyễn (1882),…
Tác phẩm Đất Việt trời Nam (1960) của Thái Văn Kiểm; đây có thể được
coi là một trong những tác giả đầu tiên ở Việt Nam đã tiếp cận địa danh dưới góc
nhìn lịch sử - văn hóa. Kế đến, tác giả Đào Duy Anh đã sử dụng phương pháp
nghiên cứu địa lý học lịch sử trong tác phẩm Đất nước Việt Nam qua các đời
(1964) nhằm làm rõ quá trình xác lập và phân định lãnh thổ của Việt Nam. Tác giả
Hoàng Thị Châu đã sử dụng các phương pháp ngôn ngữ học để nghiên cứu về địa
danh với tác phẩm Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên

4


sông (1964). Năm 1976, trong Thử bàn về địa danh Việt Nam, Trần Thanh Tâm
nêu một số vấn đề cơ bản về địa danh học Việt Nam.
Đặc biệt năm 1991, cơng trình Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh của tác
giả Lê Trung Hoa ra đời đã thực sự tạo ra bước ngoặt lớn cho khoa học nghiên cứu
địa danh ở Việt Nam. Đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu địa danh dưới góc độ
ngơn ngữ học và trình bày khá hệ thống những vấn đề mà người nghiên cứu địa

danh cần quan tâm ( phân loại và định nghĩa địa danh, nguyên tắc và phương pháo
nghiên cứu địa danh, các phương thức đặt địa danh, cấu tạo ý nghĩa địa danh, ý
nghĩa và nguồn gốc một số địa danh,…).
Tiếp theo đó là một số cuốn từ điển địa danh đáng chú ý lần lượt được xuất
hiện như Sổ tay địa danh Việt Nam của Đinh Xuân Vinh (1996), Sổ tay địa danh
Việt Nam của Nguyễn Dược – Trung Hải (1998), Từ điển bách khoa địa danh Hải
Phòng do Ngô Đăng Lợi chủ biên ( 1998), Từ điển địa danh thành phố Sài Gịn –
Hồ Chí Minh của Lê Trung Hoa (chủ biên) – Nguyễn Đình Tư (2003)…
Bên cạnh đó, cũng có nhiều luận văn nghiên cứu về địa danh ở các tỉnh
Nguyễn Kiên Trường với luận án Những vấn đề chính của địa danh Hải Phịng (sơ
bộ so sánh với một số vùng khác), đã bổ sung thêm những vấn đề về địa danh học
với cách phân loại địa danh tương đối khác so với Lê Trung Hoa. Rồi Từ Thu Mai
với Nghiên cứu địa danh Quảng Trị (2003), Những đặc điểm chính của địa danh
tỉnh Kiên Giang của Nguyễn Thị Kim Phú, Nghiên cứu địa danh tỉnh Quảng Bình
của Nguyễn Đình Hùng, Những đặc điểm chính của địa danh tỉnh Đăk Lăk của
Trần Văn Dũng, Đặc điểm địa danh Khánh Hịa của Lê Thị Diễm Trang.
Nhìn chung, dù đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về đề tài địa danh,
nhưng vẫn chưa chưa thấy có cơng trình nghiên cứu liên quan đến Đăk Nơng, do
vậy, tôi chọn đề tài Địa danh tiếng M’nông , Ê đê ở Đăk Nông với trọng tâm là
nghiên cứu địa danh dưới góc nhìn ngơn ngữ học, hy vọng sẽ đóng góp một phần
nhỏ của mình trong việc tìm hiểu và nghiên cứu địa danh.

5


3. Mục đích nghiên cứu

Thơng qua việc trình bày những tiền đề lý luận và thực tiễn, niên
luận sẽ hệ thống lại và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản của địa
đanh học như khái niệm, địa danh, đối tượng nghiên cứu, phương pháp

nghiên cứu, cách phân loại địa danh, phương thức cấu thành địa danh,…
Tìm hiểu về phương thức định danh, về đặc điểm cấu tạo, nguồn
gốc, ý nghĩa của địa danh tiếng M’nông , Ê đê ở Đắc Nơng qua đó đưa ra
một số nhận xét về sự giao thoa, tiếp xúc ngôn ngữ, văn hóa của địa
phương. Từ đó khẳng định vai trị và mối quan hệ giữa địa danh và các
ngành khoa học khác như ngôn ngữ, địa lý học, lịch sử học, văn hóa học,
dân tộc học, xã hội học.
Làm phong phú kho tàng lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực địa
danh, góp phần vào việc xây dựng, bảo tồn và phát triển ngôn ngữ của các
dân tộc Tây Nguyên.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Niên luận này lấy đối tượng nghiên cứu là hệ thống địa danh tiếng
M’nông, Ê đê ở Đắk Nơng, nghĩa là tồn bộ tên gọi các đối tượng địa ly1 tự
nhiên (sông, hồ, suối, núi, đồi,…); địa lý nơi cư trú ( làng, xã, thơn, xóm,
huyện, thị xã,…) và các đối tượng là cơng trình xây dựng thiên về không
gian hai chiều ( cầu, đường, chợ, bến xe,…) trên địa bàn Đắk Nông.
Niên luận nghiên cứu dưới góc độ ngơn ngữ học, chủ yếu là về mặt
từ vựng, ngữ nghĩa. Trong đó, đề tài chú trọng tìm hiểu đặc điểm cấu tạo,
nguồn gốc ra đời, ý nghĩa và giá trị hiện thực mà địa danh phản ánh.

Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, niên luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu
4.

sau:

6



Phương pháp thống kê phân loại : Sử dụng phương pháp này để tiến hành
thống kê, phân loại, miêu tả, đánh giá từ đó rút ra những nhận xét có liên quan đến
đề tài theo các tiêu chí phân loại hình, ngữ nguyên, cách thức đặt tên để phân
thành tiểu loại, dựa trên các nguồn tư liệu như sách báo, bản đồ, từ điển,…
Phương pháp so sánh, đối chiếu : thu nhập nhiều nguồn thông tin khác nhau,
so sánh đối chiếu và đưa ra thông tin phù hợp để đưa vào niên luận
Phương pháp địa lý học : Vì đời sống của cư dân bản địa ln gắn bó với thiên
nhiên. Các điều kiện tự nhiên – xã hội của địa bàn cũng được phản ánh qua địa
danh. Vì vậy phương pháp địa lý có vai trị quan trọng trong việ nghiên cứu địa
danh nói chung.
Phương pháp phân tích : áp dụng phương pháp này để phân tích những yếu tố
cấu tạo của địa danh
5.

