MỤC LỤC
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Đất nước ta có một nền văn hóa đa dạng phong phú, nó như một bức tranh sống
động bởi sự hòa quyện nhiều màu sắc mà ở đó đền, chùa, đình làng ở nông thôn là một
gam màu chủ đạo để làm nên bức tranh đó. Ai xa xứ về quê tới đầu làng những ngơi
đền, chùa, đình làng rêu phong văng vẳng chuông ngân đã tạo nên sự hối thúc mãnh
liệt, đầy sức sống cho mỗi con người, để ai đi xa cũng mong sớm có ngày trở lại.
Người xưa có câu "Dĩ nơng vi bản" là một nước nơng nghiệp chính vì thế hệ thống
1
đền, chùa, đình làng ln gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của mỗi người dân
nơng thơn. Nó khơng chỉ có vị trí đặc biệt trong văn hóa làng mà cịn có tác động sâu
sắc, tồn diện đến xã hội cổ truyền. Đền, chùa, đình làng của người Việt không chỉ là
không gian tôn giáo, nơi phục vụ các hoạt động thờ cúng, tâm linh, thể hiện lòng hiếu
mộ của con người, là nơi sinh hoạt cộng đồng, in dấu những hương ước, lệ làng,
những thiết chế lâu đời. Vì thế, trong q trình thực tập tại phịng văn hóa huyện Xuân
Trường tỉnh Nam Định được quan sát các anh chị trong nghề làm việc và tìm hiểu
nghiên cứu về các di tích lịch sử đình đền chùa ở trong địa bàn tỉnh em cũng đã được
tham gia trong các chuyến đi thực tế tại các đình cổ ở huyện Xuân Trường tỉnh
NamĐịnh trong đó có đền Xuân Bảng thuộc thị trấn Xuân Trường, huyện Xuân
Trường tỉnh Nam Định.
Bởi vậy em chọn đề tài: “DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HĨA ĐÌNH XN
BẢNG THỊ TRẤN XN TRƯỜNG TỈNH NAM ĐỊNH ”, làm đề tài nghiên cứu
với hy vọng nghiên cứu một cách hệ thống về hệ thống kiến trúc đình làng làng Xn
Bảng ở địa phương. Qua đó làm rõ được những giá trị văn hoá, lịch sử tích cực để phát
huy những di tích văn hóa cổ.
II. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
1, ĐỐI TƯỢNG :
Đình Xuân Bảng thị trấn Xuân Trường huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định.
Nghiên cứu về niên đại di tích, lịch sử các vị thần qua các thời đại các câu truyện
truyền thuyết, những điền tích sắc phong….cũng như nghệ thuật kiến trúc điêu khắc
hội họa.Từ đó thấy được vai trị của nó đối với đời sống tinh thần của người dân địa
phương.
2, PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
Phạm vi nghiên cứu gồm các di sản hiện hữu còn dấu ấn trong nhân dân, lễ
hội diễn ra hàng năm tại đình Xuân Bảng.
3, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
- Qua bài nghiên cứu có thể hiểu biết hơn về đình Xn Bảng với niên đại lịch sử
lâu đời
2
- Những người khách thập phương có thể biết về di tích, tìm hiểu về di tích, biết
về nguồn gốc nhân vật đang thờ tự tại đình cùng với những cổ vật từ thời xa xưa để lại.
Hiểu biết hơn về lễ hội làng diễn ra hàng năm tại đình Xuân Bảng.
3
III. NỘI DUNG
CHƯƠNG I : ĐÔI NÉT VỀ HUYỆN XUÂN TRƯỜNG TỈNH NAM ĐỊNH
1. Vị trí địa lý
2. Lịch sử vùng đất “địa linh nhân kiệt” huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định
CHƯƠNG II : ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ - ĐƯỜNG ĐẾN DI TÍCH
1.
Địa điểm phân bố di tích
2.
Đường đi đến
CHƯƠNG III : SỰ KIỆN NHÂN VẬT LỊCH SỬ VÀ CÁC LỄ HỘI LIÊN
QUAN TỚI DI TÍCH
1.
Sự kiện nhân vật lịch sử liên quan đến di tích
2.
lễ hội liên quan đến di tích
CHƯƠNG IV : KHẢO TẢ DI TÍCH
1.
Cơng trình kiến trúc
2.
Nghệ thuật điêu khắc trên đồ thờ tự
CHƯƠNG V : TÌNH TRẠNG BẢO QUẢN, NHÂN XÉT GIÁ TRỊ DI TÍCH
VÀ Ý KIẾN ĐỀ NGHỊ CỦA ĐỊA PHƯƠNG
1.
Tình trạng bảo quản di tích
2.
Nhận xét giá trị di tích
3.
Ý kiến đề nghị của địa phương
KẾT LUẬN
4
NỘI DUNG
Mỗi làng q Việt Nam đều có một ngơi đình, đền thờ thành hồng làng ( vị thần
bảo trợ của làng). Vào mỗi dịp tết đình, đền trở thành trung tâm văn hóa của làng, mà
ở đó tất cả kho tàng văn hóa tích lũy từ đời này qua đời khác đượcthể hiện đầy đủ nhất.
