Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tục thờ và miếu thờ Thiên Hậu của người Việt vùng Tây Nam Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TỤC THỜ VÀ MIẾU THỜ THIÊN HẬU CỦA NGƯỜI VIỆT </b>


<b>VÙNG TÂY NAM BỘ</b>



<b> NGUYỄN NGỌC THƠ</b>
<b>Tóm tắt</b>


<i>Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu là một tục thờ dân gian của người Hoa Nam được truyền vào đất Nam </i>
<i>Bộ từ thế kỷ XVII - XVIII theo bước chân của lưu dân Hoa Nam. Theo thời gian, tín ngưỡng này bén rễ </i>
<i>tại Nam Bộ với 74 miếu thờ ở vùng Tây Nam Bộ và 58 miếu thờ ở Đơng Nam Bộ. Với tính cách mở - </i>
<i>thống và linh hoạt trong tiếp nhận văn hóa trên nền tảng dung hịa đa văn hóa của vùng văn hóa </i>
<i>Tây Nam Bộ, người Việt đã chủ động tiếp nhận và thực hành tục thờ Thiên Hậu theo cách riêng của </i>
<i>mình. Tìm hiểu bản chất, giá trị của tục thờ Thiên Hậu của người Việt vùng Tây Nam Bộ, nghiên cứu </i>
<i>này đã phát hiện rằng người Việt chỉ tiếp nhận một phần biểu tượng Thiên Hậu chứ không phải tồn </i>
<i>bộ hệ thớng ý nghĩa biểu trưng của biểu tượng cũng như tục thờ biểu tượng này.</i>


<b>Từ khóa: </b>Tục thờ, miếu thờ, Thiên Hậu, người Việt, Tây Nam Bộ


<b>Abstract</b>


<i>Tian Hou cult is a popular religion of Southern Chinese which has been transmitted into Southern </i>
<i>Vietnam since 17th<sub> - 18</sub>th<sub> centuries with the Southern Chinese immigration. Gradually, this religion has </sub></i>
<i>rooted deeply in Southern Vietnam with 74 temples in the Southwestern of Vietnam and 58 others </i>
<i>in Southeastern of Vietnam. Being open-minded and flexible in absorbing culture on the basis of </i>
<i>multi-cultural harmonization of the Southwestern culture, Vietnamese people actively receive and </i>
<i>practice Tian Hou cult by their own way. By studying the nature and value of Tian Hou worship of </i>
<i>the Vietnamese in the Southwest, this study found that the Vietnamese only received part of the Tian </i>
<i>Hou symbol, not the whole system of meaning of the symbol as well as worshiping this symbol.</i>


<b>Keywords: </b>The cult, temple, Tian Hou, Vietnamese, Southwestern


<b>1. Tục thờ Thiên Hậu vùng Tây Nam Bộ</b>



<i><b>1.1. </b></i>Văn hóa Nam Bộ là một bộ phận hữu


cơ của văn hóa Việt Nam. Cao Tự Thanh nhận
định rằng, ngoài yếu tố thân phận lịch sử - xã
hội những người di dân thì yếu tố sản xuất
hàng hóa (nơng nghiệp trồng trọt) hết sức
dồi dào và tính đa dạng văn hóa tộc người ở
Nam Bộ là các động lực chính làm cho Nho
giáo ở vùng này trở nên “Nho nhưng không
phải Nho, không phải Nho nhưng Nho”, bám
trụ với thực tiễn lao động, vừa mang cốt cách
tinh thần người Việt vừa thâu nhận và tái tạo
tinh hoa văn hóa của các tộc người khác (13).


Tục thờ nữ thần ở Việt Nam có nguồn gốc
lâu đời, gắn liền với nghề nông nghiệp trồng
lúa nước và lối sống làng xã cộng đồng mẫu
hệ cổ điển ở Đông Nam Á. Người phương Tây
từng nhận định “Đông Nam Á là xứ sở của
mẫu hệ” (14, tr.44), kể cả khi một bộ phận
Đông Nam Á (Indonesia, Malaysia, Brunei, v.v.)


đã Hồi giáo hóa thì dấu ấn mẫu hệ vẫn tồn tại
trong từng nếp ăn nếp ở.


Mẫu thần là những nữ thần quan trọng
được nhân dân tơn xưng thành Mẫu qua q
trình “lên khn”, “nâng cao” (17, tr.58) thành
một thứ tín ngưỡng có hệ thống, có quy củ.


“Mẫu là nữ thần, nhưng không phải tất cả nữ
thần đều là Mẫu” (16, tr.59). “Mẫu” ban đầu là
“mẹ”, là nữ thần, song khi “mẹ”, “nữ thần” được
nâng lên thành “mẫu” thì ý nghĩa biểu tượng
của “mẫu” đã được mở rộng thêm. “Mẫu” gắn
liền với sự sinh sôi, với sự bảo vệ, với phúc
lành và sự sống. “Mẫu” là những người mẹ tổ
tông, những nữ anh hùng dân tộc được thần
thánh hóa, những vị phúc thần, những vị tiên
nữ trong văn hóa dân gian v.v.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Hai Bà Trưng, bộ ba Tam phủ và bộ tứ Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện ở đồng
bằng Bắc Bộ, Thánh Mẫu Liễu Hạnh và hàng
chục nữ thần khác ở xứ Thành Nam, bà Chúa
Ngọc ở Huế, Thiên Yana Poh Nagar ở Nha
Trang, Linh Sơn Thánh Mẫu, Ngũ hành nương
nương, bà Chúa Xứ, bà Thiên Hậu, bà Hỏa ở
Nam Bộ v.v...


Một số Mẫu thần ở Việt Nam có nguồn gốc
từ khu vực và thế giới, được tiếp nhận thông
qua những cuộc di dân hay qua giao lưu, tiếp
biến văn hóa. Trong số đó có thể kể bà Thiên
Hậu, bà Chúa Thai Sanh (Kim Hoa nương
nương), Diêu Trì Kim Mẫu, Tây Vương Thánh
Mẫu (gốc Trung Hoa), mẫu Mariamman1<sub> (gốc </sub>
Ấn Độ) v.v. Trong số các thánh mẫu ấy, bà
Thiên Hậu được khá đông đảo người dân Việt,
Hoa, Khmer sùng bái.



<i><b>1.2. </b></i>Thiên Hậu là mẫu thần cộng đồng


hình thành từ vùng Bồ Điền, Phúc Kiến, sau
mở rộng khắp vùng duyên hải Hoa Nam, Đài
Loan, hạ lưu sông Trường Giang và lan rộng
khắp thế giới với khoảng 6.000 miếu thờ. Các
miếu Thiên Hậu được gọi tên dưới nhiều dạng
thức khác nhau như Thiên Hậu cung, Thiên
Hậu miếu, Ma Tổ miếu, Ma Tổ các, Thánh Mẫu
miếu v.v., được coi là nơi gặp gỡ của những
những ước vọng dân gian từ mộc mạc, bình
dị (như an lành, hạnh phúc, tai qua nạn khỏi)
cho đến đậm chất kinh tế như buôn may
bán đắt, giàu sang thịnh vượng của các cộng
đồng cư dân địa phương. Người Đài Loan và
người Hoa ở Đông Nam Á hải đảo (nhất là
nhóm Phúc Kiến) gọi bà là Ma Tổ (2, tr.33);
người Trung Quốc gọi bà là Thiên Hậu hoặc
Thiên Phi; người Hoa ở Việt Nam và người Việt
Nam nói chung gọi bà là Thiên Hậu. Với tên
gọi Thiên Hậu, bà đã trở thành biểu tượng đã
“ch̉n hóa” (standardized), “chính thống hóa”
(orthodoxed) thơng qua sắc phong và ghi
nhận của triều đình trung ương (theo quan
điểm của James Watson, 23). Nói cách khác, ở
một chừng mực nhất định, bà là “bàn tay kéo
dài” (quan điểm Daivid Faure, 3) của các bậc
đế vương ở từng xóm làng, từng địa phương
cụ thể có thờ bà.