Kết cấu niên luận

Ngoải phần dẫn nhập, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội
dung của niên luận cịn gồm có 3 chương chính sau :
Chương 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Những tiền đề lý luận và thực tiễn bao gồm các nội dung chính là cơ sở lý
luận về địa danh và địa danh học, mối quan hệ giữa địa danh với các ngành khoa
học khác nhau, ý nghĩa việc nghiên cứu địa danh; khái quát về địa bàn tỉnh Đắk
Nông cũng như khái quát về dân tộc M’nông và Ê đê
Chương 2 : Đặc điểm cấu tạo của các địa danh tiếng M’nông, Ê đê ở Đắk Nơng
Chương này sẽ phân loại địa danh và trình bày đặc đặc điểm cấu tạo địa
danh theo cấu tạo đơn, cấu tạo phức.
Chương 3 : Đặc điểm về nguồn gốc, ý nghĩa của địa danh tiếng M’nông, Ê đê ở
Đak Nông

7



Chương này trình bày về những đặc điểm nguồn gốc và đặc điểm ý nghĩa. Qua
đó, phản ánh hiện thực và tính võ đốn của địa danh nói chung cũng như địa danh
M’nơng Ê đê ở Đăk Nơng nói riêng.

CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Định nghĩa địa danh

Thuật ngữ địa danh có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp “Topos” ( địa điểm) và
“Omoma” / “Onyma” ( tên gọi). Đó là những tên gọi địa lý, tạo thành một hệ
thống riêng, tồn tại trong vốn từ vựng của các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về địa danh, bơi vì nó tùy vào cách lập luận và
hướng tiếp cận của mỗi tác giả.
A.V.Superanskaja nhận định “ Địa danh là tên gọi các địa điểm được biểu
thị bằng những tên riêng. Đó là các tên gọi địa lý, địa danh hay toponymia”, và
giải thích một cách cụ thể rằng “ Những địa điểm, mục tiêu địa lý đó là những vật
thể tự nhiên hay nhân tạo với sự định vị xác định trên bề mặt trái đất, từ những vật
thể lớn nhất đến những vật thể nhỏ nhất đều có tên gọi (cf. Từ Thu Mai) [84,
tr.20]. Cịn G.M.Kert thì định nghĩa : “Địa danh là tên gọi được đặt cho các đối
tượng địa lý, ra đời trong một khu vực có người sinh sống, được tạo ra bởi một
cộng đồng dân cư, một tộc người. Chúng là một phần không thể thiếu được trong
cuộc sống hằng ngày và các hoạt động chính trị - xã hội ở nơi đó”. Từ hai định
nghĩa trên, có thể thấy A.V.Superanskaja và G.M.Kert đã mô tả địa danh là tên gọi
của các đối tượng địa lý, được đặt cho các đối tượng địa lý.
Đào Duy Anh cho rằng “ Địa danh là các tên miền đất (nom de terre)” [8,
tr.16]. Trên quan điểm địa lý, văn hóa Nguyễn Văn Âu thì nhận định rằng “ Địa

8



danh là tên địa lý các địa phương; địa danh học là một khoa học chyên nghiên cứu
về tên địa lý các địa phương” [57, tr.5].
Bùi Đức Tịnh [2, tr.10] định nghĩa địa danh là “một danh từ có nghĩa tổng
quát để chỉ tên gọi các loại vật thể tự nhiên được phân biệt về phương diện địa lý,
các vị trí cần phân biệt trong sinh hoạt xã hội và các đơn vị được xác định trong tổ
chức hành chính hay quân sự.”.
Trong luận án Phó Tiến Sĩ khoa học của mình, nhà nghiên cứu Nguyễn
Kiên Trường đã định nghĩa “Địa danh là tên riêng chỉ các đối tượng địa lý tự nhiên
và nhân văn có vị trí xác định trên bề mặt trái đất.” [94, tr.16]. Cách định nghĩa
này nêu địa danh là những gì có trên bề mặt trái đất.
Từ Thu Mai quan niệm: “ Địa danh là những từ ngữ chỉ tên riêng của các
đối tượng địa lý có vị trí xác định trên bề mặt trái đất. Mặc dù nằm trong hệ thống
những loại hình khác nhau trong các đối tượng địa lý bao giờ cũng xuất hiện trong
thực tế với những cá thể độc lập”. [66,tr.19].
Trần Văn Dũng định nghĩa : “ Địa danh là tên gọi những đối tượng địa lý tự
nhiên và địa danh do con người kiến tạo”, trong đó “các đối tượng địa lý do con
người kiến tạo bao gồm : địa lý nơi cư trú, địa lý chỉ các công trình xây dựng” [27,
tr.15].
Có hai tác giả đưa ra định nghĩa địa danh dưới góc nhìn ngơn ngữ học, đó
là Hoàng Thị Châu và Lê Trung Hoa. Tác giả Hoàng Thị Châu cho rằng : “ Địa
danh là tên địa lý (toponym, geographical name ) là tên vùng, tên sông, tên núi, là
tên gọi các đối tượng địa hình khác nhau, tên nơi cư trú, tên hành chính,… do con
người đặt ra.” Còn tác giả Lê Trung Hoa Với cách tiếp cận từ góc độ ngơn ngữ
học, ơng đã đưa ra định nghĩa về địa danh như sau : “Địa danh là những từ hoặc
ngữ, được dùng làm tên riêng của các địa hình thiên nhiên, các đơn vị hành chánh,
các vùng lãnh thổ và các cơng trình xây dựng thiên về không gian hai chiều” [38,
tr.18].