" Đình " theo nghĩa hán tự, là một ngôi nhà để chú ngụ, nghỉ tạm. Theo một số
nhà nghiên cứu, từ "đình " xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Việt Nam là từ thế kỷ thứ
II đến thứ III. Tuy nhiên giả thiết này còn thiếu cơ sở khoa học. Thời nhà Trần đình với
tư cách là trạm nghỉ chân đã được ghi trong Đại Việt sử ký toang thư " thượng hồng
chiếu xuống rằng, trong nước ta phàm chỗ nào có đình trạm đều phải đặt tượng phật để
thờ" .Thời nhà Mạc từ chức năng ngơi nhà cơng cộng, đình trở thành cơng trình đa
chức năng.Nó là nơi thờ thành hồng làng và là nơi hội họp của làng xã.Nơi đay
thường diễn ra các cuộc hội họp của các hương lão, chức sắc trong làng về việc công,
hoặc phân sử kiện tụng, đồng thời là nơi cúng lễ.Điều này đã được các nhà nghiên cứu
trong và ngồi nước gki nhận.
Đình đã suất hiện ở nhiều vùng nông thôn Việt Nam, Nam Định cũng là một
tronh những nơi có nhiều đình cổ mang giá trị văn hóa từ thời xa xưa.Đình Xn Bảng
thuộc Thị Trấn Xuân Trường tỉnh Nam Định cũng là một trong những đình cổ có nhiều
giá trị văn hóa lớn.
CHƯƠNG I: ĐÔI NÉT VỀ HUYỆN XUÂN TRƯỜNG TỈNH NAM ĐỊNH
1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
- Xuân Trường là một huyện phía nam của tỉnh Nam Định.
- Phía Bắc Xuân Trường giáp huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình, phía Đơng Bắc giáp huyện
-
Kiến Xương tỉnh Thái Bình.
Phía Nam Xn Trường giáp huyện Hải Hậu, phía Đơng Nam giáp huyện Giao Thủy
-
tỉnh Nam Định
Phía Tây giáp huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định
Ranh giới phía Bắc với tỉnh Thái Bình là sơng Hồng. Ranh giới phía Tây với huyện
Trực Ninh là sơng Ninh Cơ. Ranh giới phía Đơng Nam với huyện Giao Thủy là sơng
Sị. Làng Hành Thiện, xã Xn Hồng nắm ở ngã ba sông Hồng và sông Ninh Cơ, tiếp
5
giáp với huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình và huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định.
2. LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT “ ĐỊA LINH NHÂN KIỆT” HUYỆN XUÂN TRƯỜNG
TỈNH NAM ĐỊNH
Xuân Trường là vùng đất thuộc đồng bằng sông Hồng được bao bọc bởi ba con
sông lớn là : sông Hồng, sông Sị, sơng Ninh Cơ. Vùng đất ấy là nơi “đất lành chim
đậu” với quá trình hình thành và phát triển gần một nghìn năm nay.
Vùng đất Xuân Trường ngày nay, từ xa xưa là một trong những vùng đất mà biển
bồi tạo nên, vào thế kye thứ VI, nơi đây được gọi là cửa biển “ Đại Nha”. Theo Sử
sách thì huyện Xuân Trường ngày nay vốn là một phần đất của hương Giao Thủy xưa
kia. Tên Giao Thủy xuất hiện khoảng thế kỷ X. Một số sách sử, trong đó có “ đại việt
sử ký tồn thư”, khi chép về các sứ qn Ngơ có nói rõ Ngơ Nhật Khánh (cháu Ngơ
Quyền) ngồi việc chiếm giữ q hương Đường Lâm, còn xây dựng căn cứ ở vùng
Giao Thủy(thuộc Nam Định ngày nay). Đầu thế kỷ X Giao Thủy là vùng đất cửa sơng
giáp biển.( bao gịm từ đất Nam Trực trở xuống).
ở vùng này khi Ngô Quyền đánh thắng qn Nam Hán trên sơng Bạch Đằng đã
có tả tướng tiên phong Nguyễn Công Thành lập công lớn, sau chiến thắng Ngô Quyền
đã giao cho ông chấn giữ vùng cửa sơng Giao Thủy. Ơng sinh năm đinh sửu(917) và
mất năm nhâm thì(992), nhiều làng ở phía Nam tỉnh Nam Định đã lập đền thờ ông. Tới
thời Đinh (nửa cuối thế kỷ X) ngay từ khi chưa lên ngơi hồng đế, Đinh Tiên Hồng
đã nhiều lần tới đánh cá trên sơng Giao Thủy và ngủ đêm ở chùa Nghiêm Quang. Dân
làng Kiên Lao(xã Xuân Kiên) còn lưu giữ một truyền thuyết rất đẹp là: khi Lê Đại
Hành(941-1006) thống lĩnh tướng soái đi tiêu diệt quân Tống sâm lược, dân làng Kiên
Lao đã tích cức đóng thuyền, chuẩn bị các phương tiện, vận tải giúp vua đánh giặc.
Khi chiến thắng, Lê Hoàn đã về Kiên Lao khen thưởng quân sỹ. Tới đời Trần(thế kỷ
XIII) huyện Giao Thủy(bao gồm cả đất của hai huyện Xuân Trường và Giao Thủy
ngày nay)là một trong bốn huyện thuộc phủ Thiên Trường( Mỹ Lộc Thượng Nguyên
Nam Châu và Giao Thủy). Còn tại sao tiền nhân lại lấy tên Giao Thủy đặt cho vùng
đất này? Phải chăng Giao Thủy xưa là nơi giao hòa và trị thủy, là nơi được bồi đắp do
nước của sông Hồng gặp thủy triều của biển Đông dâng lên làm cho phù sa ngưng
đọng tạo thành? Giao Thủy- vì thế có thể coi lafnowi giao hòa giữa nước của dòng
6
sông mẹ(sông Cái) với nước của biển Đông. Đến đời Tự Đức(1862)phủ Thiên Trường
được đổi thành phủ Xuân Trường, như vậy tên Xuân Trường được xuất hiện từ thế kỷ
XIX, nhưng không chỉ địa dạnh huyện như hiện nay mà là địa danh của một phủ.tới
năm 1934( đời vua Bảo Đại)phủ Xuân Trường chỉ còn là một đơn vị hành chính cấp
huyện, cùng với huyện Giao Thủy thuộc tỉnh Nam Định. Cho tới năm 1948 mới chính
thức đổi phủ Xuân Trường thành Huyện Xuân Trường.