Theo thống kê chưa đầy đủ, tồn vùng Tây
Nam Bộ có 74 miếu Thiên Hậu, trong đó có
57 miếu của người Hoa và 17 miếu do người


ngưỡng. Tổng số 74 miếu bao gồm: Cần Thơ có
1 miếu, Tiền Giang 2 miếu, Đồng Tháp 1 miếu,
Bến Tre 4 miếu, Vĩnh Long 6 miếu, Long An 3
miếu, Trà Vinh 11 miếu, An Giang 4 miếu, Kiên
Giang 8 miếu, Sóc Trăng 16 miếu, Bạc Liêu 9
miếu và Cà Mau 9 miếu. Có thể thấy dải đất
ven biển từ Trà Vinh xuống bán đảo Cà Mau
là khu vực tập trung đông đảo nhất các cơ sở
thờ tự Thiên Hậu chủ yếu do người Hoa Triều
Châu và người Việt xây dựng và quản lý. Bên
cạnh đó, con đường thương mại xưa qua kênh
Chợ Đệm, sông Mỹ Tho, sơng Măng Thít và
hệ thống sơng Tiền - sơng Hậu cũng là vùng
đất có nhiều miếu thờ Thiên Hậu (Tiền Giang,
Vĩnh Long). Khu vực thứ ba là dải đất ven biển
Tây mà tập trung nhiều nhất là vùng Rạch Giá
và Hà Tiên. Hai tiểu vùng Đồng Tháp Mười và
cánh đồng Hậu Giang là nơi thưa vắng nhất
trong toàn vùng.


<i><b>1.3. </b></i>Miếu Thiên Hậu và cộng đồng thờ


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Với tỷ lệ 23%, con số 17 miếu Thiên Hậu do
người Việt xây dựng và tổ chức quản lý ở vùng
Tây Nam Bộ phải chăng là một sự ngoại lệ vô


tiền khoáng hậu? Rõ ràng bà Thiên Hậu được
giới thiệu ra khắp thế giới, nơi các cộng đồng
bản địa chỉ dừng lại ở mức tiếp xúc chứ chưa
thật sự được tiếp nhận vào dòng văn hoá bản
địa, vậy tại sao bà lại có chỗ đứng nhất định
trong tâm thức một bộ phận người Việt? Nếu
cho hệ tư tưởng tam giáo đồng nguyên từ
trong truyền thống là một nền tảng văn hóa cơ
bản đưa các dân tộc chia sẻ cùng hệ tư tưởng
ấy đến gần nhau hơn, vậy tại sao ở Hàn Quốc
và Nhật Bản, bà Thiên Hậu chỉ được thờ tự
trong một nhóm nhỏ cư dân gốc Hoa mà thơi
(như Incheon, Mokpo ở Hàn Quốc; Okinawa
ở Nhật Bản)? Chắc chắn rằng việc tiếp nhận
và tổ chức hoạt động tín ngưỡng Thiên Hậu
vùng Tây Nam Bộ chứa đựng những hàm ý
diễn ngôn thú vị cần được phân tích thấu đáo.
Ngay ở Bắc và Trung Bộ, các miếu thờ Thiên
Hậu do người Hoa xây dựng và quản lý, nay
một phần đã “bản địa hóa” cùng với quá trình
hội nhập sâu đậm của cộng đồng này ở địa
phương (Hưng Yên, Nam Định, Huế, Hội An).
Một bộ phận khác vẫn do cộng đồng người
Hoa tổ chức quản lý và sinh hoạt tín ngưỡng,
như ở Quảng Ninh, Hội An, Đà Nẵng, Quy
Nhơn, Ninh Hòa, Nha Trang, Phan Thiết v.v.
(26). Ở Đơng Nam Bộ, tuy vẫn có hiện tượng
người Việt dựng miếu thờ bà Thiên Hậu nhưng
số lượng không nhiều và tính chất khơng tiêu
biểu như ở vùng Tây Nam Bộ. Trong những

phần nội dung dưới đây chúng tôi đi từ khảo
tả miếu thờ và tục thờ Thiên Hậu của người
Việt ở vùng văn hóa Tây Nam Bộ đến phân
tích, so sánh và suy luận nội dung, đặc điểm
cùng những diễn ngôn văn hóa - xã hội hàm
chứa trong tín ngưỡng này nhằm phần nào
tìm đáp án cho câu hỏi nói trên.


<b>2. Miếu thờ Thiên Hậu của người Việt vùng </b>
<b>Tây Nam Bộ </b>


<i><b>2.1. </b></i>Trong dòng chảy văn hóa người Việt,


Tây Nam Bộ là vùng văn hóa “sinh sau đẻ
muộn” so với nhiều vùng đất khác, là nơi hợp
lưu văn hóa các tộc người bản địa và mới đến,
đã “gặp gỡ”, “giao thoa”, “thâu nạp” lẫn nhau
và tái tạo, lên khuôn theo các kiểu thức riêng
của từng cộng đồng tộc người. Với tâm và thế


khai phóng tư duy, đón nhận những giá trị
mới theo hướng có thể sử dụng để bổ sung
vào dòng văn hóa của mình vốn đã có phần
sơ bạc sau nhiều thế kỷ di dân qua nhiều vùng
đất với các dạng thức văn hóa khác nhau. Nói
cách khác, quá trình thâu nhận và tái tạo văn
hóa người Việt ở Trung Bộ thời kỳ Đàng Trong
là một bước đệm, bước tập dượt hết sức có ý
nghĩa để người Việt vùng Tây Nam Bộ một lần
nữa “thâu nạp và tái cấu trúc nhiều thực hành


văn hóa - xã hội ở địa phương (xem thêm 18).
Trong hệ thống các bình diện văn hóa xã hội
được người Việt thâu nhận và tái tạo ở Tây
Nam Bộ thì tín ngưỡng tơn giáo, nghệ thuật
trình diễn và phương thức sinh kế là các lĩnh
vực phản ánh xu hướng ấy một cách sâu sắc
nhất. Nguồn gốc quan trọng nhất của các hiện
tượng thâu nạp này nằm ở <i>tính chất sơ bạc </i>của
văn hóa sau q trình di dân, khai khẩn và <i>tính </i>
<i>chủ động </i>của người Việt trong tiếp nhận cái
mới ở địa phương (nhất là các yếu tố văn hoá
Chăm, Hoa và Khmer).


Trong tâm thức người Việt cũng như nhiều
dân tộc khác ở Đông Nam Á và Đông Á (nhất
là ở Hoa Nam), mỗi thần thánh đều có những
“bổn phận”, “chức năng” riêng, trong số đó
nhiều thần thánh vừa mang hàm ý ước vọng
dân gian vừa mang các ý nghĩa biểu tượng do
chính quyền phong kiến trung ương ấn định.
Trong dân gian, các vị thần khác nhau có liên
quan đến các phạm trù, bình diện khác nhau
của đời sống nhân sinh, ví dụ bà Chúa Xứ cai
quản vùng đất, bà Thủy cai quản vùng nước,
Quan Thế Âm Bồ Tát cứu độ chúng sinh, Thiên
Hậu vừa là thần biển (hải thần) vừa là mẫu
thần ban phát phúc lành (phúc thần) v.v., do
vậy các dân tộc trong vùng có xu hướng kết
hợp thờ đa thần với mong mỏi “hễ bất cứ ước
vọng nào cũng có thần linh nghe thấy hết”.



