Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Văn hóa đọc trong thanh niên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC
--oOo--

NGUYỄN THỊ KHÁNH HỊA

VĂN HĨA ĐỌC
TRONG THANH NIÊN HIỆN NAY
(TRƯỜNG HỢP TỈNH KHÁNH HỊA)

LUẬN VĂN THẠC SỸ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC
--oOo--

NGUYỄN THỊ KHÁNH HỊA

VĂN HĨA ĐỌC
TRONG THANH NIÊN HIỆN NAY
(TRƯỜNG HỢP TỈNH KHÁNH HỊA)

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUN NGÀNH VĂN HĨA HỌC
MÃ SỐ: 60.31.70


HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS TÔN NỮ QUỲNH TRÂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2009


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đỗ Nam Liên và
đặc biệt PGS.TS. Tơn Nữ Quỳnh Trân người đã tận tình hướng dẫn luận văn cho
tôi.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô đã truyền đạt kiến thức cho tôi suốt
những năm học qua. Xin cảm ơn quý thầy cô trong Hội đồng chấm luận văn đã
dành thời gian và công sức sửa chữa, đóng góp ý kiến để luận văn hoàn chỉnh
hơn.
Xin cảm ơn các vị lãnh đạo, cán bộ, nhân viên Thư viện tỉnh, Các Nhà
sách, đóng trên địa bàn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; các trường đại
học, cao đẳng; Đài PT-TH Khánh Hòa đã tạo điều kiện giúp đỡ trong thời gian
tôi điền dã, sưu tầm tài liệu để thực hiện đề tài.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, ủng hộ và hỗ trợ
trong suốt thời gian tôi thực hiện luận văn này.

Học viên: Nguyễn Thị Khánh Hòa


1

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 3

2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 4
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................... 6
4.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................ 6
4.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 6
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn........................................................................... 7
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu ........................................................ 7
6.1. Phương pháp nghiên cứu........................................................................ 7
6.2. Nguồn tư liệu ......................................................................................... 7
7. Bố cục của luận văn.......................................................................................... 8
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ................................................... 9
1.1. Khái niệm .............................................................................................. 9
1.1.1. Đọc ................................................................................................. 9
1.1.2. Văn hóa đọc .................................................................................. 10
1.2. Vai trị, chức năng và các hình thức của văn hóa đọc ........................... 13
1.2.1. Vai trị của văn hóa đọc................................................................. 13
1.2.2. Chức năng của văn hóa đọc........................................................... 13
1.2.3. Các hình thức đọc ......................................................................... 15
1.3. Văn hóa đọc trong khơng gian và thời gian .......................................... 16
1.3.1. Văn hóa đọc trong khơng gian....................................................... 16
1.3.2. Văn hóa đọc trong thời gian .......................................................... 20
1.4. So sánh mối quan hệ giữa văn hóa đọc và văn hóa nghe, nhìn.............. 24
1.5. Mối quan hệ giữa thanh niên và văn hóa đọc........................................ 26
1.6. Tổng quan về đất nước và con người Khánh Hòa................................. 28
1.7. Đặc trưng của thanh niên Khánh Hịa và văn hóa đọc .......................... 30
Chương 2 THANH NIÊN KHÁNH HỊA VÀ VĂN HĨA ĐỌC ........................ 33
2.1. Nguồn đọc trong thanh niên Khánh Hòa .............................................. 33
2.1.1. Nguồn đọc của thanh niên theo thể loại......................................... 35



2
2.1.2. Nguồn đọc của thanh niên trên mạng Internet................................ 36
2.2. Độ quan tâm của thanh niên Khánh Hòa với văn hóa đọc..................... 37
2.2.1. Mức độ quan tâm của thanh niên theo thể loại............................... 37
2.2.2. Mức độ quan tâm của thanh niên theo chất liệu ............................. 41
2.3. Thanh niên Khánh Hòa trong việc nhận thức văn hóa đọc.................... 47
2.3.1. Trong việc nâng cao kiến thức mở rộng tầm nhìn.......................... 48
2.3.2. Thanh niên tự hoàn thiện nhân cách, làm đẹp tâm hồn .................. 49
2.4. Hạn chế về văn hóa đọc trong thanh niên Khánh Hịa .......................... 50
2.4.1. Thanh niên thiếu thói quen tranh luận ........................................... 50
2.4.2. Thanh niên thiếu vận dụng kiến thức vào cuộc sống...................... 52
2.4.3. Những mảng xám ít được thanh niên quan tâm ............................. 53
2.4.4. Việc cảm nhận, tiếp thu giá trị tác phẩm trong thanh niên ............. 54
Chương 3 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ..................................................... 57
ĐÊN VĂN HÓA ĐỌC TRONG THANH NIÊN KHÁNH HÒA ........................ 57
3.1. Những nhân tố làm giảm sút vị trí của văn hóa đọc trong thanh niên.... 57
3.1.1. Ưu thế của văn hóa nghe nhìn ....................................................... 57
3.1.2. Thiếu thói quen đọc....................................................................... 58
3.1.3. Thiếu thời gian và tài chính........................................................... 59
3.1.4. Thiếu nguồn đọc phù hợp với thanh niên....................................... 62
3.1.5. Những bất cập trong việc học và dạy môn văn .............................. 62
3.1.6. Công tác lý luận, phê bình, giới thiệu nguồn đọc cịn hạn chế ....... 64
3.2. Những nhân tương tác đến văn hóa đọc................................................ 66
3.2.1. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật................................................... 66
3.2.2. Kinh tế thị trường và việc đọc ....................................................... 70
3.2.3. Bản sắc văn hóa Việt Nam và văn hóa đọc .................................... 73
KẾT LUẬN........................................................................................................ 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 84
PHỤ LỤC 1........................................................................................................ 89
CÁC BẢNG PHỎNG VẤN ............................................................................... 89

PHỤ LỤC 2........................................................................................................ 96
BIỂU ĐỒ LUẬN VĂN ...................................................................................... 96


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XXI là thời đại tin học, vai trị của truyền thơng đại chúng phát triển
mạnh mẽ với khoa học công nghệ. Trước khi có các phương tiện nghe nhìn hiện
đại, sách là con đường lớn nhất để con người tiếp cận thông tin, văn hóa và tri
thức. Sách là kho chứa tri thức vô tận, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác Ngày nay, ngồi sách, con người cịn
tiếp thu thơng tin qua các phương tiện thông tin đại chúng khác như truyền hình,
phim ảnh, Internet do vậy thị hiếu của độc giả đã thay đổi, sự thay đổi này tác
động mạnh mẽ đến việc đọc, văn hóa đọc vì thế có những bước chuyển biến về
chất.
Trong thời đại phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin hiện nay, thị hiếu
của độc giả đã liên tục thay đổi do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan
khác nhau. Sự thay đổi này có tác động mạnh mẽ đến văn hóa đọc. Việc tiếp
nhận thông tin của độc giả không chỉ dựa hồn tồn vào sách, báo, tạp chí mà
cịn có các nguồn thông tin đa dạng và phong phú khác.
Tuy có sự phát triển vượt bậc của các phương tiện văn hóa đọc, nhưng cho
đến nay văn hóa đọc vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Có thể nói văn hóa đọc
mới chỉ được bắt đầu chú ý qua chương trình thời sự, chun mục về sự kiện văn
hóa và kết nối trẻ phát sóng trên kênh VTV1, VTV3, VTV6 của Đài Truyền hình
Việt Nam với nội dung đưa ra cảnh báo về tình trạng sa sút của văn hóa đọc
trong giới trẻ. Ngồi ra cũng có một số báo, tạp chí bàn về văn hóa đọc và nội
dung nêu lên hiện tượng ít đọc sách, báo của giới trẻ. Trước những vấn đề liên
quan đến văn hóa đọc trong giới trẻ, trước việc thanh niên nói chung và thanh

niên ở Khánh Hịa nói riêng những đối tượng mới lớn cịn thiếu kinh nghiệm
sống, thì sự định hướng trong việc tiếp cận với thông tin một cách lành mạnh là
cần thiết.
Đối với thanh niên là sinh viên, công chức, công nhân trẻ thì con đường đến
với tri thức, khoa học, văn hóa v.v… ngồi việc học ở trường thì việc làm phong
phú kiến thức thông qua nguồn đọc là sách, báo, tạp chí, Internet… có vai trị
quan trọng, nguồn đọc trên là kho chứa đựng thông tin, tri thức. Nguồn đọc, đặc