Tháng 12/1967 theo quyết định của chính Phủ: hai huyện Xuân Trường và Giao
Thủy hợp nhất thành huyện Xuân Thủy. Sau 30 năm hợp nhất ngày 26/2/1997 chính
phủ có nghị định 19/CP chính thức tách huyện Xuân Thủy thành hai huyện Xuân
Trường và Giao Thủy. Huyện Xuân Trường tái lập chính thức đi vào hoạt động theo
đơn vị hành chính mới từ 1/4/1997. Huyện có diện tích hơn 112km vng, dân số hơn
18 vạn người trong đó 28,5% đồng bào theo đạo thiên chúa với các đơn vị hành chính
cấp xã gồm: thị trấn Xuân Trường, Xuân Châu, Xuân Thượng, Xuân Hồng, Xuân
Thủy, Xuân Thành, Xuân Phong, Xuân Đài, Xuân Bắc, Xuân Ngọc, Xuân Phương,
Xuân Trung, Xuân Phú, Xuân Vinh, Xuân Kiên, Xuân Hòa, Xuân Ninh, Xuân Tiến và
Thọ Nghiệp.
7
CHƯƠNG II : ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ - ĐƯỜNG ĐẾN DI TÍCH
1. ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ DI TÍCH
Từ năm 1969 đình Xuân Bảng thuộc xã Xuân Hùng, nay thuộc thị trấn Xuân
Trường. Đình Xuân Bảng tọa lạc trên một vùng đất bằng phẳng, ba phía Bắc Tây Nam
đều có ngịi nước bao bọc (khi xưa là sông nhỏ) xung quanh là cánh đồng rất phì nhiêu
năm hai vị chiêm mùa chồng lúa nước sai bông nặng hạt.
2. ĐƯỜNG ĐI ĐẾN :
Về đình Xn Bảng có thể đi theo các đường rải đá, rải nhựa sau đây :
-
Từ huyện Giao Thủy ta có thể ngược đường lên thành phố Nam Định đi theo con
đường chính khoảng 7km đến thị trấn Xuân Trường, đình Xn Bảng nằm ngay cạnh
-
trục đường chính.
Từ huyện Hải Hậu đi thẳng tới tượng đài Trường Chinh, tới ngã tư ngay cạnh tượng
-
đài dẽ tay phải đi khoảng 2km là tới đình.
Từ thành phố Nam Định đi về huyện Trực Ninh đi tiếp qua cầu Lạc Quần tới ngã ba dẽ
tay trái đi thẳng tới tượng đài Trường Chinh, tới ngã tư ngay cạnh tượng đài dẽ tay
phải đi khoảng 2km nữa là tới đình.
8
CHƯƠNG III: SỰ KIỆN NHÂN VẬT LỊCH SỬ VÀ CÁC LỄ HỘI LIÊN
QUAN ĐẾN DI TÍCH :
1. SỰ KIỆN NHÂN VẬT LỊCH SỬ LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH
Đình Xn Bảng được lập nên để thờ tướng công Ngô Miễn(1371-1407)và vợ
ông là Nguyễn Thị Lệnh. Theo gia phả : ông người kinh bắc, đậu Thái học sinh(tiến
sỹ) năm 1388đời vua Trần. Sau ơng làm quan, phị giúp nhà Hồ, giữ chức “ Hành
Khiển hữu tham chi chính sự” (trơng coi chính sự trong triều).
Khi giặc Minh sang xâm chiếm nước ta, Ngô Miễn đã cùng quan quân nhà Hồ
chống giặc tới cùng. Thành Tây Đô thất thủ, vua quan nhà Hồ chạy vào Hà Tĩnh. Hồ
Đỗ, Phạm Lục Tài, Nguyễn Ngạn Quang, Đào Hồng… đều bị bắt. Bọn Trần Nhật
Chiêu, Nguyễn Cẩn, Đỗ Mẫn… đầu hàng giặc. Duy có Hành Khiển hữu tham tri chính
sự Ngơ Miễn nhảy xuống sơng tuẫn tiết.(đại việt sử ký toàn thư tập 2 trang 218). Khi
ông chết vợ ông là bà Nguyễn Thị Lệnh ngửa mặt lên trời mà than “ chồng ta thờ vua,
một đời ăn lộc, ngày nay giữ tiết nghĩa mà chết, thế là chết xứng đáng, cịn ốn hận gì
nữa? nếu thiếp muốn sống cho qua ngày chẩng lẽ lại không còn chỗ đến nữa hay sao?
Nhưng đạo chồng ơn vua, một chốc mà phụ bạc thì thiếp khơng nỡ nào! Chi bằng xin
theo nhau”, nói rồi bà cũng nhảy xuống sơng tự vẫn.(đại việt sử ký tồn thư tập 2 trang
218 nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội 1988).
Gương sáng của ông Ngô Miễn vag phu nhân Nguyễn Thị Lệnh xứng đáng được
nhân dân thờ phụng.