<i><b>2.2. </b></i>Có 17 trên tổng số 74 miếu Thiên Hậu


toàn vùng Tây Nam Bộ là do người Việt xây cất
và tổ chức sinh hoạt tín ngưỡng <i>(Bảng 1)</i>.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Mã Châu ở ấp Bãi Bấc, xã Lại Sơn, quần đảo
Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang (22).


Nhìn chung, các miếu (miễu) Thiên Hậu do
người Việt xây dựng hồn tồn khơng theo
quy cách kiến trúc của người Hoa mà phảng
phất lối kiến trúc đình, miếu người Việt ở Nam
Bộ, đồng thời chứa đựng ít nhiều dấu ấn của
kiến trúc phương Tây. Về đại thể có thể chia
tổng số 17 miếu ấy thành ba phong cách
chính:


Một là dạng miếu quy mơ lớn mang phong
cách kiến trúc đình làng Nam Bộ, bao gồm
miếu Chúa Xứ - Thiên Hậu Hòa Thuận, miếu
Bà Thiên Hậu Vĩnh Bảo (Trà Vinh), Hội quán
Minh Hương thành phố Vĩnh Long, miếu Bà
Thiên Hậu ấp Cá Lóc (Trà Vinh), miếu Thiên
Hậu Huỳnh Kỳ (Sóc Trăng), miếu Thiên Hậu
Cây Bàng và miếu Thiên Hậu Tiệm Tơm (Bến
Tre). Các miếu có cấu trúc khơng gian lớn, ít có
họa tiết trang trí trên nóc hay mặt tiền miếu so
với miếu Thiên Hậu của người Hoa trong vùng
(ngoại trừ nhóm tứ linh và cá chép); ngược lại


có võ ca, võ quy và cấu trúc bố trí các khán thờ,


bàn thờ khá thống nhất với đình làng người
Việt, bao gồm bàn thờ chính thờ Thiên Hậu,
hai bên có phối thờ tiền - hậu hiền, tả - hữu
ban và các chiến sĩ, thần thánh khác <i>(Ảnh 1, 2)</i>.


Hai là dạng miếu pha trộn giữa phong
cách đình làng và kiến trúc nhà ở người Việt
vùng Tây Nam Bộ. Tiêu biểu phải kể đến miếu
Thiên Mậu Vĩnh Mỹ, thành phố Châu Đốc (An
Giang). Cấu trúc miếu về cơ bản là một căn
nhà một gian hai mái trước sau, mặt tiền có
ba cửa vào theo phong cách thượng song hạ
bản, mái ngói âm dương nâu đỏ, khá đồng
điệu với màu sắc tổng thể của miếu, trên gờ
nóc có trang trí các motip quỳ long và chim
phụng, hàng cột có bao lam hoa văn cung
đình Huế. Nội điện miếu phân thành hai bộ
phận chính, gồm phần khơng gian sinh hoạt
tín ngưỡng và phần chính điện nằm ở cuối
gian nhà. Ngồi Thiên Hậu được thờ phụng
trên đàn cao phía trên, còn có bàn hương án
thấp phía trước, hai bên có thờ tả - hữu ban
và tiền - hậu vãng. Miếu là nơi sinh hoạt cộng
đồng của người dân Châu Đốc, do vậy mang


STT Tên miếu Địa chỉ


1 Miếu Thiên Hậu Phường 1, thành phố Tân An, tỉnh Long An


2 Miếu Thiên Hậu Phường 7, thành phố Tân An, tỉnh Long An


3 Miếu Thiên Hậu Vĩnh Mỹ Phường Vĩnh Mỹ, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang
4 Miếu Thiên Hậu Thị trấn Ba Tri, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre


5 Miếu Thiên Hậu Tiệm Tôm Chợ Tiệm Tôm, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre
6 Miếu Thiên Hậu Cây Bàng Huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre


7 Hội quán Minh Hương Thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long


8 Miếu Thiên Hậu Hòa Lộc Chợ Hòa Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long
9 Miếu Bà Thiên Hậu Xã Vĩnh Bảo, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh
10 Miếu Chúa Xứ - Thiên Hậu Xã Hòa Thuận, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh
11 Miếu Bà Thiên Hậu Ấp Cá Lóc, Thị trấn Định An, Trà Cú, tỉnh Trà Vinh
12 Miếu Bà Thiên Hậu Thị trấn Cầu Ngang, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh
13 Miếu Thiên Hậu Huỳnh Kỳ Xã Vĩnh Hải, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng
14 Miễu Bà Thiên Hậu Xã Hòa Đơng, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng
15 Thiên Hậu Thánh Mẫu Cung Chợ thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
16 Thiên Hậu Cung Xã Vĩnh Mỹ B, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu
17 Miếu Thiên Hậu trong quần


thể Lăng Ông Nam Hải - Miếu
Bà Thiên Hậu


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

tính chất điển hình của ngơi miếu cộng đồng
(communal temple) <i>(Ảnh 3)</i>.


Dạng thứ ba là các miễu, am tự nhỏ khá
phổ biến trong các vùng nơng thơn Tây Nam
Bộ, thường chỉ có một gian nhỏ hoặc đơi khi có


thêm nhà tiền tế phía trước dùng làm nơi bái
viếng. Kiến trúc nhóm miếu thứ ba này nhìn
chung khá đơn giản, ngoại trừ miếu Thiên
Hậu phường 1, thành phố Tân An (Long An) và
miếu Thiên Hậu chợ Bạc Liêu (Bạc Liêu) có hoa
văn trang trí trên bao lam, cột trụ. Miếu Thiên
Hậu thị trấn Ba Tri (Bến Tre) gắn liền với chùa
Long Đức3<sub>. Các ngôi miếu này đa phần mang </sub>
tính chất gia miếu, dù rằng vẫn có Ban quản
lý, được hợp thành từ người dân địa phương,
song tính chất khá lỏng lẻo <i>(Ảnh 4)</i>.


Tượng Thiên Hậu của người Việt nhìn
chung có hai phong cách chính. Thứ nhất là
phong cách Việt, bà Thiên Hậu được thể hiện
trong hình dáng của vị mẫu thần từ bi, phúc
hậu, hoặc luống tuổi, hoặc trẻ trung, đầu đội


khác, hồn tồn mang tính chất dân gian Việt.
Phong cách thứ hai thể hiện theo kiểu chính
thống “ch̉n hóa”, bà là một vị “hồng hậu
thiên đình”, đầu có đội mão kiểu các hồng
đế Trung Hoa (phong cách nhà Minh là chính
́u). Nhóm tượng thứ hai này thường do Ban
quản trị miếu (miễu) đặt thỉnh từ Trung Quốc
hay từ cộng đồng người Hoa trong vùng về
thờ <i>(Ảnh 5, 6)</i>.


Các tượng thần phối thờ tương đối đa
dạng, từ Khổng Tử, Lão Tử cho đến các thần


thánh dân gian như Quan Công, Quan Âm, Địa
Mẫu, bà Chúa Xứ, 12 bà mụ, tả - hữu ban, tiền
- hậu vãng v.v. Cấu trúc các đối tượng thờ và
phối thờ thể hiện sự pha trộn tam giáo Nho,
Phật, Đạo cùng tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian
- một nét bản sắc văn hóa dân gian người Việt
xuyên suốt Bắc - Trung - Nam.