9


Như vậy, chỉ riêng với định nghĩa về địa danh đã có khá nhiều ý kiến khác
nhau. Nhìn chung, có hai hướng tiếp cận là tiếp cận theo góc độ địa lý – văn hóa
và tiếp cận theo góc độ ngơn ngữ học. Như từ đầu đã nói địa danh là hiện thân của
lịch sử phát triển ngơn ngữ, chính vì vậy địa danh cũng nằm trong hệ thống từ
vựng của ngơn ngữ, do đó nó phải chịu sự tác động và ảnh hưởng của quy luật
ngôn ngữ về các mặt ngữ âm, từ vựng – ngữ nghĩa và ngữ pháp. Ngơn ngữ ln
biến đổim do đó địa danh cũng biến đổi theo. Bên cạnh đó, địa danh ra đời gắn
liền với lịch sử, văn hóa,…tức là nó mang lịch sử, văn hóa, xã hội,…vì thế nó
khơng chỉ là một tên gọi đơn thuần để phân biệt, mà còn phản ánh những nét văn
hóa, lịch sử, của dân tộc. Nói cách khác, địa danh mang tính xã hội và có tính biểu
trưng, chính vì vậy mà mọi người phải ln cố gắng phấn đấu, xây dựng và bảo vệ
nó như xây dựng và bảo vệ di sản văn hóa của dân tộc.
1.1.2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu và vị trí của địa danh học.
* Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của địa danh học
Đối tượng nghiên cứu của địa danh học chính là địa danh. Địa danh học
nghiên cứu tất cả các vấn đề có liên quan đến địa danh như nguồn gốc, xuất xứ,
quá trình chuyển đổi (trên cả hai bình diện đồng đại và lịch đại), phương thức cấu
tạo, giá trị phản ánh hiện thực.


Vị trí của địa danh học

Từ khi mới ra đời, địa danh học đã xác định vị trí khá quan trọng của mình
trong ngơn ngữ học. Ngơn ngữ học có ba ngành chính là ngữ âm học, từ vựng học
và ngữ pháp học. Từ vựng học có một ngành nhỏ hơn là danh xưng học, chuyên
nghiên cứu tên riêng. Danh xưng học lại chia thành hai ngành nhỏ hơn : nhân danh
học và địa danh học.

Địa danh học nghiên cứu về nguồn gốc, ý nghĩa và những chuyển biến của
địa danh.

10


Địa danh học chia thành nhiều ngành nhỏ hơn. Các ngành chỉ nghiên cứu
tên sông rạch (thủy danh) và tên núi đồi (sơn danh) gọi là thủy danh học và sơn
danh học. 8Ngành nghiên cứu tên các địa điểm quần cư (phương danh) được gọi là
phương danh học. Còn ngành chỉ nghiên cứu các đối tượng trong thành phố (phố
danh) như tên đường, tên phố, tên các quảng trường,…gọi là phố danh học.
1.1.3. Phân loại địa danh.

Tùy thuộc vào quan điểm, cách tiếp cận đối tượng cũng như phương pháp
và mục đích nghiên cứu mà mỗi nhà nghiên cứu đưa ra cách phân loại khác nhau.
Hoàng Thị Châu trong bài viết Về việc tìm sử liệu trong ngơn ngữ dân tộc
[38, tr.44-4] đã phân loại địa danh thành hai hệ thống là tiểu địa danh (gồm tên :
thơn xóm, gị đối, khe suối, đầm hồ,…) và đại địa danh (gồm tên : lục địa, đại
dương, nước, vùng, thủ đô, thành phố, sông biển,…).
Trần Thanh Tâm trong bài viết Thử bàn về địa danh Việt Nam đã chia địa
danh thành 6 loại:
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Loại đặt theo địa hình và đặc điểm
Loại đặt theo vị trí khơng gian và thời gian

Loại đặt theo tín ngưỡng và tơn giáo, lịch sử
Loại đặt theo hình thái đất đai và khí hậu
Loại đặt theo đặc sản, nghề nghiệp và tổ chức kinh tế
Loại đặt theo sinh hoạt xã hội

Tác giả Nguyễn Văn Âu trong hai tác phẩm Địa danh Việt Nam và Một số
vấn đề về địa danh học Việt Nam đã phân loại địa danh thành: 2 loại ( Địa danh tự
nhiên , Địa danh kinh tế - xã hội), 7 kiểu ( Thủy danh, sơn danh, lâm danh, làng
xã, huyện thị, tỉnh, thành phố, quốc gia), 12 dạng địa danh ( sơng ngịi, hồ đầm,
đồi núi, hải đảo, rừng rú, truông trảng, làng xã, quận huyện, thị trấn, tỉnh, thành
phố, quốc gia)
Trong luận án Phó tiến sĩ khoa học ngữ văn Những đặc điểm chính của địa
danh Hải Phòng, Nguyễn Kiên Trường đưa ra ba tiêu chí phân loại địa danh

11


1. Phân loại theo dạng đối tượng địa lí tự nhiên và địa lí nhân văn

+ Nhóm địa danh cư trú – hành chính và các địa danh gắn với hoạt động
của con người, do con người tạo nên
+ Nhóm địa danh đường phố và địa danh cơng trình xây dựng
2. Phân loại theo chức năng giao tiếp (biệt xưng, tục xưng, giản xưng,…) và theo hệ

chiếu đồng đại – lịch đại (cổ, cũ, hiện nay)
3. Phân loại theo nguồn gốc ngữ nguyên
- Địa danh có nguồn gốc Hán – Việt
- Địa danh có nguồn gốc thuần Việt
- Địa danh có nguồn Pháp
- Địa danh có nguồn gốc từ phương ngữ Quảng Đơng

- Địa danh có nguồn gốc khác (Tày – Thái, Việt – Mường, Chàm,…)
- Địa danh có nguồn gốc hỗn hợp và địa danh chưa xác định nguồn gốc.
Trong luận án tiến sĩ ngữ văn Những đặc điểm chính của địa danh Dak Lăk
của Trần Văn Dũng tác giả chia địa danh thành hai nhóm lớn :


-

Nhóm địa danh chỉ cac đối tượng tự nhiên
Nhóm địa danh chỉ các đối tượng do con người kiến tạo, gồm 2 nhóm nhỏ :
Loại địa danh chỉ đối tượng là nơi cư trú
Loại địa danh chỉ các cơng trình xây dựng
Về ngữ nguyên, tác giả chia địa danh làm 5 loại :

-

Địa danh gốc bản địa
Địa danh thuần Việt
Địa danh Hán – Việt
Địa danh gốc khác
Địa danh chưa xác định được nguồn gốc
Trong cuốn Địa danh học Việt Nam của Lê Trung Hoa, tác giả căn cứ vào
hai tiêu chí tự nhiên và không tự nhiên để chia địa danh thành hai nhóm lớn :



-

Địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên (hay cịn gọi là địa danh chỉ địa hình)
Địa danh chỉ các đối tượng nhân tạo, được chia làm 3 loại :

Địa danh chỉ các cơng trình xây dựng thiên về không gian hai chiều như : cầu,

-

cống, chợ, đường phố, công viên.
Địa danh chỉ các đơn vị hành chính như tên ấp, xã, phường, quận, huyện,…
12