4
biệt là đọc sách vừa là người thầy, vừa là người bạn giúp thanh niên học tập tốt
hơn, sáng tạo hơn, không chỉ giúp cho thanh niên trong học tập mà sách, báo cịn
giúp cho thanh niên hồn thiện nhân cách, sống có hồi bão, lý tưởng bằng
những chân lý, đạo đức, những gương sáng điển hình.
Việc nghiên cứu văn hóa đọc trong thanh niên hiện nay giúp chúng ta có cái
nhìn khách quan về văn hóa đọc của thanh niên, đánh giá được thực trạng văn
hóa đọc trong thanh niên để đưa ra những phân tích, lý giải nhằm phát huy vai trị
quan trọng của văn hóa đọc. Vì thế, nghiên cứu văn hóa đọc trong thanh niên là
một việc làm cần thiết và đó cũng là lý do chúng tơi chọn đề tài “Văn hóa đọc
trong thanh niên (Trường hợp tỉnh Khánh Hoà)” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Những hiệu ứng đi liền với việc đọc là suy nghĩ, suy ngẫm, tra cứu, tìm tịi,
là cơ sở nâng cao tri thức, hiểu biết, tạo nên những vỉa tầng sâu sắc trong hệ
thống kiến thức, nhận thức của mỗi con người. Vì những giá trị ấy của văn hóa
đọc đề tài “Văn hóa đọc trong thanh niên (Trường hợp tỉnh Khánh Hồ)” có mục
đích giúp cho thanh niên Khánh Hồ tiếp cận với văn hóa đọc có nhận thức đúng
đắn về vai trị quan trọng của văn hóa đọc, để trên cơ sở đó có cách tiếp nhận, xử
lý các thông tin, tri thức một cách khoa học và có hiệu quả với văn hóa đọc,
thanh niên sẽ không ngừng được nâng cao kiến thức, tư duy được đổi mới, theo
kịp sự phát triển của xã hội. Ngồi mục đích trên, đề tài cịn hướng đến việc giúp

cho thanh niên rèn luyện nhân cách, sống có hồi bão, lý tưởng vì tính hướng
thiện trong văn hóa đọc.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Tầm quan trọng của việc đọc trong quá trình hội nhập xã hội hiện đại đã
được nhiều quốc gia khẳng định. Một cương lĩnh quốc gia nhằm nâng cao việc
đọc trong cộng đồng Hà Lan có tên là Stiching Lezen ra đời vào năm 1998 sau
khi số liệu hơn một nửa số người lớn Hà Lan hiếm khi đọc sách báo được công
bố từ cuộc khảo sát quốc gia của Liên đoàn Quốc tế các cơ quan và hiệp hội thư
viện (IFLA) tại Amsterdam1
1

Thiện Hưng: Văn hóa đọc những con số biết nói, Tuổi trẻ chủ nhật,10/12/2006


5
Cương lĩnh này nhấn mạnh những lợi ích của việc đọc đối với phát triển đời
sống văn minh và tinh thần của con người trong xã hội. Theo đó, việc đọc làm
cho cuộc sống chất lượng hơn, là con đường tiếp cận các nền văn hóa và di sản
văn hóa. Đọc làm cho các công dân trong xã hội trở thành những người có sức
mạnh tinh thần, giải phóng khỏi những hạn chế về mặt xã hội, về mặt pháp lý, về
mặt tâm lý cá nhân… Và việc đọc mang con người đến gần nhau.
Tương tự, sau khi kết quả khảo sát của Tổ chức National Endowment for
Arts về việc chưa đến một nửa người lớn Hoa Kỳ đọc sách báo trong thời gian
rảnh rỗi2 được công bố (2004). Các bang lập tức đề ra những chương trình nâng
cao tập quán đọc cho cộng đồng và cá nhân trong xã hội. Trong lúc Hà Lan chú
trọng đến lợi ích phát triển sức mạnh tinh thần thì Hoa Kỳ nhấn mạnh đến giá trị
mà văn hóa đọc mang đến cho mỗi cơng dân trong thực tiễn nghề nghiệp và q
trình phát triển nền kinh tế tri thức. Kỹ năng và thói quen đọc nâng cao những kỹ
năng mà môi trường làm việc trong thế kỷ XXI đòi hỏi, nâng cao kỹ năng làm

việc cộng đồng.
Ông Elaine Leung, Trưởng ban Tổ chức Liên hoan Sách Quốc tế năm 2004
tại Hồng Kơng nói rằng: “Có q nhiều hình thức giải trí ở Hồng Kơng, đặc biệt
là karaoke và phim ảnh. Nhiều người thích chơi game hơn là ngồi đọc sách. Họ
không nghĩ đọc sách cũng là một cách giải trí. Văn hóa đọc của người Hồng
Kông đang mai một dần đi”.
Nghiên cứu của các tác giả trong nước
Tại Việt Nam, văn hóa đọc cũng đã được các nhà nghiên cứu đề cập từ
nhiều góc độ. Bài “Văn hóa đọc và văn hóa nghe nhìn với tuổi trẻ” của Phạm
Đức Dương đăng trên tạp chí Thanh niên số 05/2005 đã phân tích những vấn đề
đang cần đặt ra về văn hóa đọc và văn hóa nghe nhìn của tuổi trẻ, đó là tình trạng
bắt chước theo lối sống nước ngoài, ngoài việc nêu thực trạng, Phạm Đức Dương
còn đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển văn hóa đọc trong giới trẻ’. Bài viết
của Phạm Đức Dương cho thấy tầm quan trọng của văn hóa đọc trong việc trau
dồi kiến thức của lớp trẻ . Sau bài viết này, báo Lao Động của Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam mở chuyên mục “Sách và văn hóa đọc”. Các website
2

Thiện Hưng: văn hóa đọc những con số biết nói, Tuổi trẻ chủ nhật,10/12/2006


6
Sachhay.com; Chungta.com…cũng tập hợp các bài viết về văn hóa đọc của thanh
niên. Trong bài “Báo động về văn hóa đọc sách ở châu Á” đăng trên tạp chí Sách
và đời sống số 04/2004, tác giả H.V dịch theo AFP cho biết Nhật Bản với dân số
130 triệu người, tỷ lệ người biết chữ gần như 100% nhưng lại quá bận rộn nên
hầu hết họ khơng có thời gian đọc sách. Nội dung của những bài viết trong các
chuyên mục này đề cập đến tầm quan trọng của văn hóa đọc đối với việc học tập,
nghiên cứu, lao động, sáng tạo cũng như việc nâng cao đời sống văn hóa tinh
thần con người.