Hội họa và điêu khắc trang trí trên các
miếu Thiên Hậu của người Việt tương đối đơn
giản, chủ yếu xoay quanh nhóm tứ linh, hổ và
cá chép - một đặc trưng chung của các đình,


<i>Ảnh 1. Miếu Thiên Hậu Vĩnh Bảo, Ảnh 2. Miếu Thiên Hậu ấp Cá Lóc, TT. Đại An, </i>
<i>Châu Thành, Trà Vinh</i>2 <i><sub> Trà Cú, Trà Vinh </sub></i><sub> </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

miếu của người Việt ở Nam Bộ. Motip thường
thấy là lưỡng long tranh châu, song phụng
triều nhật, long phụng hòa minh, thanh long
- bạch hổ, ô quy - bạch hạc v.v. Nhìn dưới góc
độ mỹ thuật, các họa tiết mang phong cách
khá bình dị, bút pháp mộc mạc, cách phối
màu chủ yếu theo nguyên tắc đa sắc phối
hợp, trong đó nhiều nhất là ba màu đỏ, xanh,
vàng (theo ngũ hành). Dù là miếu (miễu) bà
với các sinh hoạt tín ngưỡng tự do linh hoạt
song phong cách kiến trúc và mỹ thuật về cơ
bản là theo điển chế nhà Nguyễn (1802-1945),
nhưng ở mức độ sơ bạc nhất <i>(Ảnh 7)</i>.



<b>3. Đặc điểm tục thờ và miếu thờ Thiên Hậu </b>
<b>của người Việt vùng Tây Nam Bộ</b>


Để thảo luận phần nội dung này, chúng
tơi áp dụng mơ hình Tam vị của Pierce để
nhấn mạnh mối quan hệ tương tác giữa biểu
tượng (<i>symbol)</i> hay kí hiệu <i>(sign</i>) với trường
ý nghĩa của biểu tượng (<i>signified</i>) trong bối


nhóm cộng đồng khách
thể cụ thể (tham khảo
5). Cùng với lớp ý nghĩa
“chuẩn hóa” do các triều
đại phong kiến “sắc
phong” và “gia phong”
(<i>superscribed</i>, theo quan
điểm của Duara) (1) cho
(tính tơn ti trật tự, tính
điển chế, tính gắn kết
nhà nước với cộng đồng
địa phương, hệ giá trị
Nho giáo v.v.), bà Thiên
Hậu trong dân gian là
một vị thần biển, thần
ban phát phúc lành, nữ
thần bảo trợ sinh sôi nảy
nở, và một vị “thần tài”.
Hẳn nhiên, các giá trị
biểu tượng này, dù là ở
lớp văn hóa “chuẩn hóa” hay văn hóa dân gian,


sẽ thay đổi tùy theo khách thể thờ tự là Hoa
hay Việt. Tục thờ Thiên Hậu vốn dĩ là một phần
hành trang của tộc người Hoa khi vượt biển
đến Việt Nam, sau quá trình cộng cư ở Nam Bộ
đã mở rộng, truyền bá đến một bộ phận người
Việt địa phương. Họ đã tiếp nhận hình ảnh bà
Thiên Hậu theo nhãn quang của riêng mình,
gắn hình ảnh bà Thiên Hậu với hệ thống vũ
trụ quan, nhân sinh quan người Việt Nam Bộ
thay vì tiếp nhận tồn bộ thiết chế tín ngưỡng
này. Nói cách khác, người Việt hầu như chỉ tiếp
nhận biểu tượng (symbol), chứ không tiếp
nhận trường ý nghĩa biểu tượng (signified).
So với Thiên Hậu, biểu tượng Quan Đế được
người Việt Nam tiếp nhận gần như trọn vẹn hệ
thống ý nghĩa biểu tượng (trung, nghĩa, thần
tài, thần trừ ma đuổi quỷ, Già lam Bồ tát, Hiệp
Thiên đại đế v.v.), đồng thời còn được gia tăng
trường ý nghĩa gắn với chủ nghĩa yêu nước
và tinh thần chống ngoại xâm ở Việt Nam hồi
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (xem 20). Nhìn
chung, tục thờ và hệ thống miếu thờ Thiên
Hậu của người Việt vùng Tây Nam Bộ mang
một số đặc điểm cơ bản sau:


<i>Thứ nhất</i>, tục thờ Thiên Hậu của người
Việt vùng Tây Nam Bộ <i>mang tính dân gian tự </i>
<i>phát</i>, thể hiện trong cả đức tin lẫn thực hành
tín ngưỡng. Đó là q trình “giải ch̉n hóa”



<i>Ảnh 5. Tượng Thiên Hậu trong miếu </i> <i> Ảnh 6. Tượng Thiên Hậu</i>
<i>Thiên Hậu, Phường 5, Tp. Tân An </i> <i> tại miếu Thiên Hậu Tiệm</i>
<i>tỉnh Long An </i> <i> Tôm, Ba Tri, Bến Tre</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

(de-standardization), tiếp nhận một phần giá
trị biểu trưng trong dân gian theo nhu cầu và
nhận thức của chính mình, và tiếp nhận qua
con đường Phật giáo trong bức tranh đa văn
hóa ở địa phương. Theo Ngơ Đức Thịnh, “giao
tiếp văn hóa, nói ngắn gọn là q trình các
cộng đồng người gặp nhau và trên cơ sở đó
tiếp nhận ở nhau những giá trị văn hóa” (15,
tr.39), tuy nhiên, chính nguồn vốn văn hóa
ban đầu sẵn có cùng với phương thức tiếp
nhận của chủ thể tiếp nhận mới quy định nên
diện mạo và đặc điểm yếu tố văn hóa được
tiếp nhận chứ khơng phải mọi biểu tượng đều
có trường ý nghĩa đã “định khuôn” sẵn.


Trước hết, người Việt tiếp nhận tục thờ
Thiên Hậu bằng cặp mắt dân gian, do vậy họ
chỉ cần tìm đến bà với một phần hệ thống ý
nghĩa dân gian của biểu tượng này mà thơi.
Người Việt đón nhận Thiên Hậu khá giống với
tiếp nhận Quan Âm Bồ Tát, hoàn toàn không
phải tiếp nhận một Thiên Hậu uy nghi quyền
thế được các hoàng đế Trung Hoa sắc phong
lẫm liệt. Theo quan điểm <i>chuẩn hóa thần thánh</i>


(standardization of gods) của James L. Watson


(Đại học Harvard), “bằng phẩm hạnh do hoàng
triều ban tặng và ủng hộ, Bà (Thiên Hậu) dần
dà trở thành nữ thần hàng đầu ở Hoa Nam”
(23, tr.293-294), trở thành một biểu tượng
mang hàm ý ẩn dụ của hoàng đế (imperial
metaphor) ở địa phương (4, tr.57-58). Rõ ràng,
những biểu tượng được triều đình cơng nhận
“đã sản sinh ra năng lực thống nhất văn hóa
cao độ, giúp vượt qua những khác biệt xã hội,
thể hiện trong cách diễn giải truyền thuyết và
thực hành nghi lễ ở địa phương” (12, tr.5). Tác
giả Paul Katz từng nhấn mạnh rằng, văn hóa
Trung Hoa hòa nhập nhất thể là nhờ q trình
ch̉n hóa văn hóa, chẳng hạn như việc chính
quyền và trí thức địa phương phụng mệnh
triều đình ra sức tuyên truyền trong dân chúng
về hình ảnh bà Thiên Hậu đã chuẩn hóa qua
các sắc phong (9, tr.71-90). Trong nhận thức
của đại bộ phận người Hoa ở Việt Nam, bà
Thiên Hậu sở hữu cả quyền lực trong thế giới
thiêng và thế giới phàm trần; người dân thờ
bà bởi cả hai nguồn uy lực ấy. Bà vừa là một
thánh mẫu linh thiêng (goddess), vừa là một
vị “thiên quan” (celestial bureaucrat) trong hệ
thống hành chính mơ phỏng thế giới hiện
thực thơng qua quy ước sắc phong của hồng


đế (xem 3; 4; 8; 24; 25). Khi người Hoa đến Việt
Nam và Đông Nam Á, họ gặp phải nhiều thử
thách của lịch sử, khơng ai khác hơn chính các


vị thần đã được sắc phong của họ đóng vai trò
là những vị “thiên quan” cai quản cộng đồng,
trực tiếp giúp họ ổn định niềm tin và nuôi
dưỡng những ước vọng vươn lên trong cuộc
sống. Ở chừng mực nhất định, chúng tôi đọc
được từ trong nhận thức của những cư dân
này rằng thần thánh đã thực hiện hiệu quả
chức năng “điều hòa giữa trật tự và phi trật tự”
như nhận định của Steve P. Sangren (11, tr.69).