Ơng Ngơ Miễn cịn có cơng tụ tập người thuộc 10 họ: Ngơ, Đỗ, TRần, Hoàng,
Tạ, Phạm, Nguyễn, Đinh, Vũ, Đào tới vùng Sơn Nam (Nam Định, Hà Nam, Ninh
Bình, Thái Bình)và vùng Nhật Nam (Hà Tĩnh) khai đền lập trang ấp.
Đình Xuân Bảng cịn thờ hai vị quận cơng: Trần Thận Đoan sinh khoảng năm
1650, 24 tuổi ông ra làm quan, năm 40 tuổi ông được phong hầu. Khi về, ông được
phong chức “Quận Công”
Trần Nhân Tăng (1664-1729)là người văn võ song toàn, làm quan dưới hai triều
9
vua Lê Hy Tông và Lê Dụ Tông:”đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân” “phó quan tri
nội giám, tổng thái giám” được phong “hữu hiệu quế hương hầu Quận Công”. Nhân
dân thường gọi ông là “Quận Quế”.
Năm 1930 lá cờ đảng đã tung bay trên đỉnh cột cờ trước đình Xuân Bảng. Thời kì
tonongr khởi nghĩa năm 1945, đình Xuân Bảng là nơi tụ họp nhân dân trong vùng để
tham gia đoàn quân đi lấy phủ Xuân trường. Năm 1947 đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh
Nam Địnhđã tổ chức tại đình Xuân Bảng.
2. PHẦN LỄ HỘI LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH
Cứ mỗi độ xn về hay mỗi khi có tiết lễ ở các vùng, người dân của nhiều làng
trong huyện Xuân Trường lại tưng bừng mở hội. Những ngôi đền cổ kính rêu phong
xuốt tháng năm trầm mặc trong cảnh “thiền”lại có dịp sống động trong khơng khí linh
thiêng của ngày lễ hội với sự hội tụ của dân làng kính cẩn dâng hương, rước kiệu
tưởng nhớ cơng lao của cá vị tướng, vị thần có cơng dựng làng giữ nước. Hoạt động lễ
hội là sự biểu hiện phong phú về nội dung lịch sử và ý nghĩa giáo dục truyền thoongd
củ lễ hội. Hoạt động này gồm phần lễ và phiên hội hầu hết tập trung ở phần lễ, mang ý
nghĩa tâm linh thể hiện sự sung bái ngưỡng vọng nhớ ơn của cộng đồng với danh nhân
được tơn thờ.
Hàng năm, đến các ngày kỷ niệm Thành hồng nhân dân thị trấn Xuân Trường
thường tổ chức dâng hương tưởng niệm.Nhưng dịp trung tuần tháng hai là tổ chức linh
đình hơn cả.Dịp này thường kéo dài từ 3 đến 5 ngày, quy tụ đông đảo bà con gần xa
trong dịp đầu xn nên rất đơng vui.
Lễ hội thường có tế lễ dâng hương ở đình và chùa. Các dịng họ chuẩn vị lễ vật
theo nếp cũ quê hương. Rước kiệu từ các đền phủ về đình và chùa, các hội cơng tử
rước cờ, các hội khác thì múa lân, múa rồng tạo khơng khí sơi động trong ngày hội. Lệ
làng Xn Bảng cịn có rước ra sơng ngay gần đình lấy nước, nước đó được đựng vào
chóe trong cung cấm làm nước thánh, họ quan niệ đây là nước sạch lấy ở giữa dịng
sơng dùng để dâng các ban và phải chăng đây cũng là giọt nước từ dòng sơng q
hương đã gắn bó với mảnh đất con người thị trấn Xuân Trường.
Ngoài các nghi thức tế, lễ, rước kiệu cịn có lệ giao hảo với thơn nội bên cạnh.
10
Quan niệm dân gian cho thần hai làng cùng thời, cùng dòng dõi con Lạc cháu Hồng,
lại đã từng giúp nhau trong quan hệ lân bang nên hai làng có trách nhiệm giữ nét đẹp
xa xưa, giúp nhau, vui cùng nhau tổ ý thân tình trong ngày hội.
Lễ hội đình Xn Bảng cịn có nhiều trị chơi mang tính chất thượng võ dân tộc,
như tổ chức bơi thi bơi chải trên sông, thi đấu cờ, đấu gậy, thi vật, thi trọi gà và đặc
biệt bốn giáp trong thôn tổ chức 4 thuyền đua tài đoạt giải trên sông Châu, tạo khơng
khí ngày hội và đêm đêm tổ chức hội chèo gây ấn tượng tốt đẹp với miền quê đậm đà
truyền thống. Hoạt động của lễ hội đã khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự hào về quê
hương, đất nước, quần chúng nhân dân được hưởng thụ văn hóa và những sáng tạo của
chính mình, có ý nghĩa to lớn trong việc gió dục truyền thống đạo lý uống nước nhớ
nguồn tạo nên khí thế thi đua sơi nổi phấn đấu hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ. Lễ
hội mở ra thực sự là dịp giao lưu văn hóa giữa các vùng và địa phương thuộc huyện
Xuân Trường.
Theo ông cha kể lại, người xưa tổ chức Lễ hội bơi chải (đua thuyền) vào ngày
hội đền Xuân Bảng để khai thông sông rạch với ước muốn cầu mong mưa thuận, gió
hịa.Xóm nào giành chiến thắng trong cuộc đua thì năm đó sẽ gặp nhiều may mắn, làm
ăn phát đạt. Từ xa xưa, kể cả trong những năm chiến tranh ác liệt hay thời bình, giải
bơi trải đã trở thành thơng lệ trong những ngày lễ hội ngày đầu năm của đền Xuân
Bảng.