-

-

Địa danh chỉ các vùng lãnh thổ khơng có ranh giới rõ ràng như vùng, khu, xóm,…
Về mặt ngữ nguyên, Lê Trung Hoa chia địa danh Việt Nam thành 4 nhóm
lớn :
Địa danh thuần Việt
Địa danh Hán Việt
Địa danh bằng các ngôn ngữ dân tộc thiểu số
Địa danh bằng các ngoại ngữ
1.2. THỰC TIỄN CỦA TỈNH ĐẮK NÔNG
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
• Vị trí địa lý
Tỉnh Đắk Nơng được tái lập vào ngày 01 tháng 01 năm 2004, theo Nghị
quyết số 23/2003/QH11 ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội trên
cơ sở chia tách tỉnh Đắk Lắk thành 2 tỉnh mới là Đắk Nông và Đắk Lắk.
Đắk Nơng nằm ở phía Tây Nam của vùng Tây Ngun, đoạn cuối dãy
Trường Sơn; được xác định trong khoảng tọa độ địa lý: 11 045’ đến 12050’ vĩ độ
Bắc, 107013’ đến 108010’ kinh độ Đơng. Phía Bắc và Đơng Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk,
phía Đơng và Đơng Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh

Bình Phước, phía Tây giáp Vương quốc Campuchia. Đắk Nơng là tỉnh nằm trong
khu vực tam giác phát triển Việt Nam – Lào – Campuchia.
Nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam của Tây Ngun, Đắk Nơng có Quốc lộ 14
nối thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Miền đơng Nam bộ với các tỉnh Tây
nguyên, cách Thành phố Hồ Chí Minh 230 km về phía Bắc và cách Thành phố
Ban Mê Thuột (Đắk Lăk) 120 km về phía Tây Nam; có Quốc lộ 28 nối Đắk Nơng
với Lâm Đồng, Bình Thuận và các tỉnh Duyên hải miền Trung, cách Thành phố
Đà Lạt (Lâm Đồng) 120 km và Thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) 160 km về
phía Đơng. Đăk Nơng có 130 km đường biên giới với nước bạn Campuchia, có 02
cửa khẩu Bu Prăng và Dak Peur nối thông với Mondulkiri, Kratie, Kandal, Pnom
Penh, Siem Reap, v.v.

13


Diện tích tự nhiên có 6.514,38 km 2, có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, thị
xã với dân số gần 516.300 người, cùng với 40 dân tộc anh em đang làm ăn, sinh
sống. Trung tâm tỉnh lỵ là thị xã Gia Nghĩa.
Trong tương lai, khi được triển khai thì các tuyến đường sắt Đắk NôngChơn Thành-Di An ra cảng Thị Vải, Đăk Nông – Tân Rai ra cảng Kê Gà sẽ mở ra
cơ hội lớn cho Đắk Nông đẩy mạnh khai thác các thế mạnh của tỉnh.
Vị trí địa lý như trên sẽ tạo điều kiện cho Đắk Nông có thể mở rộng giao
lưu với các tỉnh trong khu vực Tây nguyên; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam;
Duyên hải miền Trung và nước bạn Campuchia, là nguồn động lực để Đăk Nông
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, trong tương lai sẽ trở thành trung tâm phát
triển kinh tế năng động của khu vực Tây Nguyên.
• Địa hình
Đắk Nơng nằm trọn trên cao ngun M’Nơng, độ cao trung bình khoảng
600 m đến 700m so với mặt nước biển, có nơi lên đến 1.982m (Tà Đùng).
Địa hình Đăk Nơng chạy dài từ Đơng sang Tây, có độ cao trung bình
khoảng 800m, có nơi cao đến hơn 1.500m. Địa hình có hướng thấp dần từ Đơng

sang Tây. Các huyện Đăk Song, Đăk Mil, Cư Jut, Krông Nô thuộc lưu vực sông
Krông Nô, sông Srêpốk nên thấp dần từ Nam xuống Bắc. Các huyện Tuy Đức,
Đăk Rlâp, Đăk Glong và thị xã Gia Nghĩa thuộc thượng nguồn lưu vực sơng Đồng
Nai nên thấp dần từ Bắc xuống Nam.
Tóm lại, Đắk Nơng có địa hình đa dạng và phong phú, bị chia cắt mạnh, có
sự xen kẽ giữa các núi cao hùng vĩ, hiểm trở với các cao nguyên rộng lớn, dốc
thoải, lượn sóng, khá bằng phẳng xen kẽ các dải đồng bằng thấp trũng. Địa hình
thung lũng thấp, có độ dốc từ 0-30 chủ yếu phân bố dọc sông Krông Nô, Sêrêpôk,
thuộc các huyện Cư Jút, Krông Nô. Địa hình cao nguyên đất đỏ bazan chủ yếu ở
Đắk Mil, Đắk Song, độ cao trung bình 600 - 800 m, độ dốc khoảng 5-10 0. Địa hình

14


chia cắt mạnh và có độ dốc lớn > 15 0 phân bố chủ yếu trên địa bàn các huyện Đăk
Glong, Đắk R'Lấp.
• Khí hậu thời tiết
Đắk Nơng là khu vực chuyển tiếp giữa hai tiểu vùng khí hậu Tây
Nguyên và Đơng nam bộ, chế độ khí hậu mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt
đới gió mùa cận xích đạo, nhưng có sự nâng lên của địa hình nên có đặc trưng của
khí hậu cao ngun nhiệt đới ẩm, vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam khơ
nóng. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 4 đến hết tháng 11, mùa khô từ
tháng 12 đến hết tháng 3 năm sau, lượng mưa không đáng kể.
Nhiệt độ trung bình năm 22-230 C, nhiệt độ cao nhất 350 C, tháng nóng nhất
là tháng 4. Nhiệt độ thấp nhất 14 0C, tháng lạnh nhất vào tháng 12. Lượng mưa
trung bình năm 2.513 mm, lượng mưa cao nhất 3.000mm. Tháng mưa nhiều nhất
vào tháng 8, 9; mưa ít nhất vào tháng 1, 2. Độ ẩm khơng khí trung bình 84%. Độ
bốc hơi mùa khơ 14,6-15,7 mm/ngày, mùa mưa 1,5-1,7 mm/ngày.
• Thủy văn
Đắk Nơng có mạng lưới sơng suối, hồ, đập phân bố tương đối đều khắp.