Theo các phân tích trên đây, người Việt
vùng Tây Nam Bộ sẵn có tư duy mở - thoáng,
sẵn sàng tiếp nhận và tái cấu trúc đời sống tâm
linh, tạo nền tảng cho hiện tượng giao lưu văn
hóa giữa các dân tộc trong vùng, vì vậy họ đã
tiếp nhận thêm bà Thiên Hậu. Về thành phần
tiếp nhận, họ chủ yếu là người nơng dân và
trí thức nơng dân; cái gọi là “điển chế hồng
triều” vơ cùng xa lạ đối với họ, chính vì thế bà
Thiên Hậu giờ đây đã quay trở lại hình ảnh
ban đầu thời Tống ở Trung Quốc khi bà chưa
hề được sắc phong. Dù rằng người Việt nhiệt
thành tham dự các lễ hội tổ chức ở miếu Thiên
Hậu của người Hoa, song, như một hệ quả tất
yếu, họ tìm đến với bà như tìm đến với một vị
thần linh thiêng chứ khơng phải tìm đến một
“vị sứ giả” của các hoàng đế Trung Hoa. Như
một minh chứng sống động, các ngôi miếu
thờ Thiên Hậu do người Việt xây dựng hoàn
toàn mang phong cách Việt, lối trang trí và bố


cục thờ phụng cũng theo phong cách Việt.
Nhiều ban quản trị tổ chức múa bóng rỗi và
diễn chặp Địa - Nàng dịp lễ vía Thiên Hậu 23
tháng 3 âm lịch hàng năm như ở một số miếu
thờ nữ thần ở Nam Bộ nói chung, điều mà các
hồng đế và tầng lớp sĩ phu xưa (ở cả Trung
Quốc và Việt Nam) bài trừ triệt để. Cho đến
nay, việc tổ chức múa bóng rỗi và diễn chặp
Địa - Nàng chưa trở thành một hoạt động phổ
biến ở miếu Thiên Hậu của người Hoa, trừ một
số trường hợp cụ thể ở vùng nơng thơn Kiên
Giang và Sóc Trăng, nơi có số tín đồ người Việt
chiếm đa số.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Hậu và Quan Âm là hai đối tượng hoàn toàn
khác nhau (Thiên Hậu là nhân vật lịch sử người
Trung Quốc, được sắc phong; Quan Âm Bồ Tát
là nhân vật huyền thoại gốc Ấn Độ, không
được sắc phong). Ở trường ý nghĩa dân gian,
trong số các nhóm ý nghĩa biểu tượng chính
là thần biển, thần ban phát phúc lành, thần
bảo trợ sinh sôi nảy nở và thần tài, dường như
người Việt chủ yếu tiếp nhận bà ở hai nhóm
phúc thần và thần bảo trợ sinh sôi nảy nở, tức
một vị thần có phổ chức năng khá tương đồng
với bà Chúa Xứ hay Ngũ hành nương nương,
bà Thai Sanh ở địa phương.


Quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa Việt
- Hoa qua tín ngưỡng thờ Thiên Hậu vùng


Tây Nam Bộ diễn ra mạnh mẽ nhất ở các khu
vực cộng cư chung của ba cộng đồng Việt,
Hoa, Khmer, do vậy số miếu thờ Thiên Hậu
của người Việt ở những khu vực này phong
phú hơn cả. Hai trong số các khu vực ấy là: 1)
giồng đất ven biển Đông từ Bến Tre qua Trà
Vinh đến Sóc Trăng và 2) các vùng đất dọc
theo con đường giao thương kết nối Tp. Hồ
Chí Minh với Tây Nam Bộ: quốc lộ 1A, sơng
Măng Thít, hệ thống sơng Tiền - sơng Hậu.
Trong hai tiểu vùng này, Trà Vinh và Sóc Trăng
là hai địa phương điển hình nhất, nơi mà các
q trình giao lưu tiếp biến văn hóa giữa ba
cộng đồng dân tộc Việt, Hoa, Khmer diễn ra
mạnh mẽ và thường xuyên nhất, nhờ vậy tục
thờ bà Thiên Hậu của người Việt cũng thể
hiện sống động nhất. Đây là một hiệu ứng
tất yếu của hiện tượng “trăm hoa đua nở”, sự
tồn tại và phát triển của văn hóa Khmer ở hai
địa phương (xoay quanh trục Phật giáo Nam
Tông) đã gián tiếp tạo nền tảng cho tính đa
dạng của văn hóa tộc người, thơng qua đó, tín
ngưỡng Thiên Hậu cũng được người Việt tiếp
nhận qua con đường Phật giáo (xem thêm 21).


Một số miếu thờ Thiên Hậu của người Việt
gắn kết chặt chẽ với Phật giáo Bắc Tông, tiêu
biểu là các ngôi miếu mang dáng dấp của ngôi
chùa Bắc Tông như miếu Thiên Hậu tại thị trấn
Ba Tri (Bến Tre), Hội quán Minh Hương, thành


phố Vĩnh Long, miếu Thiên Hậu Hòa Lộc,
huyện Tam Bình (Vĩnh Long), miếu Thiên Hậu
ở phường 1, thành phố Tân An (Long An) hay
hiện tượng phối thờ Thiên Hậu trong chùa Tân
Long ở Trà Vinh. Dấu hiệu thường thấy ở đây


thể chùa Phật hoặc có cấu trúc “tiền Phật hậu
Thánh”. Trong ngày vía Thiên Hậu, các miếu
thờ này có xu hướng cúng chay, nghi lễ do các
tăng ni đảm trách (26).


Nói ngắn gọn hơn, người Việt vùng Tây
Nam Bộ có thiên hướng tiếp cận cái mình cần
và tiếp nhận theo cách tiện nghi nhất có thể,
thay vì tiếp nhận tồn bộ thiết chế văn hóa
một cách có hệ thống.


