Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Địa danh tiếng Hoa ở tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh Niên luận Ngôn Ngữ Học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.35 KB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ

NIÊN LUẬN
CHUYEENH NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
Đề tài

ĐỊA DANH TIẾNG HOA Ở TỈNH SÓC TRĂNG
VÀ TRÀ VINH

GVHD: PGS.TS Nguyễn Công Đức
SVTH:
LỚP:
MSSV:

TP.HCM, ngày tháng năm


Mục lục
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề.......................................................................................................3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.............................................................................8
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................8
5. Kết cấu niên luận...................................................................................................9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT...........................................................................10
1.1.

Về địa danh học................................................................................................10

1.1.1.



Khái niệm địa danh....................................................................................10

1.1.2.

Phân loại địa danh.....................................................................................12

1.1.3.

Về địa danh tiếng Hoa...............................................................................15

1.2.

Vài nét về địa bàn tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh.................................................16

1.2.1.

Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên..............................................................16

1.2.2.

Lịch sử và địa giới hành chính...................................................................20

1.2.3.

Đặc điểm dân cư........................................................................................25

1.2.4.

Đặc điểm ngôn ngữ....................................................................................26


1.2.5.

Kết quả thu thập và phân loại địa danh......................................................28

1.3.

Tiểu kết............................................................................................................33

CHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI ĐỊA DANH TIẾNG HOA TỈNH SÓC TRĂNG VÀ TRÀ
VINH.........................................................................................................................35
2.1.

Phân loại theo đối tượng...................................................................................35

2.1.1.

Địa danh chỉ địa hình.................................................................................35

2.1.2.

Địa danh chỉ hành chính............................................................................37

2.1.3.

Địa danh vùng...........................................................................................47

2.1.4.

Địa danh chỉ cơng trình xây dựng..............................................................48


2.2.

Phân loại theo đối tượng...................................................................................52

2


2.2.1.

Địa danh chỉ địa hình.................................................................................52

2.2.2.

Địa danh hành chính..................................................................................55

2.2.3.

Địa danh chỉ vùng......................................................................................64

2.2.4.

Địa danh chỉ cơng trình xây dựng..............................................................65

2.3.

Phân loại theo âm tiết.......................................................................................71

2.3.1.


Địa danh đơn tiết.......................................................................................71

2.3.2.

Địa danh đa tiết..........................................................................................71

2.4.

Tiểu kết............................................................................................................72

CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA CỦA MỘT SỐ ĐỊA DANH TIẾNG HOA Ở TỈNH SÓC
TRĂNG, TRÀ VINH VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC................73
3.1. Thành tố chung....................................................................................................73
3.2. Ý nghĩa một số địa danh tiếng Hoa ở tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh.......................73
3.3. Giá trị phản ánh hiện thực địa danh tiếng Hoa ở tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh......75
3.3.1. Giá trị phản ánh về lịch sử............................................................................75
3.3.2. Giá trị phản ánh về mặt tự nhiên......................................................................75
3.3.3. Giá trị phản ánh về tín ngưỡng, văn hóa.......................................................75
3.3.4. Giá trị phản ánh về mặt ngôn ngữ.................................................................75
3.5. Tiểu kết................................................................................................................75
KẾT LUẬN................................................................................................................77
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................78
PHỤ LỤC................................................................................................................... 80

3


DẪN NHẬP
1.


Lý do chọn đề tài

Địa danh là đối tượng nghiên cứu của ngơn ngữ học, có chức năng định danh
sự vật, nguồn gốc và ý nghĩa nhất định. Hiểu rõ những đặc điểm ngôn ngữ trong
phương thức cấu tạo địa danh sẽ là nguồn tư liệu quý giá cho nhiều ngành khoa học
khác như lịch sử học, địa lý học, dân tộc học, văn hóa học,… Bên cạnh đó, địa danh
gắn bó chặt chẽ với văn hố và có mối quan hệ khăng khít với địa lý cũng như lịch
sử phát triển dân cư của một vùng. Ở một vùng đất có nhiều dân tộc cộng cư với
nhau, địa danh ở nơi đó cũng mang dấu tích của nhiều ngôn ngữ khác nhau. Những
địa danh ấy đã trở thành những đài kỉ niệm bằng ngôn ngữ độc đáo, lưu trữ các thơng
tin văn hóa về thời đại mà nó chào đời, được lưu giữ mãi về sau.
Sóc Trăng và Trà Vinh là hai tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long- là nơi hội
tụ, giao thoa và phát triển của ba dân tộc Kinh - Khmer - Hoa. Trên bước đường hình
thành và phát triển hai vùng đất này đã sản sinh ra những tên đất, tên làng, tạo thành
một hệ thống địa danh phản ánh những nét đặc trưng của người Hoa. Một mặt, q
trình sưu tầm, phân tích, giải thích địa danh tiếng Hoa ở hai tỉnh giúp chúng tơi hiểu
rõ hơn về lịch sử, văn hóa, địa hình của con người nơi đây. Mặt khác, việc nghiên cứu
còn nhằm bổ sung một phần tư liệu cho ngành địa danh học Việt Nam.
Địa danh tiếng Hoa ở hai tỉnh này khá phong phú, đa dạng do quá trình tiếp
xúc giữa tiếng Việt và tiếng Hán diễn ra trong một thời gian dài. Ở góc độ hiểu biết,
địa danh tiếng Hoa là những từ gốc Hán được chia thành ba loại là từ Hán Việt cổ, từ
Hán Việt và từ Hán Việt Việt hóa. Tuy nhiên, chúng tơi chỉ trình bày các địa danh có
nguồn gốc là từ Hán Việt vì từ Hán Việt cổ và từ Hán Việt Việt hóa đã thực sự hịa
nhập vào trong số những từ Việt vốn có (từ “thuần Việt”) gây khó khăn trong việc
nhận diện. Tính đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu về địa
danh tiếng Hoa của hai vùng đất này dưới góc độ ngơn ngữ. Cho nên đây là một đề tài
nhiều vấn đề phức tạp, nhưng với mong muốn giải đáp thắc mắc về những tên gọi
quen thuộc và trên hết là góp phần nhỏ về những tiền đề lý luận, thực tiễn trong việc
nghiên cứu địa danh tiếng Hoa, nên chúng tôi chọn đối tượng này để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề

2.1. Nghiên cứu địa danh ở Việt Nam

4


Có thể nói, nghiên cứu địa danh học Việt Nam được hình thành khá lâu đời.
Ban đầu việc tìm hiểu này được phôi thai trong các tản văn, sách biên khảo địa
phương chí theo kiểu “địa danh địa chí”. Các tác phẩm Dư địa chí (1380 – 1442) của
Nguyễn Trãi , Đại Việt sử ký toàn thư (thế kỷ XV) của Ngơ Sỹ Liên, Ơ châu cận lục
(1553) của Dương Văn An, Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn …
Thời Nguyễn, Lê Quang Định (1760 - 1813) viết bộ sách 10 quyển Hồng Việt
nhất thống dư địa chí (1806) nội dung ghi lại đầy đủ hệ thống giao thông đường bộ
lẫn đường thủy nước ta vào đầu thế kỷ XIX. Tác giả không những mô tả chi tiết về
đường đi, các dịch trạm, các địa danh, sông núi, khe suối,… mà còn chú giải cụ thể
những mặt mạnh mặt yếu, chỗ hiểm chỗ thuận lợi của từng địa phương. Bộ sách này
được vua quan triều Nguyễn đánh giá cao và trở thành công cụ tra cứu cho các cơng
trình địa chí về sau.
Trịnh Hồi Đức (1765 – 1825) với bộ Gia Định thành thơng chí nội dung kiến
giải về nguồn gốc ý nghĩa địa lý tự nhiên, địa lý kinh tế của năm trấn thuộc Gia Định
thành. Bao gồm ba tập Thượng, Trung, Hạ, chia làm sáu phần: Tinh dã chí, Sơn xuyên
chí, Cương vực chí, Phong tục chí, Sản vật chí và Thành trì chí.
Thời Minh Mạng, Phan Huy Chú (1782 – 1840) với bộ Lịch triều hiến chương
loại chí được đánh giá là “một bộ bách khoa tồn thư về cuộc sống ở Việt Nam mà
khơng có cơng trình nào sánh nổi về bề rộng của phạm vi các vấn đề”. Ngồi ra, cịn
có Đại nam địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu, Thối thực ký văn của Trương
Quốc Dụng…
Thời Tự Đức, Đặng Xuân Bảng (1828 – 1910) biên soạn Sử học bị khảo đã đề
cập đến những vấn đề địa lý học cũng như những chuyển biến địa danh trong lịch sử.
Có thể nói, đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu địa danh ở Việt Nam có đề cập đến
các vấn đề phân loại địa danh, đánh dấu nước chuyển mình của việc nghiên cứu địa