Những nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đã phác thảo một
bức tranh toàn cảnh về văn hóa đọc, đến giá trị chung của văn hóa đọc trong việc
nâng cao kiến thức. Tuy thế, chưa có cơng trình nào phân tích đến mối quan hệ
của văn hóa đọc với tư cách là văn hóa nhận thức và ứng xử của con người. Lịch
sử nghiên cưứ vấn đề cũng như việc thiếu vắng các tư liệu chuyên sâu nhất là đối
với văn hóa đọc của thanh niên Khánh Hoà đã chứng minh rằng kỹ năng đọc và
thói quen đọc có liên quan mật thiết đến sự phát triển năng lực nhận thức, bản
lĩnh học tập và làm việc của mỗi cá nhân. Kỹ năng trên giúp chúng ta đặc biệt là
thanh niên tiếp cận với văn hóa đọc để phục vụ cho học tập, nghiên cứu và công
tác.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là văn hóa đọc trong thanh niên Khánh
Hịa
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Chủ thể: Luận văn tập trung nghiên thanh niên Khánh Hịa với văn hóa
đọc
- Khơng gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu là khu vực thành
phố Nha Trang. Ngoài ra để so sánh việc khảo sát, nghiên cứu được mở rộng đến
một số địa phương khác như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Thời gian nghiên cứu: Vì điều kiện thời gian khơng cho phép, nên luận
văn chỉ tập trung nghiên cứu văn hóa đọc sách, báo, mạng trong thanh niênTrường hợp tỉnh Khánh Hòa khảo sát từ năm 2004 đến tháng sáu năm 2008.


7
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đề tài “Văn hóa đọc trong thanh niên (Trường hợp tỉnh Khánh Hồ)” có ý
nghĩa khoa học đối với đời sống học tập, vui chơi, giải trí của thanh niên để từ đó
nhận thức được những tác dụng hữu hiệu của văn hóa đọc. Bên cạnh ý nghĩa
khoa học nêu trên, luận văn cịn có những ý nghĩa thực tiễn định hướng cho

thanh niên trong q trình học tập, việc tìm tịi, sáng tạo, hun đúc nhân cách sống
cao đẹp ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Nghiên cứu về đề tài văn hóa đọc cũng góp phần khẳng định dù ở lĩnh vực nào,
thì con người và nhận thức của con người vẫn là yếu tố quyết định; muốn phát
triển một hoạt động nào đó, đều phải bắt đầu từ con người.
Chúng tôi hy vọng những vấn đề được đề cập trong luận văn sẽ giúp cho
những nhà quản lý, nhà xuất bản có cái nhìn đầy đủ, tồn diện hơn trong việc đầu
tư phát triển ngành xuất bản, để đáp ứng kịp những địi hỏi của thời kỳ mới -Thời
kì mở cửa hội nhập.
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
6.1. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tơi đã sử dụng những phương pháp sau để tìm
ra văn hóa đọc trong thanh niên: Chúng tơi sử dụng phương pháp nghiên cứu liên
ngành của văn hóa học. Để làm rõ những luận cứ mình đưa ra, chúng tơi dùng
phương pháp điều tra, điền dã và phân tích văn bản. Để nắm bắt nhận thức, thái
độ của thanh niên trong văn hóa đọc chúng tơi sử dụng phương pháp quan sát và
điều tra xã hội học.
6.2. Nguồn tư liệu
Những văn bản, báo cáo của Sở Văn hóa-Thơng tin và Du lịch Khánh Hòa
(Báo cáo của thư viện tỉnh, của Công ty phát hành sách tỉnh). Tổng hợp, xử lý
thông tin thơng qua các tài liệu sách, báo, tạp chí, báo cáo và sử dụng tư liệu các
báo cáo tại một số cuộc tham luận, hội nghị. Ngoài việc tiếp cận tài liệu trên văn
bản, chúng tôi đã sử dụng kết quả điều tra xã hội học đối với đối tượng đọc của
đề tài. Tổng số mẫu khảo sát ở đây là 600 mẫu.


8
7. Bố cục của luận văn
Luận văn “Văn hóa đọc trong thanh niên” (Trường hợp tỉnh Khánh Hịa),
ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo có bố cục như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Thanh niên Khánh Hịa và văn hóa đọc
Chương 3: Nguyên nhân và những giải pháp về văn hóa đọc trong thanh niên
Khánh Hoà


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Văn hóa đọc trong thanh niên hiện nay đang còn là vấn đề mới mẻ ở Việt
Nam. Để làm rõ vấn đề này ngồi phần tìm hiểu về cơ sở lý luận chúng ta cần
phải có những thực tiễn trong cuộc sống để những định hướng và giải pháp đề ra
tương thích với các điều kiện vật chất, tinh thần, mang tính khả thi .
1.1. Khái niệm
1.1.1. Đọc
“Đọc” bất kỳ dưới hình thức nào cũng là một hoạt động. Đọc là một trong
những khả năng của con người, giúp con người trở thành con người hồn thiện,
thơng minh. Đọc khơng chỉ là để biết, để thừa nhận và tiếp nhận tri thức mà đọc
còn là để phát hiện, để chứng minh chân lý, để có cơng cụ hành động, để thúc
đẩy phát triển. Đa phần những kiến thức quan trọng ngày hôm nay đều được ghi
chép lại dưới một dạng chữ viết này hay chữ viết khác. Thay vào việc phải tìm
tịi và nghiên cứu lại từ đầu để hiểu biết, người đời sau có lợi thế sử dụng kiến
thức của đời trước qua hoạt động đọc để phát triển hơn nữa. Để có thể làm được
như vậy, ta thấy chỉ có một cách duy nhất là đọc.
Ngày nay nhờ mạng Internet, mạng viễn thơng tồn cầu, những tri thức
mới vơ cùng phong phú được tiếp nhận nhanh chóng với khối lượng cực lớn so
với trước đây và ngày càng tăng.
Tri thức là mục tiêu trung gian, là phương tiện dẫn dắt chân lý và mục
đích cải biến thế giới. Có ba nguồn để tiếp nhận tri thức. Một là tiếp thu các tri
thức của tổ tiên truyền lại, từ sách vở, từ các phương tiện truyền bá tri thức khác

v.v… Hai là từ các thực nghiệm khoa học có được các dữ liệu, thông tin rồi dùng
tư duy nhận thức xử lý chúng để đạt đạt được các tri thức mới. Ba là suy luận lý
thuyết từ các tri thức đã có để đạt được các tri thức sáng tạo.
Nội hàm khái niệm “đọc” tùy thuộc quyết định vào mục tiêu, động cơ của
việc đọc. Mục tiêu, động cơ đó lại gắn chặt với ai đọc, trong đó, “ai” là một chủ
thể lịch sử cụ thể, mà năng lực và nhu cầu “đọc” bị qui định bởi trình độ phát
triển, đặc điểm văn hóa, xã hội khơng chỉ của cá nhân anh ta mà còn cả của dân
tộc và cộng đồng anh ta sống.