Trước lễ hội 1 tuần, bà con trong làng tụ họp để bàn chuyện chuẩn bị đua thuyền
hoặc thăm hỏi, động viên con cháu tập luyện.
Mỗi làng đều hình thành hai đội đua gồm đội trai tráng ở cỡ 18-35 tuổi và đội nữ
ở độ tuổi 18-30.Mỗi đội đua có nhiều nhất 12 người gồm lái thuyền, cầm phách, cầm
tổng và dân bơi. Kinh phí lập đội thuyền do dân làng quyên góp.
Trong những thời khắc này, cả làng Xuân Bảng dường như mất ngủ, điểm sinh
hoạt ở ngõ xóm nào cũng sáng đèn, họ tụ hội về đây để cổ vũ, để bàn tán về chiến
thuật, đánh giá thuyền của các làng khác. Nhưng rốt cục thì người đội nào cũng khẳng
định “đị" của đội mình sẽ đoạt giải nhất.
Sáng tinh mơ ngày hội, khi các cụ bô lão trong thôn cùng trai làng khỏe mạnh
nhất ra bờ sông đứng bên mũi thuyền thắp hương cầu nguyện cho một mùa mưa thuận
11
gió hịa, thì hai bên bờ sơng đã hun náo tiếng người.Người dân từ các xã trong
huyện đã thức dậy rất sớm để kiếm cho mình chỗ đứng xem thuận lợi nhất.
Khi lệnh xuất phát vừa đưa ra, các thuyền lập tức lao lên, hai bên bờ sơng như vỡ
ịa trong tiếng hò reo và âm thanh của trống, mõ. Hàng ngàn con mắt dán chặt xuống
mặt sơng. Lúc đó, dịng sơng hiền hịa bỗng sơi sục đầy khí thế sắn sàng đón các
thuyền bơi. Các thyền bơi khơng bơi cùng một lúc vì do dịng sơng hơi nhỏ. Mỗi
thuyền bơi cách nhau 5 phút và được bấm thời gian, thuyền nào về đích với ít thời gian
hơn thì đội đó sẽ nhất.Dịng sơng kéo dài và chia ra thành nhiều ngả. Ban tổ chức lễ
hội đã chọn đường đua là dải sông bao quanh làng. Thuyền bắt đầu bơi, người cổ vũ ở
các đội hào hứng reo hò và tụ tập lại thành một dòng người chạy dài bên bờ sông để cổ
vũ.Quãng đường đua kéo dài 5km, người cầm cờ người cầm loa hò hét náo nhiệt cả
một vùng đất.
Kết thúc cuộc thi, đội chiến thắng thì hân hoan ca hát, đội thua thì xuýt xoa tiếc
nuối và quyết tâm sẽ chiến thắng vào lễ hội năm sau.
Những năm trở lại đây,làng Xuân Bảng ngày càng quan tâm duy trì hoạt động
văn hóa truyền thống này trên dịng sơng q hương. Từ hoạt động mang tính tự phát,
ngày nay chính quyền địa phương đã đứng ra tổ chức lễ hội, đồng thời mời những đội
thuyền ở các địa phương khác về tham gia tranh tài, góp phần làm cho lễ hội ngày
càng hào hứng, sôi nổi.
Lễ hội bơi trải là nét đẹp độc đáo, đặc trưng riêng của người dân vùng sông nước,
tạo nên một phần bản sắc văn hóa Việt mà mỗi người con đi xa ai cũng nhớ về.
12
CHƯƠNG IV : KHẢO TẢ DI TÍCH
Đình Xn Bảng là cơng trình quy mơ nằm trên khu đất rộng lớn phía tây làng,
trước đình có hồ nước, cùng hàng cây lưu niên khiến cảnh quan có sức truyền cảm đối
với mọi người.
1. CƠNG TRÌNH KIẾN TRÚC
Đình Xn Bảng hiện cịn hai tịa chính là tiền đường và tịa đệ nhị. Song đây là
hai tịa thiết kế khá quy mơ theo lối chữ đinh giao mái bắt vần rất đẹp.
Tiền đường 5 gian dài 20,10m, rộng 16,60m là cơng trình có bộ khung rất đáng
kể.Sáu vì được gia cơng bằng gỗ lim, quy cách cột, bẩy kẻ ở các vì đều có tỷ lệ cân
sứng, hài hào. Hệ thống cột cái đường kính 50cm làm theo kiểu búp địng (giữa cột
phình to, thu nhỏ ở đầu và chân cột). Tuy cột cái lớn, nhưng các cột đều làm bằng gỗ
lim già, nổi vân theo từng thớ gỗ, nhiều kiểu đẹp mắt. Hệ thống cột quân đường kính
40cm, cũng được tuyển chọn từng chiếc về gỗ và gia công rất kỹ thuật. Cách cấu trúc
tứ trụ, phía trên là xà phía dưới ngạch ngưỡng làm theo bộ khung rất chắc chắn như
khuôn mẫu kiến trúc Hậu Lê truyền thống. Các cột còn đặt trên các nền chân tảng có
diện tích lớn, khiến 4 mái cong rất rộng và trọng lượng bộ khung tới hàng trăm tấn mà
hàng trăm năm không bị lún, không bị nghiêng lệch.