danh từ lẻ tẻ sang một cách có khoa học hơn.
Nhóm tác giả Hồng Hữu Xứng, Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình, Nguyễn
Thuật, Hồng Hữu Thường biên soạn quyển Đại Nam quốc cương giới vựng biên
(1886) ghi chép danh sách và vị trí các cấp hành chính trực thuộc từ tỉnh, phủ, huyện,
xã, thơn, ấp; phong tục; khí hậu; danh thắng… các tỉnh từ Hà Nội đến Bình Thuận.
Để phục vụ cho mục đích xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã đưa nhiều
chuyên gia nghiên cứu về đất nước, con người Việt Nam, trong đó có địa danh. Có thể
5


kể tên một số cơng trình tiêu biểu như: Nghiên cứu về tập quán và ngôn ngữ của
người Lô Lô và La Quả (1908) của A. Bonifacy; Tài liệu nghiên cứu ngôn ngữ
STiêng (1955) của H. Maspero, Nhận xét về địa lý ngôn ngữ Á, Úc (1966) của
A.G.Haudricourt,…
Giữa thế kỉ XX địa danh học Việt Nam có sự phát triển đáng kể. Mở đầu là hai
bài viết của Hoàng Thị Châu là Về việc tìm sử liệu trong ngơn ngữ dân tộc (1964) và
Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông (1967) đã áp
dụng các phương pháp ngôn ngữ học để nghiên cứu địa danh. Nhiều cơng trình xuất
hiện trên các báo và tạp chí như: Phương pháp vận dụng địa danh học trong nghiên
cứu địa lý học, Lịch sử cổ đại Việt Nam (1984) của Đinh Văn Nhật, Những đặc điểm
cấu thành địa danh Bến Tre (1985) của Nguyễn Phương Thảo, Sự hình thành và diễn
biến của các tên làng người Việt cho đến năm 1945 (1987) của Bùi Thiết,…
Những năm đầu thập niên 1990, ngành địa danh học Việt Nam có một bước
ngoặt lớn với nhiều cơng trình nghiên cứu, luận án, sách lý luận và từ điển địa danh.
Năm 1990, Lê Trung Hoa với luận án Những đặc điểm chính của địa danh ở thành
phố Hồ Chí Minh. Luận án đã trình bày một cách có hệ thống về định nghĩa, cấu tạo,
ý nghĩa và giá trị phản ánh hiện thực của địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngồi
ra, Lê Trung Hoa cũng viết nhiều bài viết như: Tìm hiểu ý nghĩa và nguồn gốc một số
thành tố chung trong địa danh Nam Bộ (1983), Địa danh bằng chữ và địa danh bằng
số (1999), Vấn đề biên soạn từ điển địa danh (2003),... Bên cạnh đó, cịn có quyển

Địa danh học Việt Nam (2006) tìm hiểu những vấn đề cụ thể cũng như lý giải ý nghĩa
nguồn gốc của địa danh Việt Nam.
Bùi Đức Tịnh (1999) với quyển Lược khảo nguồn địa danh Nam Bộ chỉ ra vấn
đề quan trọng về địa danh ở Nam Bộ. Theo tác giả, địa danh dùng cho bốn loại thể:
các vật thể thiên nhiên với cách gọi đặc biệt của Nam Bộ như: bãi, bàu, bưng; các vị
trí có liên quan đến giao thơng như: bến, cầu; các vị trí tập hợp dân cư như: chợ, xóm;
các đơn vị hành chính qn sự như: dinh, đồn,…Ngồi ra, ơng cũng tìm hiểu những
biến đổi liên hệ đến địa danh, những từ tố thường thấy trong địa danh ở Nam Bộ: Ba,
Bà, Cái, Trà.
Nguyễn Văn Âu (2000) cho ra đời cơng trình Một số vấn đề về địa danh học
Việt Nam. Đây là cơng trình có tính chun khảo về địa danh trong ngành khoa học về
địa danh ở nước ta bao gồm hai phần: phần khái quát và phần địa danh cụ thể. Trong
phần khái quát giới thiệu những cơ sở lý luận chung cho việc nghiên cứu địa danh,
6


phần địa danh cụ thể thì xếp thành hai loại lớn là địa danh chỉ địa hình và địa danh
hành chính.
Nguyễn Hữu Hiếu (2005) cho ra đời quyển Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam
Bộ qua chuyện tích và giả thuyết qua đó tác giả đi sâu nghiên cứu một số đặc điểm về
địa danh cũng như giới thiệu nguồn gốc từ những chuyện kể, giả thuyết trong dân
gian.
Các luận án Nghiên cứu địa danh Quảng Trị (2003) của Từ Thu Mai, Những
đặc điểm chính của địa danh Đăk Lăk (2004) của Trần Văn Dũng, Những đặc điểm
chung của địa danh tỉnh Vĩnh Long (2008) của Nguyễn Tấn Anh…
Ngoài ra, có một số từ điển địa danh cũng được xuất bản như: Sổ tay địa danh
Việt Nam (1995) của Đinh Xuân Vịnh, Sổ tay địa danh Việt Nam (1998) của Nguyễn
Dược – Trung Hải, Từ điển bách khoa địa danh Hải Phịng do Ngơ Đăng Lợi chủ
biên (1998), Từ điển địa danh thành phố Sài Gịn – Hồ Chí Minh của Lê Trung hoa
(chủ biên).

Như vậy, nhìn chung việc nghiên cứu địa danh Việt Nam đã và đang được
nhiều nhà khoa học quan tâm. Những tư liệu quý giá vừa nêu đã hỗ trợ chúng tơi rất
nhiều trong q trình khảo sát, nghiên cứu và thực hiện niên luận này.
2.2.

Nghiên cứu về địa danh ở tỉnh Sóc Trăng

Những cơng trình nghiên cứu về địa danh ở tỉnh Sóc Trăng bao gồm một số tài
liệu như sau:
Trong cuốn Địa phương chí tỉnh Ba Xuyên được nhà nước Việt Nam cộng hòa
xuất bản vào năm 1971. Có thể nói đây là quyển địa chí duy nhất mà chúng tơi tìm
thấy viết về tỉnh Sóc Trăng. Nội dung quyển sách gồm tám phần. Tuy nhiên, chỉ có
phần thứ nhất của quyển sách đề cập đến lịch sử, di tích, danh lam thắng cảnh. Đây là
một tài liệu quan trọng và rất có giá trị trong việc tìm hiểu địa danh nơi đây.
Tài liệu hội thảo khoa học lịch sử hình thành và phát triển tỉnh Sóc Trăng
trước 1945 là tài liệu tập hợp nhiều bài viết có tính chất khoa học. Những bài viết này
tập trung nghiên cứu, trình bày lịch sử hình thành, phong tục tạp quán, văn hóa của ba
dân tộc: Kinh- Khmer- Hoa.Trong đó có vài bài viết về địa danh nhưng khá ít. Các

7


nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra nhiều giả thuyết, nhiều cách giải thích về những địa
danh của tỉnh.
Ngồi ra, cịn có luận văn thạc sĩ Ngơn ngữ học của tác giả Nguyễn Thúy
Diễm với đề tài Nghiên cứu địa danh tỉnh Sóc Trăng đã góp một phần nhỏ về những
tiền đề lý luận, thực tiễn trong việc nghiên cứu địa danh nói chung.
Tóm lại, có thể khái quát hiện trạng nghiên cứu về địa danh Sóc Trăng là chưa
thực sự xem địa danh như là một đối tượng chính để đi sâu vào nghiên cứu mà chỉ
dừng lại ở việc xem xét, đánh giá nó.

2.3.