10
1.1.2. Văn hóa đọc
Trước đây, trên thế giới cũng như ở Việt Nam do các phương tiện nghe
nhìn, nhất là truyền hình chưa phát triển, chủ yếu người ta đọc là chính nên chưa
có khái niệm khu biệt về văn hóa đọc và văn hóa nghe nhìn để phân biệt và so
sánh giữa hai loại hình đọc và nghe nhìn.
Từ cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 và đặc biệt phát triển mạnh ở thế kỷ 20 và
21, truyền hình và Internet phát triển, xuất hiện hai khái niệm văn hóa đọc và văn
hóa nghe nhìn với những tương đồng và khác biệt.
Vì vậy, muốn hiểu văn hóa đọc thì phải đặt nó bên cạnh văn hóa nghe
nhìn. Ở Việt Nam, đặc biệt là từ khi Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) ra đời
và tơn vinh văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội thì thuật ngữ văn hóa đã
nhanh chóng xuất hiện trong nhiều lĩnh vực hoạt động, vì thế mới có tên gọi: văn
hóa làng, văn hóa du lịch, văn hóa quản trị kinh doanh, văn hóa cơng sở, văn hóa
học đường, văn hóa ứng xử...Và sự ra đời của thuật ngữ văn hóa đọc cũng được
xuất phát từ sự lan tỏa của thuật ngữ văn hóa trong cuộc sống.
Thuật ngữ “Văn hóa đọc” là khái niệm mới xây dựng, chưa có định nghĩa
cũng như khái niệm nào nói văn hóa đọc là gì và nó như thế nào. Mặc dù vậy,
theo thời gian cũng như sự phát triển của xã hội, văn hóa đọc ngày càng được
nhìn nhận như một thực thể khách quan, nhận thức về văn hóa đọc ngày càng

được nói nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng và trở thành đề tài khoa
học để nghiên cứu. Cuộc sống ln vận động, trong đó có sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, văn hóa đọc cũng có những biến đổi trong mối quan hệ biện chứng
với khoa học, công nghệ và những lĩnh vực khác của cuộc sống.
Hiện nay từ các cơng trình nghiên cứu của mình, các nhà nhà nghiên cứu đã có
những định nghĩa khác nhau về văn hóa đọc: “Văn hóa đọc là một loại hình hoạt
động văn hóa” [Ths. Chu Văn Khánh]; Thuật ngữ “Văn hóa đọc là đọc sách có
văn hóa” [Ths. Bùi Văn Vượng] ; hay “Đọc đến một mức độ, trình độ nhất định
nào đó thì mới được coi là văn hóa đọc” [TS. Lê Văn Viết].3 Mặc dù các nhà
nghiên cứu đưa ra những khái niệm định nghĩa khác nhau nhưng nhìn chung họ

3

Hội thảo” Nghiên cứu thực trạng, đề xuất giải pháp duy trì và phát triển văn hóa đọc của người Việt
Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước” ngayf19/01/2006 tại TP. HCM


11
đều thơng nhất văn hóa đọc là của con người, do chính chủ thể đọc sáng tạo ra.
Kế thừa những quan điểm của các nhà nghiên cứu, dựa trên tư liệu khảo sát
chúng tôi đưa ra định nghĩa sử dụng trong đề tài này như sau: “Văn hóa đọc là
những giá trị vật chất và tinh thần trong hoạt động đọc thông qua việc xử lý các
thông tin do con người sáng tạo và tích lũy, trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội ”.
1.1.3 Văn hóa đọc và các mối liên quan
Văn hóa đọc có quan hệ rất lớn với cộng đồng, văn hóa đọc bắt nguồn từ
nhu cầu sinh hoạt trong đời sống xã hội ngày càng được nâng cao và quay trở lại
phục vụ đời sống xã hội.

NGUỒN ĐỌC


CHỦ THỂ

VĂN HÓA ĐỌC

HÌNH THỨC ĐỌC

Hình 1a Q trình hình thành văn hóa đọc và sự tương tác giữa văn
hóa đọc – Chủ thể

Mục đích chính và cũng là mục đích cuối cùng của văn hóa đọc là đem lại
những giá trị tri thức, những kiến thức để hoàn thiện bản thân, phục vụ cho học
tập, công tác, lao động của mỗi người thông qua các phương tiện thông tin.
Thông tin là cầu nối giữa người đọc và tác giả. Ngơn ngữ chính là công cụ của tư
duy. Trong các yếu tố biểu hiện văn hóa thì ngơn ngữ trong văn hóa đọc có tác
dụng rất lớn. Có nhiều hình thức thể hiện khác nhau, nhưng văn hóa đọc thơng
qua ngơn ngữ nói hoặc chữ viết luôn luôn chiếm tỉ lệ lớn, và ghi dấu ấn sâu hơn
cả trong tâm trí người đọc. Do thuộc tính ưu việt-diễn đạt tính chất của trí tuệ,
nên tính phổ biến của văn hóa đọc là vơ biên. Trong hiện thực vận động và phát


12
triển không ngừng của cuộc sống, ngôn ngữ ra đời cùng với lồi người. Ngơn
ngữ là biểu hiện của văn hóa đọc. Bản chất sự tồn tại của con người gắn với sự
tồn tại của ngôn ngữ. Do vậy văn hóa đọc khơng mất đi mà nó ln tồn tại và
phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của loài người.
Người đọc thu nhận được những kiến thức thơng qua phương tiện thơng
tin sau:
Báo, tạp chí: bao gồm cả báo viết, báo điện tử, báo nói (Đài Phát thanh) và
báo hình (Đài Truyền hình) đều thuộc loại báo chí nói chung nhưng có quan hệ

sâu sắc đến văn hóa đọc là các loại báo viết, báo điện tử. Theo định nghĩa trong
sách Từ điển tiếng Việt thì báo là “các ấn phẩm định kỳ, in trên giấy khổ lớn, có
nhiều tin, bài, ảnh để thơng tin tun truyền” 4. Ví dụ như báo Nhân dân, báo
Lao Động, báo Tiền Phong…
Báo điện tử cũng là một loại báo viết nhưng các tin, bài được truyền dẫn
trên Internet. Ví dụ như báo Vietnam Net, báo Lao động.com…
Tạp chí là các ấn phẩm định kỳ đăng các bài có tính chất lý luận, tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn theo chuyên ngành. Ví dụ như Tạp chí kiến thức ngày nay,
Thời trang, Mực tím…
Sách gồm hình thức là vỏ bọc bề ngồi của sách bao gồm bìa sách, các
trang sách và cách thức trình bày. Cịn nội dung là những tư tưởng, thông tin, tri
thức. v.v.. chứa đựng trong các câu chữ được in trên các trang sách. Dưới góc độ
hình thức và vật chất, sách được coi là: “Tập hợp gồm tờ giấy có in chữ với nội
dung nào đó, đóng gộp lại thành quyển”5.
Ngày nay, với công nghệ thông tin phát triển vượt bậc thì một dạng sách
mới đã ra đời, đó là sách điện tử được phát hành và truyền tải qua các phương
tiện hiện đại (đĩa CD-Rom, mạng Internet…).
Tóm lại, những phương tiện thơng tin giữ vai trị rất lớn trong văn hóa
đọc. Nhờ các phương tiện này, văn hóa đọc đạt được mục đích truyền đạt các
thơng tin, thông báo, nội dung cần truyền tải đến người đọc. Trong q trình
truyền tải thơng tin, tác giả mượn các phương tiện thông tin để chuyển các ý

4
5

Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, 2000, NXB Đà Nẵng
Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, 2000, NXB Đà Nẵng