Hệ thống câu đầu, xà nách, các hàng xà lòng thượng hạ, đến lớp lớp con giường,
trụ non, đấu đều được làm hợp quy cách. Phần kiểu dáng hoặc hai đầu thon, soi kiểu
ống tơ, hoặc lối má chai cắt khoảng, cắt mộng cũng đều ăn ý.điều đáng lưu tâm là trên
đầu xà con giường còn được trạm khắc các đề tài hoa lá hoặc long, ly, quy, phượng
tinh tế nghệ thuật.
Đình Xn Bảng là cơng trình đại tu từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX lại tiếp
tục tu sửa, nhưng khi tu sửa nghệ nhân đã khéo tận dụng các cấu kiện cũ như kèo moi
ở mái trái, các mảng mê, con giường nên đẫ nâng tầng giá trị cơng trình. Hệ thống bẩy
tiền trạm rồng kênh bong khỏe khoắn. Chạm long, ly, quy, phượng trên xà nách, trên
các tấm ván bưng với đường nét uyển chuyển. Chạm cả những đề tài rồng, long mã
ngậm biển có chữ " phúc thọ khang ninh " (cầu cho dân làng giầu có, trường tồn yên
13
ổn khỏe mạnh), đã làm tăng thêm ý nghĩa kiến trúc đình làng. Nếu như nghệ thuật
chạm khắc thế kỷ XVII, XVIII ở Nam Định có nhiều đề tài như thú voi, hổ ở đình
Chảy, An Hịa, Vị Hạ thì đây :con voi được tạc riêng biệt đứng trên đấu cạnh cột, con
hổ nép dưới thanh hoành, đang phải ghếch chân lên cho hổ con chui luồn dưới bụng.
Các đề tài thú trên đây sao hiền lành, tình cảm dễ thương,như kéo thiên nhiên và con
người xích gần lại. Các đề tài điêu khắc ở đây khá phong phú, khỏe theo nét vẽ đương
thời, lại lột tả tính cách rất khéo khiến bộ khung tiền đường rất hấp dẫn, rất gợi cảm
làm cho nhiều người ghé thăm phải hết lời ca ngợi.
Phía trong tiền đường là tịa đệ nhị. Tịa này được phân thành hai cung bởi bức
thuận và hệ thống cửa ơ. Đây là cơng trình cũng được thiết kế theo lối chồng giường
bảy kẻ, cúng được gia công rất cầu kỳ từng hàng cột, chiếc xà và cũng được đục trạm
họa tiết tứ linh, hoa lá đường nét phóng khống, sắc nét mà hiếm nơi cịn giữ được.
Để hai tòa liên kết hài hòa vừa đảm bảo mỹ thuật, vừa đạt yêu cầu kỹ thuật tạo
cho bộ mái giao nhau, có mặt phẳng và cong cong, uốn lượn đẹp mắt, yêu cầu kỹ thuật
lắp dựng phần kết cấu bộ khung gỗ lim, nhất là làm kẻ góc thật khơng đơn giản. Người
phó cả ắt phải rất tài ba, thành thạo mới cắt mộng, xàm đóng, lắp ghép thành cơng.
Phần bề ngồi của hai tồ này cũng là phần việc nặng nề, phải rất khéo tay, giỏi
xếp, giỏ kê mới lợp thẳng hàng, chiếu ngang chiếu dọc, chiếu xiên mới thành khe,
thành lớp. Trên mái còn phải đắp đại bờ với hàng hoa chanh thơng gió, đắp kìm nóc
đàu long mây cuốn và các con xơ ở góc vỉ ruồi mái trái, rồng chầu phượng mớm ở trên
góc đao, lá lật cài chéo đều đặn. Khó thật nhưng yêu cầu kỹ thuật, mỹ thuật kiến trúc
cổ thế kỷ XVII, XVIII không thể châm trước.đây cũng là nét độc đáo của kiến trúc cổ
tài nghệ Việt Nam.
Phía trước tiền đường, cịn có hệ thống cột trụ, bình phong làm theo dáng cổ, hịa
nhập với tổng thể cơng trình kiến trúc nơi thờ tự vừa đẹp vừa tơn nghiêm.
Ngồi ra, tại nơi thờ tướng Ngơ Miễn cịn có những mảng trạm trên trụ, trên con
giường, trên thân trụ non các đề tài vân ám lá hỏa, hoa sen cách điệu cùng rồng và
tiên. Bức trạm " cửu long tranh châu " trên hệ thống xà nách, con giường cũng là đề tài
hấp dẫn với những nét thật đặc trưng, tinh tế. Đây là điều cần đề cập, để chứng minh
14
từ thế kỷ XVII, nhân dân đã dành riêng cho cơng trình thờ tự của Ngơ Cơng một cách
kỳ cơng hồn hảo.
2. NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC TRÊN ĐỒ THỜ TỰ
Đình Xuân Bảng quy mô, do vậy đồ thờ tự cũng vào loại lớn và có khá nhiều.
Các đồ thờ tự như đại tự, long ngai, bát biểu, cuốn thư, nến thờ, khay thờ và cả hương
án mang mầu sắc văn hóa thế kỷ XIX, XX được tạo dáng, đục chạm rất kỳ công. Các
đồ thờ là sản phẩm từ thế kỷ XVII, XVIII còn lại như ngai thờ, bát hương đất nung,
hạc thờ lại là những đề tài quý hiểm, độc đáo làm tăng thêm giá trị cho cơng trình kiến
trúc cổ đình Xn Bảng. Song tính nghệ thuật đặc trưng nhất, có giá trị rất cao đó là
các đồ thờ chúng ta cần nên sau đây:
- Chiếc long ngai cao 110cm trên có long bài đặt tại chính tẩm là hai hiện vật
đồng bộ, đồng thời lại đồng bàn tay sáng tạo. Điều đáng nói ở đây là kiểu dáng của
ngai thờ, của long bài đều thể hiện thanh tao trong sự chắc chắn, mạch lạc và rất đặc
trưng của đường nét thế kỷ XVII.