Đây là điều kiện thuận lợi để khai thác nguồn nước phục vụ sản xuất nơng nghiệp,
cơng nghiệp, xây dựng các cơng trình thủy điện và phục vụ nhu cầu dân sinh. Các
sông chính chảy qua địa phận tỉnh gồm:
Sơng Sêrêpơk do hai nhánh sông Krông Nô và Krông Na hợp lưu
với nhau tại thác Buôn Dray. Khi chảy qua địa phận huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông,
do kiến tạo địa chất phức tạp, lịng sơng trở nên hẹp và dốc nên tạo ra các thác
nước lớn hùng vĩ, vừa có cảnh quan thiên nhiên đẹp, vừa có tiềm năng thủy điện
mang lại giá trị kinh tế. Đó là thác Trinh Nữ, Dray H'Linh, Gia Long, ĐraySap.
Các suối Đắk Gang, Đắk Nir, Dray H'Linh, Ea Tuor, Đắk Ken, Đắk Klou, Đắk Sor
cũng đều là thượng nguồn của sông Sêrêpôk.

15


Sông Krông Nô. Bắt nguồn từ dãy núi cao trên 2.000 m phía Đơng Nam
tỉnh Đắk Lắc, chảy qua huyện Krơng Nơ. Sơng Krơng Nơ có ý nghĩa rất quan
trọng đối với sản xuất và đời sống dân cư trong tỉnh. Còn nhiều suối lớn nhỏ khác
suối Đắk Mâm, Đắk Rơ, Đắk Rí, Đắk Nang là thượng nguồn của sơng Krông Nô.
Hệ thống sông suối thượng nguồn sông Đồng Nai. Sơng Đồng Nai dịng
chảy chính khơng chảy qua địa phận Đắk Nơng nhưng có nhiều sơng suối thượng
nguồn. Đáng kể nhất là: Suối Đắk Rung bắt nguồn từ khu vực Thuận Hạnh, Đắk
Nông với chiều dài 90 km. Suối Đắk Nơng có lưu lượng trung bình 12,44m 3/s.
Mơduyn dịng chảy trung bình 47,9 m3/skm2.Suối Đắk Bukso là ranh giới giữa
huyện Đắk Song và Đắk R'Lấp. Suối ĐắkR'Lấp có diện tích lưu vực 55,2 km 2, là
hệ thống suối đầu nguồn của thủy điện Thác Mơ. Suối Đắk R'Tih chảy về sông
Đồng Nai, đầu nguồn của thủy điện ĐắkR’tih và thủy điện Trị An.
Ngồi ra trên địa bàn tỉnh cịn có nhiều hồ, đập lớn vừa có tác dụng giữ
nước cho sản xuất nông, công nghiệp, thủy điện, vừa là tiềm năng để phát triển du
lịch như Hồ Tây, EaSnô, Ea T'Linh, Đắk Rông, Đak Đier, ĐăkR’tih, Đồng Nai
3,4.v.v.

1.2.2. Dân số và dân tộc
Tính đến năm 2011, dân số tồn tỉnh Đắk Nông đạt gần 516.300
người, mật độ dân số đạt 79 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần
78.300 người, dân số sống tại nông thôn đạt 438.000 người. Dân số nam đạt
272.900 người, trong khi đó nữ đạt 243.400 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân
theo địa phương tăng 14,4 ‰.
Dân cư phân bố không đều trên địa bàn các huyện, nơi đông dân cư chủ yếu
tập trung ở các trung tâm xã, thị trấn huyện lỵ, ven các trục đường quốc lộ, tỉnh lộ.
Có những vùng dân cư thưa thớt như một số xã của huyện Đắk Glong, Tuy Đức.
Dân số Đắk Nông là dân số trẻ, trong độ tuổi còn đi học khoảng 165.000
người, chiếm 32%; trong độ tuổi lao động có 325.000 người, chiếm 63%; độ tuổi
trên 60 chỉ có hơn 20.000 người.
16


Đắk Nơng là tỉnh có cộng đồng dân cư gồm 40 dân tộc cùng sinh sống.
Cộng đồng dân cư Đăk Nơng được hình thành từ: Đồng bào các dân tộc tại chỗ
như M’Nông, Mạ, Ê đê, Khmer…; đồng bào Kinh sinh sống lâu đời trên Tây
nguyên và đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc mới di cư vào lập nghiệp như
Tày, Thái, Mường, Nùng, Dao, Mông .v.v. Cơ cấu dân tộc đa dạng, chủ yếu là dân
tộc Kinh, M'Nơng, Nùng, H’Mơng v.v.
1.2.3. Tơn giáo- Tín ngưỡng

Đắk Nơng là vùng đất sinh sống từ hàng ngàn đời của đồng bào các dân tộc
tại chỗ, đồng thời cũng là vùng đất quần tụ của cư dân từ nhiều vùng miền về sinh
cơ, lập nghiệp nên đời sống tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng cũng vơ cùng phong
phú.
Đến nay, Đắk Nơng có hơn 170.000 người là tín đồ của hơn 10 tôn giáo
khác nhau, nhưng chủ yếu là Công giáo (hơn 100 ngàn, chiếm gần 20% dân số),
Tin lành (hơn 50 ngàn, chiếm tỷ lệ 10% dân số) và Phật giáo (hơn 20 ngàn, tỷ lệ

4% dân số).
Ngoài ra, đồng bào các dân tộc Đắk Nơng cịn có rất nhiều tín ngưỡng để
tôn thờ, đặc biệt là đồng bào các dân tộc tại chỗ thờ cúng Yàng (Trời), thần Núi,
thần Sông v.v. và rất nhiều lễ hội như: Lễ hội Đâm trâu (ăn trâu). Lễ mừng nhà
mới, Lễ mừng mùa, Lễ bỏ mả .v.v. phong phú và đặc sắc.
1.2.4.