13

tưởng hoặc thông điệp thành những từ ngữ, câu chuyện, nội dung, cao hơn nữa
thành biểu tượng. Đó là quá trình mã hóa để người gửi nội dung là tác giả và
người nhận nội dung là người đọc cùng hiểu chung ý niệm về nghĩa biểu đạt.
Phương tiện thông tin góp phần truyền tải làm cho nội dung đạt được sự hoản
hảo, mang tính biểu cảm, cơ đọng cao. Trong quy trình thơng tin trong văn hóa
đọc chúng ta thấy có sự hiện diện của đối tượng, ngơn ngữ, khoa học, nghệ thuật,
phương tiện truyền thông, môi trường xã hội và dân tộc.
1.2. Vai trị, chức năng và các hình thức của văn hóa đọc
1.2.1. Vai trị của văn hóa đọc
Văn hóa phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội lồi người. Chính vì
điều này mà yếu tố văn hóa trong một người hay của một dân tộc, xã hội cũng là
yếu tố quyết định hay chi phối những hành vi ứng xử, tiếp nhận hay từ chối của
người đó, dân tộc, xã hội đó đối với người khác hay với sự vật, sự việc khác có
liên quan đến họ. Đọc là một hoạt động, nó có chức năng cung cấp thơng tin tri
thức mọi mặt. Nó có tác dụng bồi dưỡng giáo dục, nâng cao khiếu thẩm mỹ, hồn
thiện bản thân. Văn hóa đọc giúp con người phát huy trí tưởng tượng, giúp ta suy
nghĩ về văn, về câu chữ. Đọc làm cho chúng ta giàu có hơn về ngôn ngữ, vốn từ,
mở rộng đường liên tưởng. Những từ rất đẹp của Nguyễn Tuân, khi tả chuối Ngự
thành Nam, “màu vàng giãy nảy” để làm phong phú thêm khả năng liên tưởng
của người đọc. Đọc cũng là một cách để thu lượm vốn sống, tích lũy kinh nghiệm
ứng xử trong cuộc đời. Đích hướng đến của tất cả mọi người, đặc biệt là thanh
niên trong khát vọng chinh phục tri thức.
1.2.2. Chức năng của văn hóa đọc
Nghiên cứu văn hóa đọc, chúng ta thấy rõ có các chức năng chủ yếu như
sau:
Thứ nhất là chức năng thông tin: Văn hóa đọc chuyển tải các lượng thơng
tin trong cuộc sống, phục vụ cho nhu cầu sinh tồn của mình. Sau khi nắm bắt
được các thơng tin, chủ thể tiến hành xử lý các thơng tin. Ngồi nhu cầu nắm bắt
thơng tin, con người cịn có nhu cầu cao hơn đó là nhu cầu về tri thức để phục vụ
cho việc học tập, nghiên cứu, sáng tạo. Chức năng thơng tin thể hiện qua việc

văn hóa đọc mang, chở và cung cấp các giá trị tri thức lớn của nhân loại thông


14
qua các nguồn thông tin từ sách, báo, mạng đem lại. Sách trên là kho chứa tri
thức vô tận, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ quốc gia này sang
quốc gia khác.
Thứ hai là chức năng giáo dục. Văn hóa đọc thơng qua các tấm gương
người tốt, việc tốt, những nhân vật điển hình, tiêu biểu trong các tác phẩm văn
học nghệ thuật đã góp phần to lớn trong việc giáo dục lối sống đặc biệt là nhân
cách con người. Nhân cách là tư cách, phẩm chất, đạo đức củacon người thể hiện
qua lối sống ; nó là bản chất đồng thời cũng là nhân tố cốt yếu xây dưng nên hình
ảnh con người Việt Nam. Dân tộc Việt Nam vốn là dân tộc coi trọng nhân cách,
đạo lý và coi đó là cái gốc của con người. Nói về “chữ tâm và chữ tài”, thi hào
Nguyễn Du đã từng viết: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”[Nguyễn Du
2002:170], hay Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã dạy rằng: “Có tài mà khơng có
đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài làm việc gì cũng khó”.6
Thứ ba là chức năng giao tiếp: Văn hóa đọc, thơng qua việc dịch, đọc các
tác phẩm văn hóa, tư tưởng, lịch sử, văn học nghệ thuật…ở các vùng, miền khác
nhau trong cùng một nước hay ở các nước khác nhau sẽ giúp con người hiểu
được lịch sử, văn hóa, đất nước, con người ở các vùng, các nước từ đó kích thích
họ đến tìm hiểu, nghiên cứu, du lịch… do đó mà con người được gặp gỡ, giao
lưu, học hỏi lẫn nhau. Trong thời đại kỹ thuật số, con người chỉ cần bật máy vi
tính, vào mạng Internet, trong một vài giây là có thể đọc được những thơng tin từ
khắp thế giới. Từ đó, người ta có thể giao tiếp, trao đổi thơng tin cho nhau.
Một chức năng khác, không kém phần quan trọng của văn hóa đọc là chức
năng giải trí: Cuộc sống hiện đại ngày càng có nhiều áp lực trong cơng việc, học
tập, mưu sinh do đó dễ làm con người bị căng thẳng. Để giải tỏa stress, người ta
chơi thể thao, xem truyền hình hay đọc sách, báo. Văn hóa đọc với những tác
phẩm, những câu chuyện, những bài thơ hay, có nội dung trong sáng, nhẹ nhàng

dễ làm người ta quên đi những lo toan, căng thẳng hàng ngày…
Tóm lại, với những chức năng trên, văn hóa đọc góp phần trong việc bồi
dưỡng, nâng cao kiến thức, hình thành và phát triển nhân cách con người. Tri
thức mà con người tiếp nhận thơng qua văn hóa đọc cịn là phương tiện, điều kiện
6

http://www tuoitreonline, Vũ Nhật Khanh: Người cách mạng của thời đại, 13/06/2007


15
sản sinh ra của cải, vật chất cho xã hội, thể hiện rõ nhất là việc ứng dụng các
thành tựu, tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
1.2.3. Các hình thức đọc
Đọc là hình thức hoạt động ngơn ngữ phổ biến của con người, nhất là đối
với học sinh, sinh viên, giáo viên và người nghiên cứu. Chúng tôi phân loại các
hình thức đọc xét theo phương tiện như xét theo phương tiện đọc, xét theo cách
đọc- phát âm và xét theo cách đọc-tốc độ.
1.2.3.1. Xét theo phương tiện
Đọc bằng mắt: Đây là cách đọc phổ biến, người đọc sử dụng mắt để tiếp
nhận thông tin. Đọc bằng tay: Đây là cách đọc của những người khiếm thị, họ
đọc bằng hệ thống chữ nổi, tuy tốn thời gian, lượng thông tin thu được không
nhiều nhưng đã giúp cho người bị khiếm thị có được những kiến thức nhất định,
giao tiếp được với mọi người và đặc biệt giúp họ có nghị lực để vượt lên số phận.
1.2.3.2. Xét theo cách đọc-phát âm
Đọc thành tiếng: Đọc to, phát âm thành tiếng. Cách đọc này thường có ở
những học sinh nhỏ tuổi có thói quen khi học bài phải đọc to; cách đọc này kém
hiệu quả và hay gây ảnh hưởng đến người xung quanh. Có khi một người đọc và
thưởng thức một bài báo, bài thơ hay truyện ngắn nào đó đọc to cho nhiều người
cùng nghe và cùng thưởng thức. Đọc khơng thành tiếng: Đọc thầm, khơng có âm
thanh phát ra. Cách đọc này phổ biến và có hiệu quả cao, nhất là ở các thư viện.