Tay ngai không cầu kỳ, với đầu rồng gọn gàng không rườm rà lại rất tinh tế. Sáu
trụ hai bên cũng chạm rồng theo đề tài long giáng cân đối, giống nhau mà không hề
dập khuôn. Sập ngai với các nét lượn của rồng chầu,những nhát đục thẳng đều đều ở
băng đoạn thẳng song song, những tiểu tiết cầu kỳ ở hàng lá sòi, hàng sen dẹo mà nghệ
nhân đã tạo chân quỳ, yếm bệ với lá hỏa vân ám cách điệu, rồng lượn mặt nguyệt vừa
nổi vừa thơng gió với tư duy nghề nghiệp rất cao, rất đáng kính nể. Những họa tiết
rồng, lá lật, các vật linh khác trên bài vị cũng rất tuyệt tác, rất đẹp làm nền cho dòng
chữ ở trung tâm : " Hà bá thủy quan đại vương ".
Chiếc bát hương đất nung cao 48cm đặt tại chính tẩm cũng là hiện vật quý. Bát
hương có dáng độc đáo, được tạo nhiều đề tài nổi trên miệng, trên thân, trên đế một
cách sáng tạo. Phần tai ở hai bên là hai con rồng uốn lượn nhịp nhàng từ trên nhao
xuống như ơm giữ bát hương. Bốn góc có bốn cánh lá, tựa bốn dải lụa vươn lên cùng
các hạo tiết đường riềm, ly trầu thành lớp ngồi trang trí, vừa như che cho phần thân
bát hương chính bên trong.Đế bát hương cũng tạo kiểu chân quỳ cùng với ly chầu, vân
ám, hoa lá cầu kỳ. Điều đáng quan tâm và cũng là sự hiếm thấy là hình ảnh trên miệng
15
bát hương : hai con hạc chầu cân đối mà thân hình, đơi mỏ dài tạo thành khung trang
trí. Trong khung có hai người tiên đang dang rộng cánh tay múa hát. Vậy đây có là đề
tài dân gian thế kỷ XVIII mà người thợ có dụng ý đưa vào nơi tơn nghiem nhất của
đình chung, muốn xóa đi cái " trịnh trọng " vô lý mà đương thời phân biệt nam nữ đặt
ra, ngăn cấm nữ giới lai vãng đến chốn đình chung. Hay đây chỉ là họa tiết đơn thuần
diễn tả niềm vui ?Dù sao đây cũng là chiếc bát hương có giá trị về nhiều mặt cần được
bảo vệ, trân trọng.
- Đơi hạc thờ tại tịa tiền đường cao 2,20m có dáng tự nhiên, lại được cách điệu
cao ở mào, ở lông cổ tạo thành những chiếc lá hỏa uyển chuyển. Cách điệu đôi cánh
như cụp, như xệ hẳn xuống che một phần đùi, làm tăng thêm vẻ tự nhiên trong sự tôn
nghiêm đứng chầu.
Nếu như nghệ nhân khéo tạo dáng, khéo cách điệu từ mỏ, đầu, đến cổ hạc,, cánh
và đuôi một cách khái lược lại mang tính đặc trưng. Chỉ ít cánh lá, ít đường cong nhấn
thành lá hỏa một cách mềm mại, mà như không thể thiếu sự đầy đủ của cả bộ lông
cánh, lơng đi, làm cho hạc thờ có niên đại thế kỷ XVIII trở thành hiện vật có giá trị
cách điệu nghệ thuật cao.
- Phải đề cập tới chiếc hương án đặt tại gian giữa tịa tiền đường. Hương án có
quy cách 1,90m x 0,8m x 1,70m. Đây là chiếc hương án làm vào thế kỷ XIX nhưng
kiểu dáng, cách kết cấu thân trên, thân dưới lồng vào nhau, cách phân đố ngang, đố
dọc tạo khn trang trí vẫn bảo lưu phong cách phong kiến, khiến hương án vẫn giữ vị
trí chủ thể ở nội thất cơng trình.
Việc điêu khắc rồng chầu trên bao loan, rồng bay chầu mặt nguyệt, cùng băng
cánh sen dẹo trên thành mặt hương án, các mặt trạm thơng gió ở cổ hương án, ở riềm
mặt, riềm cổ tạo vẻ trịnh trọng cho ban thờ, khá hòa nhập với hàng loạt đề tài tứ linh,
hoa lá ở phần thân cũng như chân, lại được sơn son thếp vàng rực rỡ khiến hương án
cuốn hút đối với khách hành hương một cách đặc biệt.
- Tượng Thành hoàng bản thổ Ngô Miễn to như người thật, với cách quân phân
tỷ lệ hợp lý, vẻ mặt nghiêm nghị xong vẫn lộ rõ nét hỷ xả, từ bi chứng tỏ nghệ nhân rất
sáng tạo, biết thể hiện nội tâm của một ông tướng võ lại là một quan văn, một vị Thành
16
hoàng bản thổ bảo vệ, che chở cho mảnh đất, chùa cảnh cùng nhân dân.