<i>Thứ hai</i>, tục thờ Thiên Hậu của người Việt
ở Tây Nam Bộ <i>khơng gắn với các thiết chế văn </i>
<i>hóa - xã hội</i> và <i>khơng chủ trương tìm kiếm và </i>
<i>gìn giữ bản sắc văn hóa</i> như đại bộ phận cộng
đồng tín ngưỡng Thiên Hậu của người Hoa
trong vùng. Theo nghiên cứu của tác giả Liu
Tiksang (10), miếu Thiên Hậu của người Hoa
vùng Hoa Nam thể hiện sự cộng gộp và vượt
gộp của nhiều hoạt động kinh tế, xã hội, chính
trị, văn hóa, hết thảy cùng hòa trộn vào thiết
chế tâm linh (trùng với quan điểm của Watson
(23), Jordan (8), Wolf (25),… nói trên). Trên
thực tế, cộng đồng người Hoa ở Tây Nam Bộ


khơng có một hệ thống tổ chức kết nối miếu
tự theo chiều dọc từ trung tâm vùng, tỉnh
xuống địa phương, và vì thế mỗi miếu tự là
một “trung tâm” sinh hoạt tâm linh của cư dân
khu vực ấy. Hoạt động lễ hội gắn thiết chế
tâm linh với các bình diện kinh tế, xã hội cộng
đồng địa phương, thể hiện sự gắn bố hữu cơ
hết sức sinh động của cái thiêng và cái phàm
trần của tín ngưỡng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

tâm ở chức năng đáp ứng nhu cầu được bảo
vệ, được an tâm về tâm linh (chủ yếu mang


<i>tính thiêng</i>). Xét về tầm ảnh hưởng, các tín đồ
đến viếng các miếu Thiên Hậu của người Việt
phần nhiều là các cư dân trong vùng, do vậy
giá trị và tầm ảnh hưởng của miếu thờ thấp,
xét về quy mô chỉ mang tầm ảnh hưởng cơ
sở (communal level). Trong khi đó, các miếu
Thiên Hậu của người Hoa có miếu mang tầm
cơ sở nếu như tọa lạc ở nơng thơn, có miếu
đạt đến tầm ảnh hưởng khu vực (sub-regional
level4<sub>) hay vùng (regional level</sub>5<sub>) nếu như tọa </sub>
lạc tại các thành phố, thị trấn, thị tứ hay đầu
mối các trục giao thông thủy, bộ.


Như đã giới thiệu trên đây, một số miếu
Thiên Hậu của người Việt có nhiều điểm giống
với đình làng của người Việt Nam Bộ. Cấu trúc
không gian các miếu thờ này đều có điểm


chung là phía trước miếu có kết cấu võ ca,
võ quy hoặc nhà tiền tế; trong chính điện có
phối thờ tả - hữu ban, tiền - hậu vãng <i>(Sơ đồ </i>
<i>1)</i>, trong khi nghệ thuật trang trí rồng phụng,
các họa tiết truyền thống lại hạn chế rất nhiều
so với miếu Thiên Hậu của người Hoa. Trong
các nghi thức cúng tế, các ngơi miếu này có
áp dụng điển chế của nhà Nguyễn khi tổ chức
lễ vía chính, theo sau đó là các hoạt động tín
ngưỡng dân gian như hát bóng rỗi, hát chặp
Địa - Nàng (nói trên) hay các trò diễn xướng
dân gian khác. Khác với một số miếu Thiên
Hậu của người Hoa trong vùng có hiện tượng
“nhập xác” đi kèm với các nghi lễ cổ xưa như
“cắt lưỡi lấy máu dán bùa”, “đập cầu gai lên
người”, “đứng, ngồi trên gươm đao”5<sub> v.v., các </sub>
miếu thờ của người Việt chỉ dừng lại ở các
hoạt động diễn xướng hay múa bóng giúp vui
cho thần thánh mà thơi.


<i>Thứ ba</i>, một số miếu thờ Thiên Hậu của
người Việt vùng Tây Nam Bộ vận động trên
trục tín ngưỡng thờ Mẫu (nữ thần) của người
Việt ở Nam Bộ, trong đó có <i>xu hướng Việt hóa</i>


khá rõ nét. Tất cả đều được gọi là <i>miếu</i> hoặc


miễu Bà Thiên
Hậu v.v.). Miếu Bà
Chúa Xứ - Thiên


Hậu ấp Đầu Bờ, xã
Hòa Thuận, huyện
Châu Thành, tỉnh
Trà Vinh là một
trường hợp điển
hình của hiện tượng “phối hợp” hay “dung
hợp” văn hóa đối với biểu tượng Bà Thiên
Hậu và các nữ thần, mẫu thần khác trong văn
hóa người Việt. Tại một số địa phương ở Trà
Vinh, bà Thiên Hậu được gọi là bà Chúa Xứ,
người dân coi bà như một vị thần cai quản
cõi thiêng ở địa phương như bà Chúa Xứ Núi
Sam (dù tượng thờ trong miếu là bà Thiên
Hậu, ngày vía chính là ngày Đản sinh Thiên
Hậu 23 tháng 3 âm lịch hàng năm). Ở trường
hợp thứ hai, miếu Bà Thủy ở thị trấn Cái Đôi
Vàm, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau thờ ba vị
thánh mẫu theo trật tự từ trái sang phải là bà
Thủy - bà Thượng (Thiên Hậu, Mẹ Nam Hải) -
bà Chúa Xứ, tức ba vị Thánh mẫu đại diện cho
ba tầng không gian nước - trời - đất (bộ Tam
tài) <i>(Ảnh 8)</i>. Theo nghiên cứu của chúng tơi thì
bà Thượng (bà Thiên Hậu) giữ thế <i>Thiên</i>, trong
khi hai vị thánh mẫu còn lại thì bà Thủy giữ thế


<i>Địa</i>, bà chúa Xứ giữ thế <i>Nhân</i>. Do nằm ở vùng
cửa biển Cà Mau và gắn liền với nghề đi biển,
ngôi miếu này gọi là miếu Bà Thủy dù trung
tâm miếu thờ là tượng bà Thượng (bà Thiên
Hậu) chứ không phải bà Thủy (xem thêm 18,


tr.24-34).


Thêm vào đó, với đặc trưng là một nhánh
nhỏ của tín ngưỡng thờ Mẫu (nữ thần) ở Nam
Bộ, tín ngưỡng thờ Thiên Hậu của người Việt
vùng Tây Nam Bộ đã được <i>bản địa hóa</i> mạnh
mẽ qua phong cách kiến trúc và mỹ thuật
trang trí miếu thờ mang phong cách <i>linh </i>
<i>hoạt dân gian</i> của người Việt7<sub>, phần nào đó là </sub>
những minh chứng quan trọng cho tính cách
mở - thoáng của người Việt Nam Bộ trong
việc thâu nạp và bản địa hóa văn hóa của các
dân tộc khác trước khi làm phong phú thêm
truyền thống văn hóa dân tộc mình. So với
phong cách người Việt kể trên thì tục thờ và
miếu thờ Thiên Hậu của người Hoa Quảng
Đơng thể hiện <i>tính tơn nghiêm </i>trong việc tuân
thủ điển chế (nhà Minh), phong cách kiến


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>thớng hóa</i>”; người Hoa Triều Châu mang <i>tính </i>
<i>linh hoạt</i> trong sáng tạo và thể hiện tài năng
mỹ thuật và nghệ thuật kiến trúc <i>dân gian</i>;
người Hoa Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia
có phong cách nằm giữa hai cực ấy.


<i>Thứ tư,</i> xét ở đối tượng cộng đồng thờ tự,
đại bộ phận các trường hợp người Việt Tây
Nam Bộ <i>tiếp nhận tục thờ Thiên Hậu đều qua </i>
<i>cộng đồng người Hoa Triều Châu </i>hơn là qua
các nhóm phương ngữ Hoa khác. Với tổng số


44/54 miếu Hoa toàn vùng, người Hoa Triều
Châu gần như chiếm vị trí áp đảo trong hệ
thống tục thờ này ở địa phương xét về cả quy
mô lẫn địa bàn phân bố8<sub>. Trong khi đó, ở khu </sub>
vực Thành phố Hồ Chí Minh và Đơng Nam Bộ
vị trí ấy thuộc về người Hoa Quảng Đơng.