1.2.3.3. Xét theo cách đọc-tốc độ
Đọc lướt nhanh: Đọc bằng thị giác và tri giác, lướt nhanh trên văn bản để
tìm kiếm nhanh chóng một thơng tin mà mình cần tìm. Cách đọc này thường thấy
trong hai trường hợp: Một là khi cầm một tờ báo, nhiều người có thói quen đọc
lướt nhanh các tít bài, thấy bài nào phù hợp với sự tìm kiếm của mình thì dừng
lại đọc cả bài. Hai là khi cầm một cuốn sách hay một tập tài liệu dày, người ta
thường hay đọc lướt qua phần mục lục để chọn phần mà mình cần đọc, cần nắm
thơng tin. Trong phần mục lục đã chọn, nhiều khi người đọc lại đọc lướt nhanh
các trang để chỉ chọn ra một trang hay một đoạn ngắn phục vụ cho việc tra cứu,
trích dẫn.


16
Ưu điểm của cách đọc này là tiết kiệm được thời gian nhưng nhiều khi
mắc sai lầm vì có những bài báo có tên đặt giản dị nhưng lại chứa nhiều thơng
tin, tri thức bổ ích bị bỏ qua. Hay, vì chỉ đọc một vài trang hoặc một đoạn ngắn
trong sách, tài liệu nên dễ bị chủ quan, hiểu sai tư tưởng của tác giả dẫn đến việc
trích dẫn thiếu chính xác.
Ngồi cách đọc trên, chúng ta cịn có đọc sâu: Đọc hiểu sâu sắc một vấn
đề nào đó để phục vụ cho việc nghiên cứu, ứng dụng và sáng tạo. Đây là một
hình thức đọc khoa học, mang lại lợi ích lớn từ văn hóa đọc. Người đọc thường
đọc một cách chậm rãi, vừa đọc vừa suy nghĩ, có khi đọc đi đọc lại nhiều lần, ghi
chép tỉ mỉ để so sánh, đối chiếu, tra cứu thêm cho đến khi thấu hiểu rõ ràng vấn
đề mới đem ra vận dụng và thường là cho kết quả tốt đẹp. Từ cách đọc này,
những nhà khoa học, nghiên cứu có thể chắt lọc từ hàng trăm trang sách thành
một vài trang rồi trải qua quá trình nghiên cứu mới, từ vài trang sách này sẽ trở
thành một cơng trình hàng trăm trang.
1.3. Văn hóa đọc trong khơng gian và thời gian
1.3.1. Văn hóa đọc trong khơng gian
1.3.1.1. Tính lan tỏa của văn hóa đọc

Điển hình rõ nét nhất về sức lan tỏa của văn hóa đọc là tiểu thuyết hay
nhất mọi thời đại DonQuixote.
Trong nhiều cuộc bình chọn văn học, “DonQuixote” đã được bình chọn là
tiểu thuyết số một thế giới…Nó cũng là một trong những cuốn sách được dịch ra
nhiều thứ tiếng nhất và được tái bản nhiều nhất trong lịch sử nhân loại, chỉ sau
Kinh thánh. Năm 2005, thế giới đã tổ chức kỷ niệm tròn 400 năm ngày tác phẩm
bất hủ này lần đầu tiên được xuất bản. Mặc dù Cervantes nói rằng ơng viết Don
Quixote là để giễu cợt thứ văn chương kiếm hiệp rẻ tiền đương thời bằng một tác
phẩm hài hước với những nhân vật hoang đường, nhưng thực ra đây là một tiểu
thuyết mẫu mực của văn học hiện thực phê phán, mô tả trung thực xã hội Tây
Ban Nha nói riêng và châu Âu nói chung vào cuối thời đại Hiệp sĩ để bước sang
thời kỳ Phục hưng. DonQuixote không chỉ là lời cáo chung sống động nhất cho
một thời đại phong kiến đang suy tàn, mà còn mang những giá trị nhân văn vĩnh
hằng. Với DonQuixote, Cervante đã xây dựng cho văn học thế giới nhân vật điển


17
hình nhất của mẫu người sống với những ảo tưởng tốt đẹp nhưng không hợp thời,
như “DonQuixote chống lại cối xay gió”, qua đó thể hiện khát vọng mãnh liệt về
sự cơng bằng và bác ái. Cũng vì thế truyện được lưu truyền qua hết thế hệ này
đến thế hệ khác. Câu chuyện về chàng hiệp sĩ lang thang khá quen thuộc với độc
giả Việt Nam. Tác phẩm này đã được dịch sang tiếng Việt lần đầu cách đây 40
năm và được xuất bản gần đây nhất vào năm 2000, dưới đầu đề Don Quixote-nhà
quý tộc tài ba xứ Mantra. Câu chuyện về chàng hiệp sĩ đa tình này cũng là nguồn
cảm hứng cho các nghệ sĩ nổi tiếng như nhà văn Pháp G.Flaubert, nhà soạn nhạc
Đức R. Wagner và nhiều họa sĩ, trong đó có danh họa Tây Ban Nha Picasso.
Tại Việt Nam, vào tháng 07/2005, Nhà xuất bản Văn học (Hội Nhà văn
Việt Nam) xuất bản Nhật ký Đặng Thùy Trâm. Với sự nhạy cảm táo bạo, cuốn
sách được phát hành với số lượng 35.000 bản. Tháng 08/2005, Nhà xuất bản
Thanh niên phát hành Nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc với số lượng khiêm

tốn hơn, 5.000 cuốn đợt đầu. Đến tháng 10/2005, chỉ sau ba tháng, hai cuốn sách
trên đã có số phát hành lên tới hơn 450.000 bản. Hai cuốn nhật ký chiến tranh
của hai liệt sĩ Đặng Thùy Trâm (viết cách đây 35 năm), Nguyễn Văn Thạc (viết
cách đây 33 năm) đã có sức thu hút, hấp dẫn đặc biệt với công chúng, nhất là các
bạn trẻ hôm nay. Cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm và cuộc đời trẻ tuổi của bản
thân Đặng Thùy Trâm có số phận như là số phận của những nhân vật văn học.
Cuốn nhật ký “có lửa” của chị và chính cuộc đời chị cùng với số phận cuốn nhật
ký đã có sức sống và sự lan tỏa mạnh mẽ, và đã nhận được sự đồng cảm, thán
phục của độc giả.
Gần ba năm sau khi phát hành, cuốn sách đã bán được hơn 450.000 bản
tại Việt Nam và được chuyển dịch ra 12 thứ tiếng trên thế giới. Trong lời tựa cho
bản tiếng Anh của Nhật ký Đặng Thùy Trâm (với tựa đề “Last night I dreamed of
peace”) của nhà văn, nhà báo Frances Fitzerald có viết: “Thùy có một năng lực
khổng lồ - và một nhu cầu khổng lồ - về yêu và yêu thương.”
Hầu hết các ấn bản Nhật ký Đặng Thùy Trâm trên thế giới khi in đều có
hình bìa là chân dung chị với chiếc nón lá Việt Nam và những cánh đồng lúa
xanh mướt. Tập nhật ký đã ghi lại những hình ảnh chân thật của lịch sử, tâm tư
của một nữ bác sĩ thời chiến, tình yêu tha thiết của một người con gái giàu tình