Tài nguyên thiên nhiên

•Tài ngun đất:
Về thổ nhưỡng: Đất đai Đắk Nơng khá phong phú và đa dạng, nhưng chủ
yếu gồm 05 nhóm chính: Nhóm đất xám trên nền đá macma axit và đá cát chiếm
khoảng 40%trong tổng diện tích 651.561 ha và được phân bổ đều toàn tỉnh. Đất đỏ
bazan trên nền đá bazan phong hóa chiếm khoảng 35% diện tích, có tầng dày bình
quân 120 cm, phân bổ chủ yếu ở Đăk Mil, Đăk Song. Còn lại là đất đen bồi tụ trên
nền đá bazan, đất Gley và đất phù sa bồi tụ dọc các dịng sơng, suối.
17


Đăk Nông rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây công nghiệp dài
ngày như: Cà phê, cao su, chè, tiêu, điều trên nền đất xám, đất đỏ bazan; đồng thời
phát triển một diện tích lớn cây hàng năm như lúa, ngô và các loại cây công
nghiệp ngắn ngày khác trên đất đen bồi tụ, đất Gley và đất phù sa ven sơng suối.
• Tài ngun rừng:
Diện tích đất lâm nghiệp có rừng của Đắk Nơng là 279.510 ha chiếm 42,9%
diện tích đất tự nhiên. Rừng tự nhiên ở Đắk Nông nằm trong vùng hội tụ của hai
luồng thực vật với hai loại hình rừng: Rừng thường xanh phân bố chủ yếu ở các
vùng đất có lượng mưa lớn, độ ẩm cao, tầng đất sâu như Krông Nô, Đăk Song,
Đăk Glong, Tuy Đức. Rừng khộp phân bố chủ yếu ở các vùng đất có lượng mưa
thấp, điều kiện khắc nghiệt, các vùng lập địa xấu như bắc Đăk Mil, Cư Jut.

Rừng Đắk Nơng có nhiều hệ động vật và thực vật phong phú và đa dạng,
những khu rừng nguyên sinh có nhiều loại gỗ q và cây đặc sản vừa có giá trị
kinh tế, vừa có giá trị khoa học. Trong rừng cịn nhiều động vật q hiếm như voi,
gấu, hổ v.v. được ghi trong sách đỏ của nước ta và sách đỏ thế giới; có nhiều loại
dược liệu quí là nguồn nguyên liệu dồi dào để chế thuốc chữa bệnh trong y học
dân tộc.
•Tài nguyên nước:
Do chịu ảnh hưởng của khí hậu cao nguyên, lại nằm ở phía Tây, cuối dãy
Trường Sơn nên vào mùa khô thường mưa ít, nắng nóng kéo dài làm khơ hạn,
nhiều lúc thiếu nước gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất nông nghiệp và sinh
hoạt của dân cư nên tỉnh đã chủ động xây dựng nhiều hồ đập chứa nước mặt phục
vụ sinh hoạt và sản xuất nông, công nghiệp, thủy điện, vừa là tiềm năng để phát
triển du lịch như Hồ Tây, EaSnô, Ea T'Linh, Đắk Rông, Đak Đier, ĐăkR’tih, Đồng
Nai 3,4.v.v.
Hệ thống sông suối của Đắk Nông dày đặc và phân bố tương đối đều khắp.
Các sơng chính chảy qua địa phận tỉnh gồm hai hệ thống sống chính là: Sông
18


Sêrêpôk do hai nhánh sông Krông Nô và Krông Na hợp lưu, do kiến tạo địa chất
phức tạp, lịng sơng trở nên hẹp và dốc nên tạo ra các thác nước lớn hùng vĩ, vừa
có cảnh quan thiên nhiên đẹp, vừa có tiềm năng thủy điện như thác Trinh Nữ,
Dray H'Linh, Gia Long, Đray Sap. Thượng nguồn sông Đồng Nai gồm nhiều sông
suối Đăk Nông là thượng nguồn như Suối Đắk Rung, Đắk Nơng, Đắk Búk So,
Đắk R'lấp, Đắk R'tíh …
Sơng suối trên địa bàn tỉnh Đắk Nơng có tiềm năng thủy điện dồi dào. Hệ
thống suối đầu nguồn của các sơng Đồng Nai, Krơng Nơ, Sêrêpơk có thể xây dựng
nhiều cơng trình thủy điện lớn với .
• Tài ngun du lịch:
Đăk Nơng có nhiều thắng cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Các thác nước đẹp,

hùng vĩ, còn nguyên sơ nằm giữa rừng già như thác Trinh Nữ, thác Dray H'Linh,
Dray Sáp, thác Gia Long, thác Dray Nur, thác Diệu Thanh, thác Gấu, thác Chuông,
thác Diệu Thanh, thác Ngầm, thác Lưu Ly, thác Liêng Nung, thác Đắk Glun, thác
Ba tầng, v.v.
Những khu rừng nguyên sinh có thể xây dựng các khu du lịch sinh thái, dã
ngoại, cưỡi ngựa, sắn bắn, cắm trại trong các khu bảo tồn thiên nhiên Nam Nung
(25.000 ha), bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng (28.000 ha). Những hồ nước mênh mơng
có thể xây dựng các khu du lịch nghỉ dưỡng, đua thuyền như Hồ Tây, EaSnô, Đắk
Rông, Đak Đier, ĐăkR’tih, Đồng Nai 3,4.v.v.
Các bon làng đồng bào dân M’Nông, Mạ, Ê đê… là những vùng đất ẩn
chứa nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể quý báu, trong đó nổi bật hơn cả là
cồng chiêng và các bộ sử thi; với những nét sinh hoạt văn hóa truyền thống như Lễ
hội cồng chiêng, uống rượu cần, lễ hội đâm trâu...là những tiềm năng cho phát
triển du lịch văn hóa, dân tộc, nhân văn.

19


Đó là điều kiện để hình thành các cụm du lịch, tour du lịch nếu được kết nối
với các điểm du lịch của tỉnh Đắk Lắc, Bình Thuận, Lâm Đồng, Tp. Hồ Chí Minh
và Vương quốc Campuchia sẽ tạo nên hành trình du lịch hấp dẫn đối với du khách.
1.3. Khái quát về dân tộc M’nông

Tại Việt Nam, người M'Nông là một trong số 54 dân tộc được Nhà
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức cơng nhận. Địa bàn cư trú
của người M'Nông bao gồm những phần đất thuộc các huyện miền núi tây-nam
tỉnh Đắk Lắk, Đắc Nơng, Quảng Nam, Lâm Đồng và Bình Phước (chiếm trên
99,3%) của Việt Nam. Dân số của người M'Nông theo điều tra dân số năm 1999 là
92.451 người.
Dân tộc Mnông được coi là dân tộc bản địa, nhưng cư trú phân tán

và xen kẽ với nhiều dân tộc khác như Êđê, Co, Mạ và Xtiêng. Hiện nay người ta
thấy có nhiều nhóm Mnơng sau đây Dân tộc Mnơng được coi là dân tộc bản địa,
nhưng cư trú phân tán và xen kẽ với nhiều dân tộc khác như Êđê, Co, Mạ và
Xtiêng. Hiện nay người ta thấy có nhiều Mnơng sau đây:
-