Nghiên cứu về địa danh ở tỉnh Trà Vinh

Những cơng trình nghiên cứu về địa danh ở tỉnh Trà Vinh bao gồm một số tài
liệu như sau:
Quyển Phủ biên tạp lục của Lê Q Đơn (1726 – 1783) được viết vào khoảng
1776, thời điểm đang diễn ra cuộc khẩn hoang, mở rộng lãnh thổ về phía Nam. Tác
phẩm có những tư liệu q về cảnh quan, môi trường thiên nhiên, những biến động
kinh tế và chính trị vùng sơng Tiền, sơng Hậu nói riêng, vùng đất Nam Bộ nói chung.
Tác phẩm Gia Định thành thơng chí của Trịnh Hồi Đức (1765 – 1725) được
viết vào khoảng thời vua Gia Long (1802 – 1820). Đây là quyển địa phương chí đầu
tiên đề cập một cách khái quát về địa giới, khí hậu, vùng đất, con người, sản vật, núi
sơng, phong tục và tình hình kinh tế vùng đất Nam Bộ nói chung, trong đó có vùng
đất Trà Vinh nói riêng ở thế kỷ XVII – XVIII.
Quyển Địa phương chí tỉnh Vĩnh Bình (1973) cơ bản nói được những đặc điểm
cùng vùng đất Vĩnh Bình thời ấy, giúp ta hiểu thêm hơn về vùng đất Trà Vinh xưa.
Các tác giả trình bày rất rõ về địa lý, lịch sử, văn hóa và một số địa danh của vùng đất
Vĩnh Bình này.
Việc biên soạn quyển Monographie de la province de Trà Vinh (1903) của
L.Mesnard giúp phần nào hiểu thêm về địa lý hành chính của Trà Vinh cuối thế kỷ
XIX.
Quyển Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh) của
Nguyễn Đình Đầu được viết năm 1994. Đây là tài liệu nghiên cứu địa danh hành
chính vùng đất Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh thời Pháp thuộc. Qua đó, chúng ta cũng
8


biết được sự sở hữu ruộng đất của nhà Nguyễn cũng như một số địa danh Hán Việt
của tỉnh lúc bấy giờ.

Ngồi ra, cịn có luận văn thạc sĩ chun ngành văn hóa học của tác giả Lý Thị
Minh Ngọc về Văn hóa qua địa danh ở tỉnh Trà Vinh đã góp một phần nhỏ về những
tiền đề thực tiễn và lý luận khi làm niên luận này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là địa danh tiếng Hoa ở tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Trà Vinh.
Chúng tôi sẽ tập trung khảo sát tên gọi các đối tượng địa lý tồn tại trên địa bàn. Cụ
thể đó là địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên hay cịn gọi là địa danh chỉ địa hình
(bàu, kinh, sơng, rạch,…), địa danh chỉ các cơng trình xây dựng (cầu, đường, bến
phà, bến đị, chợ,…), địa danh hành chính (thành phố, thị trấn, thị xã, phường, xã,
ấp,…), địa danh vùng (khu công nghiệp, cụm công nghiệp,…).
Phạm vi nghiên cứu niên luận chủ yếu liệt kê địa danh tiếng Hoa và bước đầu
tìm hiều ý nghĩa của những địa danh tiếng Hoa này ở Sóc Trăng và Trà Vinh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong niên luận này, chúng tôi sử dụng các thủ pháp và phương pháp nghiên
cứu như sau:
- Phương pháp nghiên cứu và thu thập tư liệu: đây là phương pháp được vận
dụng đầu tiên vì giúp chúng tơi thu thập nguồn dữ liệu chính. Bởi vì đối tượng nghiên
cứu là địa danh. Tư liệu chúng tôi thu thập được gồm nhiều nguồn khác nhau:
+ Tư liệu lưu trữ hành chính từ trước đến nay của hai tỉnh tồn tại dưới dạng các văn
bản được cán bộ địa phương lưu trữ. Những tư liệu này có tính pháp lý, tính chính
xác cao có thể cho biết sự ra đời, biến đổi hoặc mất đi của các địa danh, nhất là địa
danh hành chính.
+ Bản đồ ề các loại địa hình, hành chính, kinh tế, quân sự qua các thời kỳ.
+ Báo, tạp chí: các báo địa phương và các bài báo viết về địa phương.
+ Các trang web: một số trang về du lịch, văn hóa nghệ thuật của hai tỉnh.
- Phương pháp khảo sát bản đồ: đây là phân đoạn được thực hiện sau khi thu
thập các tư liệu theo hai bình diện đồng đại và lịch đại để phát hiện ra địa danh tiếng
Hoa.

9



- Phương pháp thống kê, phân loại: đây là phương pháp quan trọng. Bước
đầu thu thập tài liệu từ bảng thống kê của các cơ quan chức năng và từ các bản đồ, từ
điển, địa phương chí hai tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh. Rồi sau đó thống kê ngơn ngữ
học để tìm địa danh Hán Việt có tần số xuất hiện và tiến hành phân loại theo đối
tượng và số lượng âm tiết địa danh tiếng Hoa.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: Sau khi tiến hành liệt kê, phân loại chúng
tôi tiến hành so sánh đối chiếu địa danh tiếng Hoa giữa hai tỉnh trên để xác định
nguồn gốc và ý nghĩa ban đầu của địa danh. Ngoài ra, áp dụng nghiên cứu tổng hợp,
liên ngành để bài niên luận mang tính khoa học hơn.
5. Kết cấu niên luận
Niên luận chia làm ba phần. Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, nội dung chính được
trình bày trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết : Trình bày những vấn đề lý thuyết xoay quanh niên luận
bao gồm định nghĩa, nêu đối tượng và phân loại địa danh. Đồng thời, phân tích về địa
danh tiếng Hoa hay địa danh Hán Việt cũng như vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của
tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh, từ đó có cái nhìn bao qt để tiến hành nghiên cứu.
Chương 2: Phân loại địa danh tiếng Hoa ở tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh. Sau khi đã có
kết quả phân loại địa danh ở chương 1, chúng tôi tiến hành phân loại chi tiết địa danh
tiếng Hoa ở tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh: phân loại theo đối tượng và phân loại theo
âm tiết.
Chương 3: Ý nghĩa và những giá trị phản ánh hiện thực của một số địa danh tiếng
Hoa ở tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh. Trong chương này, chúng tơi tiến hành trình bày
thành thành tố chung, nêu ý nghĩa của một số địa danh Hán Việt, cũng như bước đầu
so sánh địa danh tiếng Hoa của hai tỉnh, qua đó tìm thấy được những giá trị phản ánh
hiện thực khách quan do địa danh mang lại.

10



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Về địa danh học
1.1.1. Khái niệm địa danh
Địa danh là một phạm trù thuôc từ vựng học. Điều này được thể hiện qua sơ đồ sau:

Ngôn ngữ học

Ngữ âm học

Từ vựng học

Ngữ pháp học

Danh xưng học

Nhân danh học

Địa danh học

Theo quan điểm của G. M. Kert: “Địa danh là tên gọi được đặt cho các đối
tượng địa lý, ra đời trong một khu vực có người sinh sống, được tạo ra bởi một cộng
đồng dân cư, một tộc người. Chúng là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng
ngày và các hoạt động chính trị - xã hội ở nơi đó” [13; 16].
Nhà nghiên cứu A. V. Superanskaja trong cơng trình “Địa danh học là gì?” cho
rằng: “Địa danh là tên gọi các địa điểm được biểu thị bằng những từ riêng. Đó là các
tên gọi địa lý, địa danh hay toponymia. Những địa điểm, mục tiêu địa lý đó là những
vật thể tự nhiên hay nhân tạo với sự định vị xác định trên bề mặt trái đất, từ những vật
thể lớn nhất (các lục địa và đại dương) cho đến những vật thể nhỏ nhất (những ngôi
nhà, vườn cây đứng riêng rẽ) đều có tên gọi [14; 13] .