18
cảm và hơn tất cả là khát vọng về hòa bình, về tình yêu thương của một con
người sẵn sàng hy sinh cuộc đời cho đất nước.
Từ nhật ký chiến tranh, có hàng trăm ngàn bài viết trên báo chí phát thanh
truyền hình. Thậm chí có cả cuốn sách 35 năm và 7 ngày (Nhà xuất bản Kim
Đồng). Chỉ tính riêng Báo Sài Gịn Giải Phóng, trong hai tháng 9 và 10/2005, tòa
soạn đã nhận được trên 300 bài viết, nhiều sáng tác thơ, nhạc ca ngợi liệt sĩ, bác
sĩ Đặng Thùy Trâm…Nhật ký Đặng Thùy Trâm đang được dịch và in ra tiếng
Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Hàn.
Ngày 14/12/2006, Nhà xuất bản Công an nhân dân giới thiệu bộ sách mới

của tủ sách “Mãi mãi tuổi hai mươi” gồm 10 tác phẩm của nhiều tác giả ở các thể
loại: nhật ký, hồi ký và tự truyện. Bộ sách đọc lần này là sự tiếp tục công việc
đầy ý nghĩa: sưu tầm và xuất bản những lá thư và nhật ký thời chiến Việt Nam.
Các ấn phẩm này là những trang viết sinh động, chân thực của chính người trong
cuộc, những người trực tiếp tham gia, nhằm cung cấp cho bạn đọc một góc nhìn
mới về hai cuộc kháng chiến.
Phát biểu tại buổi họp báo giới thiệu sác, thương binh Vũ Hồng Nhật (tác
giả cuốn Tôi là người may mắn) xúc động nói: “Tơi ghi nhật ký chỉ là để riêng
mình tơi đọc, nhưng khi biết báo An ninh thế giới sưu tầm thư, nhật ký thời
chiến, tôi nghĩ rằng, biết đâu đến một lúc nào đó, những suy nghĩ của tơi và thế
hệ chúng tơi có thể giúp ích được cho thế hệ trẻ thời nay. Tơi thực sự xúc động
và tự hào khi những suy tư một thời ấy nay đã đến được tay bạn đọc”7
1.3.1.2. Tính phổ biến của văn hóa đọc
Cách đây khoảng 20 năm, hầu như chẳng mấy ai lo lắng đến vai trị của
văn hóa đọc. Khơng phải vì văn hóa đọc kém mà ngược lại lúc đó niềm đam mê
đọc là một chuyện đương nhiên. Việc đọc sách đem lại cho chúng ta cảm giác
sung sướng khi chúng ta được cầm trên tay một quyển sách mà ta yêu quý. Nó lại
có thể đọc trong mọi tư thế, mọi nơi, mọi chỗ, nó tiện dụng đến nỗi có câu nói
quen thuộc: “Sách gối đầu giường”. Khi sách tồn tại trong hình thức vật thể như
vậy thì việc quà tặng bằng sách sẽ trở nên có ý nghĩa thiêng liêng. Người ta có
thể nâng niu món quà như một niềm tri ân trìu mến.
7

NXB Cơng an giới thiệu bộ sách mới của tủ sách “Mãi mãi tuổi hai mươi”, 15/12/2006


19
Trần Thế Tuyển với tập bút ký “Quê hương và đồng đội” gửi đến bạn đọc
ký ức về một thời chiến tranh khốc liệt luôn tồn tại trong anh với những tình cảm
thân thiết và nồng ấm. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng chứng nhân lịch sử vẫn còn

đây. Những người lính đã cầm chắc tay súng bảo vệ Tổ quốc hay trở về xây dựng
quê hương, mỗi người một số phận, một hoàn cảnh, nhưng đều giữ vững phẩm
chất bộ đội Cụ Hồ, sẵn sàng chấp nhận thiệt thòi riêng tư vì hạnh phúc của mọi
người.
Trong tập bút ký này, chúng ta sẽ gặp ở đây những con người hết sức bình
dị, nhưng cũng rất đỗi phi thường. Họ đã có mặt trên những vùng đất bom cày,
đạn xới, giữa lúc sự sống và cái chết mong manh như sợi tóc. Mới hơm nào cịn
là những chàng thư sinh ăn chưa no, lo chưa tới, vậy mà, họ bỗng chốc trở thành
những chiến sĩ hiên ngang cầm súng chống quân thù. Trong đội ngũ điệp trùng
của đoàn quân ra trận ngày ấy, có người đã vĩnh viễn nằm lại nơi núi thẳm, rừng
sâu; có người gửi lại một phần thân thể vào lòng đất mẹ. Chúng ta cũng gặp ở
đây những má Tư, má Bảy hay chị Sáu, chị Ba…những phụ nữ kiên cường bất
khuất, đã chôn chặt vào lòng nỗi đau mất chồng, mất con, dâng hiến cả tuổi xuân
cho cách mạng, để làm nên những huyền thoại thần kỳ trong sự nghiệp bảo vệ và
xây dựng tổ quốc. Những vùng đất tôi qua…nay trở về, dẫu đã khác xưa, nhưng
hình ảnh dịng sơng, con đường rợp ánh trăng, khu vườn thơm ngát mùi hương…
vẫn lấp lánh sự lãng mạn, có sức sống mãnh liệt làm lay động lịng người. Thời
gian cứ làm cơng việc của nó. Cho dù 20 năm, 30 năm hay dài lâu hơn nữa thì
“món nợ ân tình” với q hương và đồng đội không chỉ của riêng anh mà của tất
cả chúng ta, thơi thúc chúng ta vươn lên vì đất nước, q hương.
Kỷ niệm 32 năm đại thắng mùa Xuân, thống nhất đất nước (30/04/197530/04/2007) và hướng tới kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ (27/07/194727/07/2007), Cơng ty văn hóa Trí Tuệ Việt (Hà Nội) và Nhà xuất bản Văn hóaThơng tin đã phối hợp xuất bản cuốn sách “Huyền thoại Trường Sơn”. Đây là
cơng trình đền ơn đáp nghĩa, nằm trong bộ sách “Uống nước nhớ nguồn” của
cơng ty Văn hóa Trí tuệ Việt được xuất bản để tơn vinh và ghi tạc các anh hùng
liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Cuốn sách đã tái hiện những năm
tháng hào hùng của chiến trường, của Trường Sơn những năm đánh Mỹ; những


20
vần thơ, ca khúc lay động lịng người khích lệ tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi
cứu nước…”8