Mnông Gar ở Nam hồ Lắc ( Đắc Lắc ) và Tây bắc Lâm Đồng.
Mnông Nong cư trú ở Đắc Nông và Đắc Mil ( Đắc Lắc )
Mnông kuênh ở huyện Krông Pách ( Đắc Lắc )
Mnông preh chủ yếu ở hai huyện Đắc Nông, Đắc Mil và một số ít ở phía Nam hồ

-

Lắc( Đắc Lắc ).
Mnơng Prơng phân tán ở các huyện Đắc Nông, Đắc Mil, Lắc và Ea Súp ( Lâm

-

Đồng ).
Mnông Rlâm sống chủ yếu ở huyện Lắc, gần gũi với người Êđê.
Mnông Buddawng ở bản Đôn của Ea Súp.
Mnông Chin ở huyện Lắc ( Đắc Lắc), Lạc Dương, Đức Trọng ( Lâm Đồng ).
Mnông Bu Nowrr ở huyện Đắc Nông và Đắc Mil( Đắc Lắc).
Mnơng Dih Bri, dân số ít, cư trú ở Đắc Nơng, về phía tả ngạn Ea Krơng ( Đắc

-

Lắc).
Mnơng Díp ở Đắc Mil (Đắc Lắc ) và Bù Đăng ( Bình Phước ).
Mnơng Bu Đêh ở giáp ranh giữa Đắc Lắc và Bình Phước.

Mnơng Si Tơ ở huyện Đắc Nơng, dường như là người Mạ bị Mnơng hóa.
Mnơng K’ah sống ở huyện Lắc, Đắc Nông, M’ đrăc( Đắc Lắc).
20


Ngồi ra, cịn có một số nhóm địa phương khác của người M'nông như:
M'nông Rơ Đe, M'nông R'ông, M'nông K'Ziêng... cư trú ở Campuchia. Do có
nhiều nhóm địa phương như vậy, nên cộng đồng dân tộc M'nơng có nhiều phương
ngữ, nhưng chủ yếu là phương ngữ M'nông miền Đông và phương ngữ M'nông
miền Tây.
1.4.

Khái quát về dân tộc Ê đê
Người Ê Đê là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Người Ê Đê

nói tiếng Ê Đê một ngơn ngữ thuộc phân nhóm ngơn ngữ Chăm, là ngôn ngữ
thuộc Ngữ chi Malay-Polynesia của hệ ngôn ngữ Nam Đảo. Người Ê Đê thuộc
nhóm chủng tộcAustronesia. Trước năm 1975, tại miền nam Việt Nam, trong văn
bản hành chính của Việt Nam Cộng Hoà, người Ê Đê được gọi là người
Rađê (Rhade). Dân tộc Ê Đê bao gồm khoảng gần một nửa triệu (~490.000 người)
đang sinh sống ở các nước trên thế giới như Campuchia, Việt Nam, Thái Lan,Hoa
Kỳ, Canada, Pháp, Phần Lan, Thụy Điển... Trong đó miền trung cao nguyên
của Việt Nam là quê hương bản địa lâu đời của người Ê Đê. Đây là nhóm dân tộc
có nguồn gốc từ nhóm tộc người nói tiếng Mã Lai từ các hải đảo Thái Bình
Dương đã có mặt lâu đời ở Đông Dương; truyền thống dân tộc vẫn mang đậm nét
mẫu hệ thể hiện dấu vết hải đảo của nhóm tộc người nói tiếng Malay-Polynesia.
Các nhóm địa phương bao gồm 9 phương ngữ là:
a. Ê đê Kpă : Là vùng Êđê ở quanh Buôn Ma Thuột đã được những người nghiên

cứu chọn làm vùng xây dựng chữ viết Êđê.

b. Ê đê Krung : Là tiếng địa phương Êđê ở giáp ranh với tỉnh Gia Lai.
c. Ê đê Ktul : Một phương ngữ Êđê ở vùng trung lưu Krông Buk và hạ lưu Krông
Pách.
d. Ê đê Adham : Là tiếng Êđê ở xung quanh vùng Buôn Hồ.
e. Ê đê M’thur (M’dhur) : Một phương ngữ Êđê ở vùng trung lưu sông Ea Ayun
(Sông Ba). Đây là vùng người Êđê chịu ảnh hưởng của người Gia Rai.
f. Ê đê Drao : Là tiếng Êđê ở vùng thương lưu sông Krông Pách.
g. Ê đê Blô : Một phương ngữ Êđê ở vùng đồi M’drak.
h. Ê đê Êpan : Đây là 3 nhóm Êđê có tên là Epan, Hwing, Ening ở phía bắc M’đrak.
21


i.

Ê đê Bih: Là tiếng Êđê ở vùng huyện Lak (tên cũ lả Lạc Thiện).
Các phương ngữ của tiếng Êđê nói trên là những tiếng địa
phương.Hiện nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về tiếng Êđê. Các cơng trình
này cho chúng ta biết rằng đây là một ngôn ngữ đơn lập khơng có thanh điệu.
Tiếng Êđê đã có một q trình biến đổi từ một ngơn ngữ đa tiết có phụ tố đến một
ngơn ngữ đơn tiết khơng có phụ tố. Trong vốn từ vựng của mình, tiếng Êđê có
nhiều lớp từ có nguồn gốc từ nhiều nhóm ngơn ngữ khác nhau ở khu vực. Ngoài
lớp từ thuộc cơ tần Nam Đảo (Austronesia), ngơn ngữ này cịn có nhiều từ thuộc
các ngôn ngữ Nam Á ( Austroasiastics), Thái- Kađai v.v. Từ cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX các nhà truyền giáo đã dùng con chữ La tinh phiên âm tiếng Êđê và do
đó bộ chữ cái Êđê bằng chữ La tinh đã được ra đời. Đến năm 1936, tồn quyền
Đơng Dương đã ban hành một Nghị định cơng nhận bộ chữ viết Êđê bằng mẫu tự
La tinh. Cho đến hiện nay, bộ chữ viết này vẫn đứng vững.
1.5.