11


Theo tác giả An Chi thì Toponymie là một danh từ của tiếng Pháp hiện đại, có
nghĩa là địa danh học. Đây là một từ phái sinh từ hậu tố “-ie” từ danh từ toponyme, có
nghĩa là địa danh. Toponyme gồm hai hình vị căn tố (top(o) và onyme) bắt nguồn từ
hai danh từ Hy Lạp cổ là topos (có nghĩa là nơi chốn) và onoma (có nghĩa là tên) [1;
47,48] .
Một số từ điển ở nước ta thường giải thích địa danh theo lối chiết tự có nghĩa là
tên đất. Trong Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh cho rằng địa danh là “tên các miền
đất (nom de terre)”. [3; 268]. Cịn trong từ điển của Hồng Phê lại định nghĩa “Địa
danh: tên đất, tên địa phương” [4; 304]. Có thể thấy các khái niệm trên chỉ đưa ra
cách hiểu chung chung gây khó khăn trong việc xác định địa danh. Địa danh không
chỉ là tên gọi của các đối tượng địa lý, dùng riêng cho tên đất mà còn là tên gọi của
các đối tượng chỉ địa hình tự nhiên.
Từ điển bách khoa Việt Nam cho rằng: “Địa danh là tên gọi các lãnh thổ, các
điểm quần cư (làng, xã, huyện, tỉnh, thành phố), các điểm kinh tế (vùng nông thôn,
khu công nghiệp), các quốc gia, các châu lục, các núi, các đèo, cao nguyên, thung
lũng, đồng bằng, châu thổ, sông, hồ, vũng, vịnh, biển, eo biển, đại dương có tọa độ
địa lý nhất định ghi lại trên bản đồ. Địa danh có thể phản ánh quá trình hình thành,
đặc điểm của các yếu tố địa lý tự nhiên và lịch sử với những nét đặc sắc về kinh tế, xã
hội của các lãnh thổ”. [15;780]. Khái niệm khá rõ ràng tuy nhiên chưa đề cập đến các
đơn vị hành chính, các cơng trình xây dựng.
Hồng Thị Châu quan niệm: “Địa danh hay là tên địa lý (toponym,
geograpphical name) là tên vùng, tên sông, tên núi, là tên gọi các đối tượng địa hình
khác nhau, tên nơi cư trú, tên hành chính,… được con người đặt ra” [5;139].
Nguyễn Văn Âu trong Địa danh Việt Nam có định nghĩa: “Địa danh là tên đất,
gồm tên sông, núi, làng mạc,… hay tên các địa phương, các dân học” [11; 5]. “Địa
danh học (Toponymie) là một môn khoa học chuyên nghiên cứu về tên địa lý các địa

phương”. [12; 5]. Tác giã đã tiếp cận địa danh theo góc độ địa lý – văn hóa khi đưa ra
quan niệm này.
Nguyễn Kiên Trường: “Địa danh là tên riêng chỉ các đối tượng địa lý tự nhiên
và nhân văn có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” [9; 16] hay “Địa danh hay tên
riêng địa lý là đối tượng nghiên cứu và mối quan tâm của nhiều ngành khoa học. Địa
danh mang những đặc điểm vốn có của ngơn ngữ: nó có thể là một hay nhiều âm tiết;

12


là một đơn vị từ vựng hoàn chỉnh (từ, cụm từ); có cấu trúc ngữ pháp nhất định (một từ
hay một đoản ngữ…). Địa danh có chức năng xác định cá thể hóa các đối tượng, điểm
hay vùng địa lý. Địa danh là một trong những phương tiện giúp con người nhận thức
thế giới” [10; 329].
Bùi Đức Tịnh cho rằng: “Địa danh là một danh từ có nghĩa tổng quát để chỉ tên
gọi các loại vật thể tự nhiên được phân biệt về phương diện địa lý, các vị trí cần phân
biệt trong sinh hoạt xã hội và các đơn vị được xác định trong tổ chức hành chính hay
quân sự”. [2; 10].
Huỳnh Cơng Tín đưa ra định nghĩa: “Lớp từ vựng phương ngữ Nam Bộ phản
ánh rõ nét tư duy của người đồng bằng Nam Bộ là lớp từ thể hiện việc đặt tên đất, tên
làng, tên sông, tên chợ,… gọi chung là những địa danh hay những từ có liên quan tới
địa danh. Những cách đặt tên này phản ánh đặc điểm, tình hình của vùng, đồng thời
nó cũng nêu bật được tâm trạng và cách suy nghĩ của người Nam Bộ nói chung qua
q trình khai phá và xây dựng vùng đất mới” [6; 60].
Từ Thu Mai cho rằng: “Địa danh là những từ ngữ chỉ tên riêng của các đối
tượng địa lý có vị trí xác định trên bề mặt trái đất. Mặc dù nằm trong hệ thống những
loại hình khác nhau nhưng các đối tượng địa lý bao giờ cũng xuất hiện trong thực tế
với những cá thể độc lập”.[16; 19].
Theo tác giả Lê Trung Hoa: “Địa danh là những từ hoặc ngữ cố định, được
dùng làm tên riêng của các địa hình tự nhiên, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh

thổ (khơng có ranh giới rõ ràng) và các cơng trình xây dựng thiên về khơng gian hai
chiều. Trước địa danh ta có thể đặt một danh từ chung chỉ tiểu loại địa danh đó: sơng
Hương, huyện Mộ Đức (Quảng Ngãi), vùng Ba Vì, thành phố Cần Thơ, đường
Nguyễn Du,…”[7; 18].
1.1.2. Phân loại địa danh
Về việc phân loại địa danh có nhiều cách phân loại khác nhau giữa các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước như sau:
G. P. Smolicnaja và M.V. Gorbanevskij trong “Toponimija Moskvy” chia địa
danh làm bốn loại:
1. Phương danh (tên các địa phương);

13


2. Sơn danh (tên núi, đồi, gò,…);
3. Thủy danh (tên các dòng chảy, ao, vũng,…);
4. Phố danh (tên các đối tượng trong thành phố).
Bên cạnh đó, A.V. Superanskaja với “Chto takoe toponimika?” chia địa danh
làm bảy loại:
1. Phương danh;
2. Thủy danh;
3. Sơn danh;
4. Phố danh;
5. Viên danh (tên các quảng trường);
6. Lộ danh (tên các đường phố);
7. Đạo danh (tên các đường giao thông trên đất, dưới đất, trên nước, trên khơng).
Chia địa danh dựa vào tiêu chí đối tượng mà địa danh biểu thị.
Đặng Xuân Bảng (1828 – 1910) là người đề cập đến vấn đề phân loại địa danh
từ rất sớm qua cơng trình “Sử học bị khảo”, phần Địa lý khảo. Hoàng Thị Châu trong
bài viết Về việc tìm sử liệu trong ngơn ngữ dân tộc cũng nói đến việc phân loại địa

danh thành hai hệ thống tiểu địa danh gồm: tên thơn xóm, gị đồi, khe suối, đầm hồ,…
và đại địa danh gồm: tên lục địa, đại dương, nước, vùng, thủ đô, thành phố, sông,
biển,…
Trần Thanh Tâm trong Thử bàn về địa danh Việt Nam năm 1976 đã chia địa
danh Việt Nam thành sáu loại:
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Loại đặt theo địa hình và đặc điểm
Loại đặt theo vị trí khơng gian và thời gina
Loại đặt theo tín ngưỡng, tơn giáo, lịch sử
Loại đặt theo hình thái, đất đai, khí hậu
Loại đặt theo đặc sản, nghề nghiệp và tổ chức kinh tế
Loại đặt theo sinh hoạt xã hội