Khi đất nước mở cửa, văn hóa đọc dần dần thối lui trước những nhu cầu
bức thiết khác của cuộc sống. Rồi có một thời gian văn hóa đọc nhất là đọc sách
bị báo động vì sự lụi tàn trước các loại hình giải trí mới, hiện đại, trực quan hơn
đang theo chân sự phát triển kinh tế thị trường tràn vào đất nước.
Khoảng những năm đầu thế kỷ XXI, một cách thầm lặng, văn hóa đọc
quay trở lại. Sự thầm lặng này này lặng đến nỗi nhiều người không để ý và các
cuộc hội thảo vẫn diễn ra bàn về “văn hóa đọc đang bị lâm nguy”. Chỉ khi những
nhà kinh doanh sách chính thức khẳng định “sách đang ngày càng bán chạy”,
những con số doanh thu từ bán sách vượt mốc 1.000 tỷ đồng thì mọi người mới
xác tin được rằng nhu cầu đọc của người dân đang quay trở lại và đang ngày
càng phát triển.
1.3.2. Văn hóa đọc trong thời gian
1.3.2.1. Truyền thống
Chúng ta cùng thống nhất quan điểm văn hóa đọc truyền thống tức là đọc
trên báo in, báo giấy và xa xưa hơn nữa là trên lá, trên thẻ tre, cịn văn hóa đọc
hiện đại khơng chỉ đọc trên giấy mà còn đọc trên mạng Internet, trên các phương
tiện liên lạc, điện thoại di động…
Người Việt trải qua hàng ngàn năm sống dưới chế độ quân chủ, nơi mà tất
cả quyền lực đều tập trung vào tay nhà vua. Nhà vua trao quyền cai trị cho một
số ít quan lại hay số người thi đậu ít ỏi qua các kỳ thi hương, thi hội thi đình. Sự
đọc sách thánh hiền thời đó của tầng lớp học trị sĩ tử khơng những chỉ mở mang
tri thức, mà cịn để thi đậu làm quan bởi quan niệm “một người làm quan cả họ
được nhờ”. Bởi vậy, học trò chỉ học những gì thi cử cần. Dạy cũng chỉ dạy cái
cần cho thi cử. Người học chỉ đọc những sách tóm tắt gọi là đại cương hoặc toát
yếu chứ chưa bao giờ đọc chính văn hoặc tồn văn, học trị học thi theo các “bộ
đề” thi (cũng được soạn thành sách) theo nội dung tối thiểu là thi thiên, phú bách,
văn sách năm mươi (nghìn bài thơ trăm bài phú và 50 bài văn sách). Do vậy, đa
phần người học trò Nho giáo nhớ nhiều mà nghe ít, khơng có điều kiện phát huy
8


Nguồn: QT theo Nhân dân.


21
sáng kiến, sáng tác (thuật nhi bất tác), mà phần lớn sống lệ thuộc vào các khuôn
mẫu tư tưởng của người xưa.
Mặt khác tầng lớp học trò trong xã hội Việt cổ truyền khơng nhiều, hàng
nghìn sĩ tử đi thi chỉ vài ba người trong số đó chiếm được bảng vàng, nên việc
gửi con đến trường, mong có ngày con thi đậu trong nhiều trường hợp đã trở nên
thiếu thực tế giữa lúc nhu cầu ăn mặc thúc bách hàng ngày. Vì thế có một kẻ sĩ
đọc sách trong nhà nhiều khi không phải là một vinh dự mà là gánh nặng, họ là
kẻ “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm” hoặc bị mang ra giễu cợt: “nhất sĩ nhì nơng,
hết gạo chạy rơng, nhất nơng nhì sĩ”.
Có thể nói triết lý Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn tới “văn hóa đọc” của
người thanh niên Khánh Hịa nói riêng, của người Việt nói chung. Ngày nay Nho
giáo khơng còn là tư tưởng chủ đạo nhưng ảnh hưởng của Nho giáo ở phương
diện tư duy, vẫn còn là tàn tích trong văn hóa đọc của thanh niên Khánh Hịa.
Bên cạnh đó cùng với sự xâm lược của thực dân Pháp, ngành in châu Âu
cũng được du nhập vào Việt Nam, khai tử nghề in, nghề làm giấy cổ truyền. Chữ
Quốc ngữ được sử dụng vì tính tiện lợi của nó. Năm 1900 thực dân Pháp sửa
chương trình thi cử, bên cạnh chữ Pháp, họ tăng chữ Quốc ngữ, bỏ bớt chữ Nho
điều này khiến nhà thơ Trần Tế Xương phải than trong bài “Than đạo học”:
Đạo học ngày nay đã hỏng rồi
Mười người đi học, chín người thơi
Cơ hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi…
Sản phẩm của chế độ thực dân, phong kiến là đến năm 1945 dân ta hơn
95% mù chữ. Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn phân tích, ở Việt Nam trước đây,
người “nghiền” sách cốt để đi thi, nên đã tự giới hạn việc đọc sách của mình theo
yêu cầu của người chấm cho họ được đậu. Xu hướng “dùng sách để lập thân” là

một trong những chức năng vẫn còn ảnh hưởng đến văn hóa đọc hiện nay.
Sau hai cuộc kháng chiến của dân tộc, đất nước bước vào thời kỳ Đổi mới,
với suốt chặng đường của một hệ thống ngành xuất bản, văn hóa đọc chưa có sự
thay đổi Thanh niên, học sinh khơng đọc gì ngồi mấy cuốn giáo trình từ những
năm 60-70 của thế kỷ trước, rất ít người đọc thêm sách tham khảo, mở rộng kiến


22
thức. Họ vẫn chỉ học những gì họ thi và người dạy vẫn dạy những gì có trong
giáo trình, họ chưa thấy cần thiết phải thay đổi nội dung, cách thức giảng dạy.
1.3.2.2. Hiện đại
Trong nửa sau của thế kỷ XX, sự phát triển như vũ bão của khoa học và
công nghệ, nhất là sự bùng nổ thông tin với sự xuất hiện của vơ tuyến truyền
hình, video và các phương tiện nghe nhìn khác, đã tác động khơng nhỏ đến văn
hóa đọc truyền thống. Ngày nay người ta đang đề cập nhiều đến cuộc cách mạng
về sách dưới dạng sách báo điện tử. Người đọc hơm nay có thể ngồi tại nhà hay
tại công sở, hoặc bất kỳ đâu có kết nối wifi (kết nối Internet khơng dây) chỉ cần
vào mạng Internet là có thể tìm đọc những cuốn sách mình muốn, khơng cần phải
tới thư viện. Qua mạng, người ta có thể gửi thư, đọc báo, nhận tài liệu, xem
phim, nghe nhạc, mua bán mọi hàng hóa, giao dịch thương mại, giao lưu trực
tuyến…Internet đã làm cho thế giới này bé nhỏ đi nhiều. Một vụ nổ bom ở Iraq,
một trận đấu tranh Cúp C1, một ca phẫu thuật thay da mặt ở tít bên trời Tây có
thể hiển hiện, đan xen ngay “trong bữa cơm chiều nhân loại”. Vậy là các thú vui
đọc (tìm hiểu tri thức ghi trên giấy qua kênh thị giác) đang bị các thú vui khác lấn
lướt và làm cho mất dần vai trị độc tơn của nó. Chính điều này cũng hàm chứa
và tiềm ẩn một nguy cơ làm thay đổi hẳn diện mạo của cuốn sách truyền thống.
Một khảo sát lần đầu tiên về độc giả Internet của hãng dịch vụ thống kê
truy cập Nielsen/NetRaiting công bố mới đây cho thấy 1/5 số người lướt web
thích đọc báo mạng hơn các phiên bản phi trực tuyến. Đây có lẽ cũng chính là
động lực làm cho các tờ báo giấy-vừa là để cạnh tranh vừa không thể cưỡng lại

xu thế điện tử hóa-cũng đã phải lập tức triển khai phiên bản điện tử, trong đó
phần lớn phát hành lại các bài báo từ bản giấy và cập nhật thêm thông tin riêng.
Cùng với sự phát triển chóng mặt của cơng nghệ kết nối, giúp đẩy nhanh tốc độ
truy tải, số lượng các tờ báo điện tử cũng nở rộ khắp nơi trên thế giới, truyền tải
thơng tin dưới mọi hình thức mà các loại báo truyền thống cung cấp.
Có thể coi báo điện tử hiện nay là sự hội tụ của cả báo giấy, báo tiếng
(audio) và báo hình (video). Người lướt web không chỉ đươc cập nhật tin tức
dưới dạng chữ viết mà cịn có thể nghe rất nhiều kênh phát thanh và xem truyền
hình ngay trên các website báo chí.


×