So với các nhóm phương ngữ Hoa khác,
người Hoa Triều Châu có cuộc sống gắn bó với
cả môi trường đô thị lẫn nông thôn, họ phân
bố chủ yếu ở Đồng bằng sông Cửu Long mà
nhiều nhất là phía nam sơng Hậu. Sự cộng cư,
chung lưng đấu cật trong làm nông nghiệp,
sản xuất thủ công nghiệp và thương mại giữa
họ với người Việt địa phương đã đặt nền tảng
cho các q trình hơn nhân xun tộc người
và giao lưu tiếp biến văn hoá mạnh mẽ. Trong
phương ngữ Việt vùng Tây Nam Bộ, người ta
có thể tìm thấy rất nhiều dấu vết văn hoá Hoa
Triều Châu, từ tên gọi tía, má (ba mẹ), mứt thèo
lèo, bánh pía (Sóc Trăng), chè ỷ, mì sụa, củ cải
xá bấu, quýt Tiều v.v., cho đến phương thức
canh nông vùng giồng duyên hải ven biển
Đông trong vùng đều có đóng góp khơng
nhỏ của nhóm tộc người này. Ca dao vùng


xứ cơ cầu/ Dưới sông cá lội,
trên bờ Triều Châu”. Bàn về
văn hóa người Triều Châu,
tác giả Trung Quốc là Trần


Trạch Hoằng (7) cho rằng họ
mang trong mình <i>tính nước </i>
<i>đơi </i>tiêu biểu nhất vùng Hoa
Nam: vừa c<i>ởi mở khai phóng</i>


vừa <i>khép kín bảo thủ</i>. Đặc
điểm này bao trùm thái độ và
hành vi đối lập nhưng song
hành tồn tại do cả hai diễn
hóa hai phổ chức năng khác
nhau: tính <i>bảo thủ khép kín</i> là
trường lũy vững chắc để gìn
giữ bản sắc nhóm tộc người,
trong khi tinh thần <i>cởi mở khai phóng</i> là điều
kiện cần và đủ để mở rộng giao lưu văn hóa và
thâu nạp tinh hoa từ các cộng đồng lân cận.
Bằng sự thể hiện cụ thể của tính nước đơi này,
người Hoa Triều Châu đã “chia sẻ” cho một bộ
phận người Việt hình ảnh bà Thiên Hậu đơn
thuần để tự “nhào nặn” lại diện mạo và nội
hàm theo ý muốn riêng, song mặt khác, họ
vẫn giữ cho mình linh hồn, chiều sâu và sắc
thái văn hóa gắn với bà Thiên Hậu thông qua
miếu thờ và hệ thống thực hành nghi lễ.


<b>Thay lời kết luận</b>


Tục thờ Thiên Hậu là một thiết chế tín
ngưỡng - văn hóa - xã hội đặc thù của người
Hoa Nam được truyền bá và bén rễ khắp nơi


trên thế giới cũng như ở nhiều vùng miền đất
nước Việt Nam, trong đó, tín ngưỡng này được
tiếp nhận mạnh mẽ tại hai vùng Đông Nam Bộ
và Tây Nam Bộ. Được biết đến như một kênh
gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa Hoa Nam
tại từng địa phương, tục thờ bà Thiên Hậu chưa
từng được các cộng đồng dân cư bản địa tiếp
nhận và tôn thờ, ngoại trừ một bộ phận người
Việt ở Nam Bộ. Với việc xây dựng, tổ chức và
quản lý 17 ngôi miếu (chiếm 23% trên tổng
số miếu thờ toàn vùng), người Việt vùng Tây
Nam Bộ đã chủ động nắm bắt, tiếp nhận văn
hóa dân gian người Hoa, một mặt làm phong
phú thêm văn hóa truyền thống của mình, mặt
khác trực tiếp góp phần vào q trình giao lưu,
hội nhập đa văn hóa ở địa phương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Ở tục thờ Thiên Hậu của người Hoa, các lớp
văn hóa “chuẩn hóa” và văn hóa dân gian đan
xen với nhau, cùng tạo nên cấu trúc thiêng
- phàm với những mảng chức năng riêng
biệt. Khi ứng xử đối nội (giữa người Hoa với
nhau), bà Thiên Hậu đóng vai một thần linh
thuần túy, khi ứng xử với quan hệ văn hóa đa
tộc người, bà Thiên Hậu đóng vai của một vị
Thiên quan được các triều đại xưa sắc phong.
Cấu trúc phân tầng này hoàn toàn bị phá vỡ
khi tục thờ này được người Việt tiếp nhận. Với
tư duy mở thống thuần phác (và có phần sơ
bạc), người Việt trong vùng đã chủ động tiếp


nhận thứ mình cần và tiếp nhận theo cách
riêng của mình (mang dấu ấn Phật giáo) trong
mơi trường có những thơi thúc mạnh mẽ của
giao lưu đa văn hóa ở khu vực. Lối tư duy ấy,
tuy khơng mang tính hệ thống và khó có thể
giúp “tái cấu trúc” và “lên khn” những mảnh
rời văn hóa được tiếp nhận thành một thiết
chế mới có tổ chức cao hơn, song nó trực tiếp
thúc đẩy các q trình giao lưu văn hóa xuyên
tộc người ở địa phương.


Vốn được đánh giá là một loại “bảo tàng”
sống của những tri thức bản địa về lịch sử -
văn hóa - xã hội thơng qua các mơ-típ kiến
trúc, mỹ thuật trang trí, hội họa và điêu khắc
mang đậm tính điển chế “ch̉n hóa”, hệ
thống miếu thờ Thiên Hậu của người Hoa
trong vùng có chức năng chính là gắn kết tộc
người, tạo dựng và ni dưỡng ý thức và bản
sắc văn hóa dân tộc. Trong khi đó, miếu thờ
Thiên Hậu của người Việt mang tính thuần
phác của phong cách mỹ thuật dân gian, cốt
là để tạo dựng một không gian <i>thiêng</i> thuần
túy trong tâm thức tín đồ địa phương. Với xu
hướng không ngừng tiếp nhận, dung hợp văn
hóa đa tộc người dưới lăng kính Phật giáo,
người Việt vùng Tây Nam Bộ đã và đang trong
quá trình nhào nặn hình hài, diện mạo văn hóa
dân gian trong vùng. Q trình ấy dường như
chưa có dấu hiệu dừng lại, và do vậy việc luôn


không ngừng mở mang tiếp nhận văn hóa
đa tộc người để làm giàu vốn sống của mình
đã và đang là một đặc điểm tâm thức quan
trọng của họ. Tục thờ Thiên Hậu của người
Việt vùng Tây Nam Bộ đang dần chuyển động
theo hướng tách biệt dần với truyền thống


thờ Thiên Hậu của người Hoa và hòa nhập vào
dòng chảy tín ngưỡng thờ nữ thần, mẫu thần
của người Việt địa phương. Người Việt chỉ tiếp
nhận hình ảnh Thiên Hậu chứ khơng phải tục
thờ và tồn bộ hệ thống ý nghĩa của nó.


N.N.T


<i>(PGS.TS, Trường ĐHKHXH&NV- ĐHQG TP. HCM)</i>


<b>Chú thích</b>


1<sub> Ở Thành phố Hồ Chí Minh có đền </sub>
Mariam-man tại số 45 Trương Định, Quận 1.


2<sub> Thơng tin và hình ảnh trong bài viết này là </sub>
tư liệu điền dã được tác giả thực hiện rộng khắp
vùng Tây Nam Bộ trong các năm 2013, 2014,
2015 và 2016.