14


Nguyễn Văn Âu trong hai cơng trình Địa danh Việt Nam và Một số vấn đề về
địa danh học Việt Nam đã phân địa danh theo ba cấp: loại, kiểu và dạng. Trong đó, có
hai loại: tự nhiên và kinh tế -xã hội, bảy kiểu (thủy danh, sơn danh, lâm danh, làng xã,
huyện thị, tỉnh, thành phố và quốc gia) và mười hai dạng (sơng ngịi; hồ đầm; đồi núi;
hải đảo; rừng rú; truông; trảng; làng; xã; huyện, quận; thị trấn; tỉnh; thành phố và
quốc gia).
Trần Văn Dũng trong Những đặc điểm chính của địa danh ở Đăk Lăk đã chia
địa danh Đăk Lăk thành hai nhóm lớn: nhóm địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên và

nhóm địa danh chỉ các đối tượng do con người kiến Theo ngữ nguyên, tác giả chia
làm năm loại:
1. Loại địa danh gốc bản địa (đặt theo cách và tiếng của các dân tộc thiểu số tại
chỗ - các dân cư sống lâu đời trên địa bàn)
2. Loại địa danh thuần Việt
3. Loại địa danh Hán – Việt
4. Loại địa danh gốc khác
5. Loại địa danh chưa xác định được nguồn gốc
Trong hai cơng trình Ngun tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh và Địa
danh học Việt Nam của tác giả Lê Trung Hoa. Dựa vào hai tiêu chí tự nhiên/ khơng tự
nhiên (tức là theo đối tượng) và tiêu chí ngữ nguyên, tác giả đã phân địa danh thành
những loại sau: Theo đối tượng gồm có:
1. Địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên (còn gọi là địa danh chỉ địa hình);
2. Địa danh chỉ các đối tượng nhân tạo, gồm có ba loại: địa danh chỉ các cơng
trình xây dựng thiên về khơng gian hai chiều, địa danh hành chính và địa danh
vùng (khơng có ranh giới rõ ràng).
Theo ngữ nguyên, gồm có:
1. Địa danh thuần Việt;
2. Địa danh Hán Việt;
3. Địa danh bằng các ngôn ngữ dân tộc thiểu số (Chăm, Khmer, Ba Na, Ê Đê,
Gia Rai, Tày, Thái, Mường,…);
4. Địa danh ngoại ngữ (chủ yếu là địa danh gốc Pháp).
Nguyễn Kiên Trường trong Những đặc điểm chính của địa danh Hải Phịng
(sơ bộ có so sánh với địa danh một số vùng) đã phân loại địa danh Hải Phòng dựa vào
15


ba tiêu chí. Tiêu chí loại hình gồm nhóm địa danh chỉ đối tượng địa lý tự nhiên và
nhóm địa danh chỉ đối tượng địa lý nhân văn (gồm các tiểu nhóm: 1. Nhóm địa danh
cư trú – hành chính và các địa danh gắn với hoạt động của con người, do con người

tạo nên; 2. Nhóm địa danh đường phố và địa danh chỉ cơng trình xây dựng). Tiêu chí
nguồn gốc ngữ nguyên, tác giả chia địa danh thành các tiểu loại có nguồn gốc khác
nhau: nguồn gốc Hán Việt, nguồn gốc thuần Việt, nguồn gốc từ tiếng Pháp, nguồn gốc
từ phương ngữ Quảng Đông, nguồn gốc khác như Tày – Thái, Việt – Mường,…,
nguồn gốc hỗn hợp và địa danh chưa xác định được nguồn gốc. Ngoài ra, tác giả cịn
bổ sung thêm tiêu chí thứ ba là chức năng giao tiếp (biệt xưng, tự xưng, giản xưng,
tục xưng,…) và theo hệ quy chiếu đồng đại – lịch đại (cổ, cũ, hiện nay).
Bài niên luận này, chúng tôi phân loại theo đối tượng và phân loại theo âm tiết
như sau:
Theo đối tượng:
1.
2.
3.
4.

Địa danh địa hình;
Địa danh hành chính
Địa danh chỉ các cơng trình xây dựng;
Địa danh vùng

Theo số lượng âm tiết
1. Đơn âm
2. Đa âm
1.1.3. Về địa danh tiếng Hoa
Có thể nói, địa danh tiếng Hoa được bắt nguồn từ từ gốc Hán theo diễn biến
thời gian được chia thành ba loại:
a. Từ tiền Hán Việt (cũng gọi là cổ Hán Việt, hay Hán Việt cổ).
b. Từ Hán Việt
c. Từ hậu Hán Việt (cũng gọi là từ Hán Việt Việt hóa).
Ba loại từ này có vị trí đặc biệt trong từ vựng tiếng Việt, chúng có số lượng rất lớn

và được sử dụng vào mọi lĩnh vực đời sống của người Việt như chính trị, văn hóa,
kĩ thuật, quân sự… cũng như trong đặt tên địa danh cả nước nói chung, ở hai tỉnh
Sóc Trăng và Trà Vinh nói riêng. Đặc biệt, từ tiền Hán Việt là từ Hán cổ mà tiếng
Việt mượn trước thời Đường, từ hậu Hán Việt là từ Hán Việt có sự biến đổi về mặt

16


ngữ âm cho phù hợp với đặc điểm ngữ âm tiếng Việt. Hai loại này rất giống với từ
thuần Việt về ngữ âm cũng như về khả năng hoạt động. Đây là hai loại từ gốc Hán
rất khó phân biệt, nhất là về âm đọc. Một chữ Hán nhiều khi có hai, ba âm đọc.
Cịn về từ Hán Việt là lớp từ Hán mà tiếng Việt vay mượn từ đời Đường và dựa
trên âm đọc ở Trường An là âm đọc chính thức từ thời bấy giờ. Một số học giả cho
rằng có thể âm đọc Hán Việt là sự phản ánh ngữ âm đời Đường được dùng để dạy
chữ Hán vào khoảng thế kỷ VIII – IX. Cách đọc “Đường âm” này trong quá trình
triển khai đã bị âm hệ và quy luật phát âm của tiếng Việt làm ảnh hưởng và dần
dần có sự biến đổi, nhất là từ thế kỷ X trở đi khi Việt Nam đã giành được độc lập,
thoát ly dần với âm hệ Đường, và hình thành một quy luật phát âm mang sắc thái
của người Việt và vùng văn hóa Việt Nam. Trong số hàng vạn chữ loại này (chữ
Hán) thì âm đọc của khoảng năm đến bảy ngàn “chữ” có tính quy luật và tính hệ
thống rất rõ, chúng đối ứng một cách nghiêm ngặt với âm hệ thiết vận trong tiếng
Hán. Chính nhờ có tính hệ thống và tính quy luật của cách đọc Hán Việt ấy mà,
nói chung, về mặt lý thuyết, người Việt có thể đọc được hầu hết các chữ Hán.
Điều đó cho thấy rằng, âm đọc Hán Việt là một hệ thống ngữ âm có quy luật phát
triển và diễn biến riêng biệt, đồng thời cũng có những chức năng và công dụng
riêng. So với các loại từ gốc Hán khác thì từ Hán Việt hồn tồn chiếm ưu thế,
chúng có số lượng lớn, theo thống kê của Maspero thì chúng chiếm 60% tổng số
từ vựng tiếng Việt. Vì vậy, quá trình sưu tầm địa danh tiếng Hoa ở tỉnh Sóc Trăng
và Trà Vinh chúng tơi xin phép được liệt kê các địa danh Hán Việt và giải thích
chúng, cịn từ Hán Việt cổ và từ Hán Việt Việt hóa đợi khi nào có điều kiện sẽ giải

quyết.
1.2. Vài nét về địa bàn tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh
1.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
TỈNH SĨC TRĂNG:
-

Vị trí địa lý:

Tỉnh Sóc Trăng nằm ở cửa Nam sơng Hậu, cách thành phố Hồ Chí Minh
231km, cách Cần Thơ 62km; nằm trên tuyến Quốc lộ 1A nối liền các tỉnh Cần Thơ,
Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. Quốc lộ 60 nối Sóc Trăng với các tỉnh Trà Vinh, Bến
Tre và Tiền Giang. Vị trí tọa độ: 9012’ - 9056’ vĩ Bắc và 105033’ - 106023’ kinh
Đông. Diện tích tự nhiên 3.311,7629. Đường bờ biển dài 72 km và 03 cửa sông lớn:
Định An, Trần Đề, Mỹ Thanh đổ ra Biển Đơng. Sóc Trăng có 09 huyện: Cù Lao
17


Dung, Châu Thành, Kế Sách, Long Phú, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Ngã Năm, Trần Đề,
Thạnh Trị; 01 thị xã: Vĩnh Châu, và thành phố Sóc Trăng là trung tâm hành chính của
tỉnh.
-

Điều kiện tự nhiên:

Về khí hậu: Sóc Trăng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới chịu ảnh hưởng gió
mùa, hàng năm có mùa khơ và mùa mưa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10,
mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 26,80C, ít
khi bị bão lũ. Lượng mưa trung bình trong năm là 1.864 mm, tập trung nhất từ tháng
8,9,10, độ ẩm trung bình là 83%, thuận lợi cho cây lúa và các loại hoa màu phát triển.
Về đất đai, thổ nhưỡng: Sóc Trăng có tổng diện tích đất tự nhiên là 331.176,29

ha. Đất đai của Sóc Trăng có độ màu mỡ cao, thích hợp cho việc phát triển cây lúa
nước, cây công nghiệp ngắn ngày như mía, đậu nành, các loại rau màu như hành, tỏi
và các loại cây ăn trái như bưởi, xoài,... Hiện đất nơng nghiệp là 276.677 ha, trong đó,
đất sản xuất nơng nghiệp là 205.748 ha, đất lâm nghiệp có rừng 11.356 ha, đất nuôi
trồng thuỷ sản 54.373 ha, đất làm muối và đất nông nghiệp khác. Trong tổng số
278.154 ha đất nơng nghiệp có 144.156 ha sử dụng cho canh tác lúa, 21.401 ha cây
hàng năm khác và 40.191 ha dùng trồng cây lâu năm và cây ăn trái. Riêng đất phi
nông nghiệp là 53.963 ha và 2.536 ha đất chưa sử dụng (số liệu được cập nhật theo
Niên giám thống kê Sóc Trăng 2008). Sóc Trăng cịn có dải cù lao thuộc huyện Kế
Sách, Long Phú và Cù Lao Dung chạy dài ra tận cửa biển với nhiều cây trái nhiệt đới,
khơng khí trong lành như cồn Mỹ Phước, Khu du lịch Song Phụng,... là địa điểm lý
tưởng để phát triển loại hình du lịch sinh thái.
Về đặc điểm địa hình: Sóc Trăng có địa hình thấp và tương đối bằng phẳng.
Độ cao cốt đất tuyệt đối từ 0,4 - 1,5 m, độ dốc thay đổi khoảng 45 cm/km chiều dài.
Nhìn chung địa hình tỉnh Sóc Trăng có dạng lịng chảo, cao ở phía sơng Hậu và biển
Đơng thấp dần vào trong, vùng thấp nhất là phía Tây và Tây Bắc. Tiểu địa hình có
dạng gợn sóng khơng đều, xen kẽ là những giồng cát địa hình tương đối cao và những
vùng thấp trũng nhiễm mặn, phèn. Đó là những dấu vết trầm tích của thời kỳ vận
động biển tiến và lùi tạo nên các giồng cát và các bưng trũng ở các huyện Mỹ Tú, thị
xã Sóc Trăng, Mỹ Xuyên, Long Phú, Vĩnh Châu. Vùng đất phèn có địa hình lịng
chảo ở phía Tây và ven kinh Cái Cơn có cao trình rất thấp, từ 0 - 0,5 m, mùa mưa

18


thường bị ngập úng làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất và đời sống nhân dân trong
vùng
Về sơng ngịi: Sóc Trăng có hệ thống kinh rạch chịu ảnh hường của chế độ
thủy triều ngày lên xuống 2 lần, mực triều dao động trung bình từ 0,4 m đến 1 m.
Thủy triều vùng biển không những gắn liền với các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của

cư dân địa phương, mà còn mang lại nhiều điều kỳ thú cho du khách khi đến tham
quan, du lịch và tìm hiểu hệ sinh thái rừng tự nhiên.
Về tài nguyên rừng và biển: Sóc Trăng cịn có nguồn tài ngun rừng với diện
tích 11356 ha với các loại cây chính: Tràm, bần, giá, vẹt, đước, dừa nước phân bố ở 4
huyện Vĩnh Châu, Long Phú, Mỹ Tú và Cù Lao Dung. Rừng của Sóc Trăng thuộc hệ
rừng ngập mặn ven biển và rừng tràm ở khu vực đất nhiễm phèn.
Sóc Trăng có 72 km bờ biển với 02 cửa sông lớn là sông Hậu (đổ theo 02 con sông
lớn Trần Đề, Định An) và sơng Mỹ Thanh, có nguồn hải sản đáng kể bao gồm cá đáy,
cá nổi và tơm. Sóc Trăng có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế biển tổng hợp,
thuỷ hải sản, nông - lâm nghiệp biển, công nghiệp hướng biển, thương cảng, cảng cá,
dịch vụ cảng biển, xuất nhập khẩu, du lịch và vận tải biển.
Về hệ thống đường giao thông: Đường bộ: Tỉnh lộ: 409,315 km, huyện lộ:
491,6 km. Về đường thủy: Sóc Trăng có 72 km bờ biển giáp biển Đông và hạ lưu
sông Hậu (đoạn từ Cần Thơ chảy ra cửa Định An và Trần Đề) cùng các kênh rạch nối
với sông Hậu tạo nên một mạng lưới thuận lợi trong giao thông đường thủy. Về cảng:
Cảng Trần Đề diện tích 36 ha tại xã Trung Bình, huyện Trần Đề. Cảng Trần Đề có khả
năng tiếp nhận cùng lúc 30 tàu cá, trong đó có khoảng 38.000 tấn thủy sản.
TỈNH TRÀ VINH
-

Vị trí địa lý:
Tỉnh Trà Vinh nằm ở phía Đơng Nam đồng bằng sơng Cửu Long, giữa 2 con
sông lớn là sông Cổ Chiên và sơng Hậu. Phía Bắc Trà Vinh là tỉnh Bến Tre được ngăn
cách bởi sông Cổ Chiên (một nhánh của sơng Tiền), phía Tây Nam giáp với tỉnh Sóc
Trăng và thành phố Cần Thơ qua ranh giới sơng Hậu, phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Long,
phía Đơng là biển Đơng. Ở vị trí nằm giữa hai con sơng Cổ Chiên, Hậu Giang và một
mặt giáp biển (dài 65km), nơi có 2 cửa sông (Cung Hầu và Định An) được xem là 2
cửa sông quan trọng thông thương đồng bằng sông Cửu Long với biển Đông, nối với
19



cả nước và quốc tế. Do vậy, Trà Vinh ở vào địa thế có tầm quan trọng về kinh tế và
quốc phịng đối với đồng bằng sơng Cửu Long. Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là
222.567 ha, với 08 đơn vị hành chính, gồm thị xã Trà Vinh và các huyện Càng Long,
Cầu Kè, Tiểu Cần, Châu Thành, Trà Cú, Cầu Ngang và Duyên Hải.
-

Điều kiện tự nhiên:

Về khí hậu: Trà Vinh có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa cận xích đạo, khơng
chịu ảnh hưởng của gió mùa cực đới, nhưng lại bị tác động mạnh mẽ của gió đơng
nam từ biển thổi vào. Nhiệt độ trung bình trong năm từ 26,0 - 27,6 0C. Biên độ nhiệt
độ trung bình giữa các tháng biến thiên từ 3 - 50C. Tổng lượng nhiệt trong năm đạt tới
98570C. Lượng mưa trung bình trong năm ở Trà Vinh đạt 1403mm. Trong cả tỉnh,
lượng mưa giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Khí hậu của Trà Vinh có hai mùa
rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa tập trung trong mùa mưa tới 85,6% tổng lượng mưa
cả năm. Các tháng mùa khô đều ít mưa, đặc biệt tháng 1 và tháng 2 rất ít mưa, lượng
mưa dưới 20mm/tháng.
Về đất đai, thổ nhưỡng: Tỉnh Trà Vinh có những nhóm đất chính sau: Đất cát
giồng: phân bố tại các giồng cát hình cánh cung chạy dài song song với bờ biển. Độ
cao địa hình từ 1,4 - 2m. Đất phù sa bao gồm: đất phù sa phát triển trên chân giồng
cát, đất phù sa không nhiễm mặn, đất phù sa nhiễm mặn ít, đất phù sa nhiễm mặn
trung bình, đất phù sa nhiễm mặn nhiều. Đất phèn gồm có các loại: đất phèn khơng
nhiễm mặn, đất phèn nhiễm mặn trung bình, đất phèn nhiễm mặn nhiều. Nhìn chung,
đất Trà Vinh nhiễm mặn tới 56% và nhiễm phèn 27% diện tích.
Về đặc điểm địa hình: Địa hình Trà Vinh mang tính chất của địa hình đồng
bằng châu thổ ven biển, chịu ảnh hưởng bởi tác động giao thoa giữa sơng và biển. Độ
cao trung bình 1-3m, trong đó đại bộ phận có độ cao từ 0,4 - 1,0m. Nhìn chung trong
tồn tỉnh, các huyện phía bắc có địa hình bằng phẳng hơn so với các huyện phía Nam.