Tiểu kết chương 1

Từ những cơ sở lí luận và thực tiễn được nêu trên, tôi rút ra được một số

kết luận như sau. Địa danh đóng vai trị quan trọng trong nhiều lĩnh vực đời sống
xã hội. Địa danh học là một ngành khoa học có mối quan hệ mật thiết với những
ngành thuộc lĩnh vực khoa học và nhân văn. Trong tư cách là một bộ phận của
ngôn ngữ, việc nghiên cứu địa danh cũng góp phần phản ánh đời sống ngơn ngữ.
Nhìn chung, dù cơ sở lí luận của địa danh học vẫn chưa có sự thống nhất nhưng
địa danh học đang dần khẳng định vị trí của mình, có vai trị quan trọng trong
ngành ngơn ngữ và là nền tảng cho những cơn trình nghiên cứu sau này.
Qua những nét khái quát về vị trí địa lí,địa hình, thời tiết khí hậu, dân cư,
tài ngun thiên nhiên,…về tỉnh Đăk Nơng, có thể thấy rằng nơi đây là một địa
bàn có rất nhiều dân tộc sinh sống, với nhiều đặc trưng giá trị về mặt dân tộc, xã
hội. Ngôn ngữ thông dụng và phổ biến ở vùng đất này là M’nơng và Ê đê, đó là lí
do phần lớn các địa danh đều được tạo thành từ 2 loại ngơn ngữ này, Từ đó có thể
thấy rằng, những cứ liệu về Đăk Nơng được xem là có tính tiêu biểu cho địa danh
22


Tây Nguyên, đồng thời cũng là cơ sở cho việc nghiên cứu về những đặc điểm của
địa danh ở Đăk Nông.

23


CHƯƠNG 2 : ĐẶC ĐIỂM VỀ MẶT CẤU TẠO CỦA ĐỊA DANH TIẾNG
M’NÔNG/ Ê ĐÊ Ở ĐẮK NÔNG
Trong chương này, chúng tơi sẽ trình bày 2 phần. Phần 1 là phân loại địa
danh tiếng M’nơng, Ê đê theo loại hình và số lượng âm tiết. Phần 2 là trình bày
đặc điểm cấu tạo địa danh tiếng M’nông, Ê đê theo cấu tạo đơn và cấu tạo phức.
2.1. Kết quả thu nhập và phân loại

Sau khi thu nhập từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau và q trình tìm hiểu,
chúng tơi đã thống kê được 194 địa danh – là những địa danh mang nguồn gốc
tiếng M’nông và Ê đê ở tỉnh Đăk Nơng. Tuy nhiên vì số lượng địa danh tiếng Ê đê
không nhiều, nên chúng tôi sẽ đặt chung vào với địa danh M’nông. Dưới đây là
phần phân loại địa danh dựa theo 2 tiêu chí là phân loại theo loại hình và phân loại
theo số lượng âm tiết.
2.1.1. Phân loại địa danh theo loại hình
Trong tiêu chí phân loại địa danh theo loại hình, chúng tơi sẽ chia hệ thống
địa danh tiếng M’nông, Ê đê tại Đắk Nông thành 4 loại : Địa danh tự nhiên, địa
danh hành chính, địa danh chỉ cơng trình xây dựng và địa danh vùng
• Địa danh tự nhiên
Đắk Nơng có các địa danh tự nhiên được chia thành các tiểu loại như :
sông, thác, suối, hồ, đập…Chẳng hạn như :
- Sông : Sông Ea Krông Nô, sông Ea Drich, sông Đắk B’lấp, sông Đắk
Đăm, sông Đắk Đo
- Thác : thác Đ’ray Sap, thác Đ’ray Nu (Krông Nô), thác Đắk Glun (Quảng
Tâm - Tuy Đức), thác Đắk P’lao (Đắk Som - Đắk Glong),….
- Suối : Suối Đắk Gang, suối Đắk Nirsuối Ea Tuor, suối Đắk Ken, suối Đắk
Klou, suối Đắk Sor,
24


- Hồ : hồ Ea T'Linh, hồ Đak Đier, hồ Ea Snơ,…
- Đập : đập Đắk R’tăng, đập Đắk Lía, đập Đắk Zền, đập Bu Bu Gia, đập
Bơn Ja Lú, đập Bu Đơr,….
• Địa danh hành chính
Trên thực tế, Đắk Nơng là tỉnh có 1 thị xã và 7 huyện trực thuộc. Trong đó
có 71 đơn vị hành chính cấp xã bao gồm 61 xã, 5 phường và 5 thị trấn. Theo kết
quả thu được, trong số 71 địa danh hành chính ở Đắk Nơng, đã có 43 địa danh
hành chính được tạo ra từ tiếng M’nơng, Ê đê :


Huyện : Cư Jút, Đắk Glong, Đắk Mil, Đắk R’lấp, Đắk Song, Krông Nô.
Xã : Đắk Sắk, Đắk Lao, Đắk R'La, Đắk N'Drót, xã Đắk Gang, xã Đắk Wer, xã Ea
-

-

Pơ, xã Đắk R’Moan, xã Đắk R’La, xã Đắk R’Măng, xã Đắk Búk So, xã Đắk Nia,
-

xã Nâm Nung, xã Đắk Drơ, xã Đắk Hịa,…
Thị trấn : Ea T’ling, Đắk Mil, Đắk Mâm,..
Thơn : thơn Đăk Hồ 1, thơn Đăk Ri, thôn Đăk Na, thôn Đắk Hợp, thôn Đăk

-

Mrang, thôn Đăk Tân, thơn Đăk Kuăl 1, thơn Đăk R'mo 1,..
Ngồi ra, Đắk Nơng cịn có 2 cửa khẩu lớn là : Bu Prăng và Đắk Peur
• Địa danh chỉ cơng trình xây dựng
Địa danh chỉ cơng trình thủy lợi như Đắk Blung ( Tuy Đức), Đắk Lưu
(Krông Nô), Bon Choih ( Krông Nô).

-

Địa danh chỉ đường như Đắk Sắk (Đắk Săk),…
Địa danh chỉ ngã ba như : Bon Me (Quảng Tân),…
Địa danh chỉ cầu như Đắk Rơ (Krơng Nơ),…
• Địa danh vùng
Phần lớn địa danh vùng được tạo thành từ tiếng M’nông, Ê đê. Chẳng hạn
như :

Bon : bon SRê l, bon Đăk Huýt, bon Đăk Găn, bon Bu Ndrong A, bon Bu
Ndrong B, bon Đắk Trí, bon Đăk Me, bon Bu N'drung, bon Bu Prâng, bon Bu
25


×