3 <sub>Ngôi chùa được xây thêm vào năm 1967 trên </sub>
cơ sở khuôn viên miếu Thiên Hậu có trước.



4 <sub>Như miếu Thiên Hậu thành phố Cà Mau, </sub>
miếu Thiên Hậu thị xã Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng,
miếu Thiên Hậu thành phố Trà Vinh, miếu Thiên
Hậu thành phố Sa Đéc, miếu Thiên Hậu thành
phố Vĩnh Long v.v.


5<sub> Như miếu Tuệ Thành Quận 5 Thành phố Hồ </sub>
Chí Minh; miếu Bà Hẹ - Thiên Hậu Cung Thất Sơn,
Tịnh Biên, An Giang.


6<sub> Chẳng hạn hệ thống miếu tại Cầu Kè, Trà </sub>
Cú tỉnh Trà Vinh, thị trấn Ngan Dừa tỉnh Bạc Liêu,
Vũng Thơm và Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng v.v. Đây
cũng là một thể hiện khác của hiện tượng “giải
chuẩn hóa (de-standardization)” hay “giải chính
thống (de-orthopraxy)” trong văn hóa người Hoa
ở Việt Nam (xem thêm 19).


7<sub> Như phân tích ở mục 2 của bài viết này.</sub>
8<sub> 10 ngôi miếu còn lại bao gồm 7 miếu Hoa </sub>
Quảng Đông, 2 miếu Hoa Hải Nam, 1 miếu Hoa
Khách Gia. Người Hoa Phúc Kiến ở Tây Nam Bộ
chỉ có miếu nam thần (chủ yếu thờ Quan Đế),
trong khi tại thành phố Hồ Chí Minh họ có hai
cơ sở thờ Thiên Hậu là miếu Ôn Lăng và miếu Hà
Chương đều ở khu vực Quận 5.


<b>Tài liệu tham khảo</b>


1. Duara, Prasenjit (1988), <i>Superscribing </i>


<i>symbols: The myth of Guandi, the Chinese god of </i>
<i>war</i>, Journal of Asian Studies, 47 (4), pp. 778-95.


2. Lâm Mỹ Dung (2006), <i>Tín ngưỡng Ma Tổ và </i>
<i>xã hội Đài Loan</i>, Công ty TNHH sự nghiệp văn hóa
Bác Dương xuất bản (林美容 2006,《媽祖信仰


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i>village: representing the state in South China</i>, in
Joseph P. McDermott (ed.), State and Court Ritual
in China, Cambridge University Press, pp. 267-98


4. Feuchtwang (1974), <i>Domestic and </i>
<i>communal worship in Taiwan</i>, in Arthur P. Worl
(ed.), Religion and ritual in Chinese society,
Stan-ford University Press.


5. Đinh Hồng Hải (2015), <i>Tỳ hưu: nguồn gớc, </i>
<i>tín ngưỡng và những biểu hiện trong văn hóa và </i>
<i>xã hội Việt Nam</i>, in trong Mỹ thuật ứng dụng trên
đường tìm về bản sắc Việt, Nxb. Văn hóa Văn
nghệ Tp. Hồ Chí Minh.


6. Đỗ Thị Hảo, Mai Ngọc Chúc (1984), <i>Các nữ </i>
<i>thần Việt Nam</i>, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.


7. Trần Trạch Hoằng (2001), <i>Khái thuyết văn </i>
<i>hóa Triều Sán</i>, Nxb. Nhân dân Quảng Đông (陳澤
泓 (2001), 潮汕文化概說, 廣東人民出版社).


8. Jordan, David K. (1972), <i>Gods, ghosts and </i>


<i>ancestors: the folk religion of a Taiwanese village</i>,
University of California Press, Berkeley.


9. Katz, Paul R. (2007), <i>Orthopraxy and </i>
<i>Heteropraxy beyond the state - standardizing ritual in </i>
<i>Chinese society</i>, Modern China, Vol 33-1, pp. 72-90.


10. Liu Tiksang (2000), S<i>ùng bái Thiên Hậu ở </i>
<i>Hồng Kông</i>, Joint Publishing Hong Kong, (廖迪生


(2000),《香港天后崇拜》三聯書店 (香港有限


公司).


11. Sangren, Steven P. (1987), <i>History and </i>
<i>magical power in a Chinese community</i>, Stanford
University Press.


12. Sutton, Donald (2007), <i>Introduction to </i>
<i>the Special Issue: Ritual, Cultural Standardization, </i>
<i>and Orthopraxy in China - reconsidering James L. </i>
<i>Watson’s ideas</i>, Modern China, Vol 33: 1, pp. 3-21.


13. Cao Tự Thanh (1996), <i>Nho giáo ở Gia Định</i>,
Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.


14. Trần Ngọc Thêm (2004), <i>Tìm về bản sắc văn </i>
<i>hóa Việt Nam</i>, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.


15. Ngơ Đức Thịnh (1984), <i>Giao tiếp văn hóa </i>


<i>và vai trị của nó đới với quy luật đổi mới cái truyền </i>
<i>thớng trong văn hóa các dân tộc Việt Nam và Đơng </i>
<i>Nam Á</i>, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 39-45


16. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2001), <i>Tín </i>
<i>ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam</i>, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.


<i>trình của thần linh và thân phận</i>, Viện nghiên cứu
và bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam và Nxb.
Thế giới.


18. Nguyễn Ngọc Thơ (2015), <i>Dấu tích tục </i>
<i>thờ Tam phủ trong tín ngưỡng thờ Thiên Hậu của </i>
<i>người Việt vùng Tây Nam Bộ</i>, Tạp chí Văn hóa dân
gian, số 6 (162), tr. 24-34.


19. Nguyễn Ngọc Thơ (2017), <i>Tín ngưỡng </i>
<i>Thiên Hậu vùng Tây Nam Bộ</i>, Nxb. CTQG, Hà Nội.


20. Nguyễn Ngọc Thơ (2017), <i>Biến đổi và tăng </i>
<i>quyền tín ngưỡng Quan Cơng ở Nam Bộ</i>, Tạp chí
Khoa học, Trường Đại học Trà Vinh, số 27-2017,
tr.56-69.


21. Nguyễn Ngọc Thơ (2018), <i>Dấu ấn Phật </i>
<i>giáo trong tín ngưỡng Thiên Hậu ở Nam Bộ</i>, Tạp chí
Khoa học, Trường Đại học Trà Vinh, số 29-2018, tr
38-52.



22. Phan Thị Yến Tuyết (2014), T<i>ín ngưỡng </i>
<i>thờ mẫu và nữ thần từ chiều kích văn hóa biển </i>
<i>của vùng biển đảo Kiên Hải (Kiên Giang),</i> in trong
Tuyển tập Việt Nam học, Nxb. Đại học Quốc gia
Tp. Hồ Chí Minh.


23. Watson, James (1985), <i>Standardizing the </i>
<i>gods: The promotion of Tien’hou (“Empress of </i>
<i>Heaven”) along the South China coast, 960-1960, </i>


in James Watson, Rubie. S. Watson ed, Village Life
in Hong Kong - Politics, gender, and ritual in the
New Territories, The Chinese University Press.


24. Weller, Robert P. (1987), <i>Unity and </i>
<i>diversity in Chinese Religion</i>, University of
Washington Press, Seatle.


25. Wolf, Arthur P. (1974), <i>Gods, ghosts and </i>
<i>ancestors</i>, in Arthur P. Worl (ed.), Religion and
rit-ual in Chinese society, Stanford University Press,
Stanford.


Ngày nhận bài: 21 - 5 - 2018


</div>

<!--links-->

×