Dọc theo hai bờ sơng thường có địa hình cao và thấp dần về phía nội đồng. Vùng nội
đồng tương đối bằng phẳng,bị chia cắt bởi hệ thống sông ngịi, kênh rạch chằng chịt,
trong đó có những ơ trũng cục bộ. Khu vực ven biển có địa hình dạng sóng với nhiều
giồng cát hình cánh cung, độ cao từ 3m đến 5m. Khu vực có địa hình cao nhất (hơn
4m) gồm các giồng cát phân bố ở Nhị Trường, Long Sơn (huyện Cầu Ngang), Ngọc
Biên (Trà Cú), Long Hữu (Dun Hải). Khu vực có địa hình thấp dần (0,4m) tập
trung tại các cánh đồng trũng thuộc các xã Tập Sơn, Ngãi Xuyên, Ngọc Biên (Trà
20


Cú), Thanh Mĩ (Châu Thành), Mĩ Hòa, Mĩ Long, Hiệp Mĩ (Cầu Ngang), Long Vĩnh
(Dun Hải).
Về sơng ngịi: Tỉnh Trà Vinh có 3 sơng lớn: sơng Hậu, sơng Cổ Chiên và sơng
Mang Thít với tổng chiều dài 578km. Ngồi ra, hàng trăm sông rạch nhỏ và kênh đào
dẫn nước từ sơng chính về đồng ruộng. Hệ thống thủy văn của tỉnh Trà Vinh chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của biển. Vùng biển Trà Vinh thuộc chế độ triều biển Đông, chủ yếu
là bán nhật triều với biên độ dao động khá lớn, trung bình khoảng 3m. Tình trạng
nhiễm mặn của Trà Vinh tương đối nghiêm trọng. Hàng năm có khoảng 90% diện tích
tự nhiên bị nhiễm mặn với chiều dài xâm nhập mặn khoảng 30km tính từ biển vào.
Về tài nguyên rừng và biển: Ven biển Trà Vinh có các khu rừng ngập mặn với
các loài như: mắm, đước, bần, sú, vẹt. Rừng tập trung ở các huyện Duyên Hải, Cầu
Ngang, Trà Cú, Châu Thành. Ngồi ra cịn có các dải dừa nước ven sơng, rạch. Ở các
vùng hoang hóa có các loài lăn, lác, bàng. Rừng ngập mặn Trà Vinh là mơi trường
sinh sống của một số lồi động vật như ong, chim, thú, bò sát, lưỡng cư như khỉ,
chồn, trăn, rắn, rùa… Biển Trà Vinh có nhiều tơm cá và các loài thủy sản khác. Trữ
lượng thủy sản 1,2 triệu tấn. Cá biển có 42 lồi, cá nước lợ có 37 lồi, cá nước ngọt
có 15 lồi, tơm có 32 loài. Tỉnh Trà Vinh nổi tiếng với những bãi nghêu rộng lớn, nhất
là ở Mĩ Long (huyện Cầu Ngang).
Về hệ thống đường giao thơng: Đường bộ: cả tỉnh có 2,1 nghìn km đường các
loại và trên 70 cầu. Có các quốc lộ quan trọng và bị cắt bởi 2 sơng lớn nên có nhiều

hạn chế. Trà Vinh có 4 tuyến tỉnh lộ (911, 912, 913, 914) với tổng chiều dài hơn
450km. Đường thủy: là thế mạnh của Trà Vinh. Cửa sơng Định An và Cung Hầu có
thể tiếp nhận tàu trên 500 tấn. Trà Vinh có bến cảng nội địa cách thị xã 4km trên bờ
sông Tiền với diện tích hơn 4 vạn m2, cầu tàu dài 35m, độ sâu 6m và tàu 500 tấn ra
vào dễ dàng.
1.2.2. Lịch sử và địa giới hành chính
TỈNH SĨC TRĂNG
Thời chúa Nguyễn: Lập Trấn Di đạo – Địa danh và đơn vị hành chính đầu tiên
của Tỉnh. Năm 1679, một số người ở tỉnh Quảng Đông nước Đại Minh, do không
chịu làm tôi thờ nhà Đại Thanh mà đến phương Nam xin hàng phục Chúa Nguyễn
ưng thuận và cho họ đóng ở Mỹ Tho (trấn Định Tường) và Đồng Nai (Biên Hòa).

21


Đồng thời với khoảng thời gian này là sự nhập cư của người Hoa vào Gia Định (là cơ
sở cho việc nhập cư của người Hoa vào vùng Sóc Trăng này).
Năm 1714, chúa Nguyễn phong Mạc Cửu làm thống binh trấn Hà Tiên gồm có
6 đạo: Hà Tiên, Phú Quốc, Long Xuyên, Kiên Giang, Trấn Giang, Trấn Di. Đặc biệt,
Trấn Di được nhiều người xem là tên gọi đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng.
Trong những năm 70 của thế kỷ XVIII, có những sự kiện về sau ảnh hưởng
đến lịch sử tỉnh Sóc Trăng như sau:
Năm 1732, chúa Nguyễn cho đặt châu Định Viễn về dinh Long Hồ. Lỵ sở ở đất thơn
An Bình Đơng, huyện Kiến Đăng, trấn Định Tường.
Năm 1757, Mạc Thiên Tứ đã thay cha Mạc Cửu làm thống binh trấn Hà Tiên và buộc
vua Cao Mên dâng đất Tầm Phong Long (Châu Đốc và Sa Đéc). Trước đó, vua Cao
Mên đã cắt đất dâng Trà Vang (Trà Vinh) và Ba Thắc (Sóc Trăng và Bạc Liêu) cho
chúa Nguyễn. Sau đó, Nguyễn Cư Trinh xin dời dinh Long Hồ đến xứ Tầm Phào hay
Tầm Xoi – Tầm Bao và đặt ba đạo: Đông Khẩu, Tân Châu, Châu Đốc lần lượt ở xứ
Sa Đéc, cứ Cù Lao Diên trên Tiền Giang, xứ Châu Đốc trên Hậu Giang. Bấy giờ, Sóc

Trăng là phủ Ba Thắc thuộc đạo Châu Đốc. Năm 1768, cảng Ba Thắc chính thức
được thành lập. Từ đây, Ba Thắc đã thật sự trở thành vùng đất khá quan trọng vì có
cảng biển lớn và trọng yếu.
Thời kỳ triều Nguyễn - Hình thành phủ Ba Xuyên:
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên làm vua hiệu là Gia Long chia Gia Định thành ngũ trấn:
Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên. Sóc Trăng lúc này thuộc trấn
Vĩnh Thanh, phủ Định Viễn, huyện Vĩnh Định gồm 37 thôn, điền.
Năm 1832, vua Minh Mạng cho đổi ngũ trấn thành lục tỉnh gồm: Gia Định (Phiên
An), Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Trong đó, An Giang
gồm 3 phủ: Tuy Biên (Châu Đốc), Tân Thành (Sa Đéc), Ba Xuyên (Sóc Trăng). Như
vậy, Sóc Trăng lúc bấy giờ có tên gọi là Ba Xuyên gồm huyện Phong Nhiêu (Bãi
Xàu), Phong Thạnh (Nhu Gia), Vĩnh Định (Ba Xuyên).
Năm 1836, Minh Mạng cho lập thêm nhiều làng mới trong phủ Ba Xuyên như: Mỹ
Phước thôn, Đại Hữu thôn, An Lạc thơn, An Thạnh Nhất thơn, An Thạnh Nhì thơn,
Tân Thạnh thôn.

22


Thời Pháp thuộc với sự hình thành hạt Ba Xuyên và tỉnh Sóc Trăng
Năm 1862, triều đình Nguyễn cắt nhượng 3 tỉnh miền Đơng (Biên Hịa, Gia Định,
Kiên Tường) cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây (Hà Tiên, Vĩnh Long,
An Giang).
Năm 1868, Pháp chia Nam Kỳ thành lục tỉnh: Biên Hòa, Sài Gòn, Mỹ Tho, Châu
Đốc, Hà Tiên, Vĩnh Long. Sóc Trăng lúc này thuộc tỉnh Châu Đốc có 3 hạt: Châu
Đốc, Sa Đéc, Ba Xuyên. Hạt Ba Xuyên có lỵ sở tại Sóc Trăng.
Năm 1876, Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực với 19 hạt và 2 thành phố: Sài Gòn,
Chợ Lớn. Bốn khu vực đó là: khu vực Sài Gịn, khu vực Mỹ Tho, khu vực Vĩnh
Long, khu vực Bassac (Hậu Giang). Khu vực Bassac gồm các hạt: Châu Đốc, Hà
Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Trà Ơn, Sóc Trăng.

Ngày 01/01/1900 Pháp bãi bỏ hạt thành lập tỉnh Sóc Trăng thuộc Nam Kỳ. Lúc bấy
giờ, tỉnh Sóc Trăng gồm có 3 quận: Châu Thành, Kế Sách, Long Phú. Dân số có
105.000 người, trong đó người Kinh 57.000 (%), Khmer 38.000, Hoa 10.000.
Năm 1915, tỉnh Sóc Trăng có 10 tổng, 92 xã. Trạm hành chính đặt tại Phú Lộc, Ban
Long, Đại Ngãi, Bố Thảo, Nhu Gia, Bãi Xàu.
Năm 1953, tỉnh Sóc Trăng gồm 5 quận: Sóc Trăng, Kế Sách, Long Phú, Lịch Hội
Thượng, Thạnh Trị.
Thời kỳ chế độ Sài Gòn (chế độ cũ miền Nam)
Năm 1957, theo sắc lệnh số 143/NV ngày 25/10/1957, tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu
sáp nhập lại thành tỉnh Ba Xuyên. Tỉnh mới có 08 quận: Mỹ Xuyên, Long Phú, Kế
Sách, Thuận Hòa, Thạnh Trị, Vĩnh Lợi, Giá Rai, Phước Long.
Năm 1961, quận Phước Long được giao trả cho Chương Thiện. Vì vậy, tỉnh Ba
Xuyên còn lại 07 quận: Mỹ Xuyên, Long Phú, Kế Sách, Thuận Hòa, Thạnh Trị, Vĩnh
Lợi, Giá Rai.
Năm 1964, tỉnh Bạc Liêu được tái lập do Nghị định số 245/NV ngày 08/9/1964 của
Thủ tướng Chính phủ và đã nhận lấy của tỉnh Ba Xuyên 03 quận: Vĩnh Lợi, Vĩnh
Châu, Giá Rai. Vậy tỉnh Ba Xuyên còn lại 05 quận: Mỹ Xuyên, Long Phú, Kế Sách,

23


Thuận Hịa, Thạnh Trị và có thêm một quận mới là Lịch Hội Thượng. Năm 1969, Sóc
Trăng có thêm quận Ngã Năm và Hịa Tú.
Thời kì đất nước sau ngày thống nhất:
Năm 1976, tỉnh Ba Xuyên (Sóc Trăng) được nhập với Phong Dinh, Chương Thiện
(Cần Thơ) thành tỉnh Hậu Giang theo Nghị định số 31/NĐ ngày 21/02/1976 của
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Tháng 4/1992, tỉnh Sóc Trăng chính thức đi vào hoạt động với 01 thị xã và 06 huyện:
thị xã Sóc Trăng, huyện Mỹ Tú, huyện Kế Sách, huyện Thạn Trị, huyện Mỹ Xuyên,
huyện Long Phú và huyện Vĩnh Châu.

Ngày 11/01/2002, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị định
số 04/2002/NĐ-CP điều chỉnh địa giới hành chính huyện Long Phú để thành lập
huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng.
Ngày 31/10/2003, theo Nghị định số 127/2003/NĐ-CP của Chính phủ về việc thành
lập huyện Ngã Năm thuộc tỉnh Sóc Trăng. Theo Nghị định này, địa giới hành chính
huyện Thạnh Trị được điều chỉnh để thành lập huyện Ngã Năm. Như vậy tỉnh Sóc
Trăng (tính đến ngày 31/12/2004) có một thị xã (thị xã Sóc Trăng) và 08 huyện (Mỹ
Tú, Long Phú, Vĩnh Châu, Vĩnh Châu, Thạnh Trị, Ngã Năm, Cù Lao Dung, Kế Sách,
Mỹ Xuyên).
Ngày 08/02/2007, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành
Nghị định số 22/2007/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Sóc Trăng thuộc tỉnh Sóc
Trăng. Ngày 24/09/2008, Chính phủ nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra
Nghị định số 02/2008/NĐ-CP, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Mỹ Tú và thành
lập thêm huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng.
Đến ngày 23/12/2009, Chính phủ nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban
hành Nghị quyết số 64/NQ-CP, điều chỉnh địa giới hành chính hai huyện Mỹ Xuyên,
Long Phú và thành lập thêm huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng.
Ngày 25/8/2011, Chính phủ ra Nghị quyết số 90/NQ-CP thành lập thị xã Vĩnh Châu.
Nhìn chung, lịch sử hình thành tỉnh Sóc Trăng gắn liền với lịch sử hình thành
vùng đất Nam Bộ và trải qua những quá trình tách nhập địa giới cũng như thay đổi

24


tên gọi qua các triều đại. Mỗi tên gọi gắn liền với một triểu đại, một chế độ xã hội
nhất định và mang một ý nghĩa biểu trưng khác nhau.
TỈNH TRÀ VINH
Năm 1708 chúa Nguyễn được Mạc Cửu dâng cho chúa vùng đất rộng lớn từ
Phú Quốc, Vũng Thơm, Trũng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Hà Tiên. Năm 1759, Nặc Tôn
trả ơn chúa Nguyễn bằng cách dâng phần đất Tầm Phong Long vì giúp Nặc Tơn giành

lại ngơi vị thiên đế. Lúc bấy giờ Long Hồ dinh là tên gọi cho tỉnh Trà Vinh và Vĩnh
Long.
Năm 1732 Ninh Vương Nguyễn Phúc Chu quyết định thành lập một đơn vị
hành chính mới trên vùng đất phía Nam dinh Phiên Trấn. Đơn vị hành chính mới đó
là dinh Long Hồ, thuộc phủ Gia Định. Lãnh thổ dinh Long Hồ lúc đó là một vùng đất
rộng mênh mơng, trong đó có vùng đất Trà Vang. “Lỵ sở của phủ Trà Vang được đặt
tại thôn Vĩnh Tường (nay là các ấp từ Vĩnh Bảo, Vĩnh Trường, Xuân Thạnh của xã
Hòa Thuận).
Năm 1832 Minh Mạng đổi Long Hồ dinh thành Vĩnh Long trấn và tỉnh Trà
Vinh chưa có tên. Vĩnh Long trấn được chia làm 4 phủ: Định Viễn, Hoằng An, Hoằng
Trị và Lạc Hóa. Phủ Lạc Hóa có 2 huyện: Tuân Nghĩa và Trà Vinh.
Sau khi Lê Văn Duyệt mất thì vua Minh Mạng chia Nam Kỳ thành 6 tỉnh: Gia
Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Bấy giờ Trà Vinh
vẫn cịn là một huyện của phủ Lạc Hóa thuộc tỉnh Vĩnh Long.
Năm 1867, Nam Kì chia thành 21 tỉnh và Trà Vinh là tỉnh số 5. Đây là ngày
khai sinh ra tỉnh Trà Vinh.
Năm 1876, Pháp chia tỉnh Vĩnh Long cũ thành 3 tiểu khu (hạt tham biện): Vĩnh
Long, Trà Vinh, Bến Tre. Năm 1899 tỉnh trưởng được thay cho chức tham biện.
Ngày 20 tháng 12 năm 1899 Trà Vinh được thành lập theo nghị định của toàn
quyền Đông Dương trên cơ sở đổi tên gọi tiểu khu hay hạt tham biện thành tỉnh, nghị
định có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Dưới thời Pháp thuộc Trà Vinh gồm 8
quận: Càng Long, Cầu Ngang, Cầu Kè (ban đầu thuộc tỉnh Cần Thơ, sau nhập tỉnh
Vĩnh Long rồi Trà Vinh), Châu Thành, Long Toàn (nay là huyện Duyên Hải), Tiểu
Cần, Trà Cú và Trà Ôn.

25


×