Người thợ còn khéo chạm các đề tài tứ linh, các băng hoa chanh, sóng nước
trên long cổn, trên đai, trên mũ cùng với các nếp chồng chéo của vạt áo, ống tay làm
cho tượng thần khơng chỉ đẹp bề ngồi cịn thể hiện đây là đề tài tạc tượng, điêu khắc
rất thành công của thời Nguyễn.
Ngồi ra, các đồ tế tự trong đình cịn lại cho đến ngày nay đều mang dấu ấn nhà
Nguyễn như: bộ bát biểu bằng gỗ dài 2,4m. lư hương đồng(miệng co chu vi1m cao
0,64m) ba cỗ long ngai, một bát hương sứ và đơi xong bình là gốm sứ Trung Quốc đời
Thanh.
Một số đồ thờ trên đây cùng với tổng thể cơng trình kiến trúc cổ, làm cho đình
Xn Bảng có một tầm cỡ hàng đầu, khơng riêng củaNam Định mà của cả nhiều tỉnh
trên cả nước.
17
CHƯƠNG V : TÌNH TRẠNG BẢO QUẢN , NHẬN XÉT GIÁ TRỊ DI TÍCH
VÀ Ý KIẾN ĐỀ NGHỊ CỦA ĐỊA PHƯƠNG.
1. TÌNH TRẠNG BẢO QUẢN DI TÍCH.
Đình Xn Bảng là cơng trình kiến chúc cổ được xây dựng từ lâu đời, song với
điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, cơng trình đã được tu sửa nhiều lần và lần sau cùng
vào niên hiệu Bảo Đại lục niên (1931 ). Những năm gần đây việc tu sửa vẫn được đặt
ra, nhưng chỉ làm những phần việc dặm dọi, xây sửa tường bao, cổng mặt tiền cịn
cơng trình chính vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể.
Điều đáng lưu ý là qua nhiều lần tu sửa vẫn có sự bảo lưu kiểu dáng, cấu kiện
của kiến trúc nhà Nguyễn. Những cấu kiện cần thay phần lớn được tạo dáng, chạm
khắc theo lối cũ, do vậy tổng thể trương trình nhất là bộ khung cịn tốt, hài hịa và đẹp
mắt.
Ban bảo vệ di tích đang có phương án tu sửa lại hệ thống tường bao, cổng chính,
làm hệ thống kè hồ sen mặt tiền, đồng thời có phương án trồng cây cổ thụ, cây lưu
niên tạo cảnh quan môi trường sinh thái cây trồng, biến đình Xn Bảng thành di tích
có sức hấp dẫn đối với bà con quê hương cũng như khách thập phương, đồng thời biến
đình Xuân Bảng thành trung tâm văn hóa của địa phương.
2. NHẬN XÉT GIÁ TRỊ DI TÍCH
Đình Xuân Bảng thờ Chiêu NGô Quận Công và Ngô phu nhântheo nếp cũ của tổ
tiên, để tỏ lòng biết ơn hai ơng đã có cơng giúp nước, giúp dân tạo cuộc sống ấm no,
bình yên từ buổi bình minh lịch sử.
Việc thờ các thiên thần.thủy thần trong hoàn cảnh con người chưa làm chủ được
thiên nhiên, nhất là đồng đất thấp trũng nơi đây, phải gánh chịu nhiều rủi ro, do thiên
tai gây ra cũng là điều đặt ra bởi tất yếu khách quan khó tránh.
Nhân dân thị trấn Xuân Trường thờ Ngơ Quận Cơng và vợ ơng ở đình Cơng
đồng, đình Trung và cả ở chùa hiện nay thể hiện lòng nhiệt thành đối với người con
quê hương : Khi làm dân thì quả cám khơng sợ cường quyền, che chở cho dân, lúc làm
quan thì thương dân, giúp dân nghề nghiệp, mở mang đường xá và khi làm tướngxơng
pha chận mạc thì hết lịng vì nước, đến nỗi phải trọng thương và bỏ mình ngồi mặt
trận. Sau khi ông chết nhân dân tôn thờ, tạc tượng tôn là bản thổn tôn thần để ông lại
phù hộ che chở cho quê hương. Đây là nhân thần người địa phương, có đầy đủ đức
18
tính, tài ba, một hiện tượng tốt đẹp tiêu biểu của người con Xuân TRường Nam Định,
là niềm tự hào rất sáng giá của quê hương, cuả cả dân tộc.
Thời kỳ cách mạng và kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược, Xuân Bảng
có nhiều sự liên quan đến các phong trào trong xã, trong huyện. Trước và trong cách
mạng tháng tám năm 1945, mái đình Xuân Bảng,nhân dân thị trấn Xuân Trường đã
hòa nhập cùng phong chào đấu tranh chung của huyện Xuân Trường của tỉnh Nam
Định, là mảnh đất đỏ hay nói khác đi là cái nơi của cách mạng.
Chiến thắng của du kích tiêu diệt gọn 12 tên địch đến phá đình Xn Bảng, góp
phần cùng chiến cơng chung cuả cả nước, vừa có ý nghĩa bảo vệ một di sản văn hóa
tiêu biểu của quê hương địa phương.
Đình Xn Bảng là cơng trình kiến trúc quy mơ thời Nguyễn tồn tại. Đây là cơng
trình phải tốn nhiều nhân lức và vật lưc, phải có sự gia công rất kỳ công và sáng tạo.
Các đề tài chạm khắc tứ linh cũng như dân gian trên cấu kiện rất cầu kỳ, sinh động là
những tác phẩm quý hiếm rất đáng được trân trọng và đặc biệt là chất liệu xây dựng
đang cịn có chất lượng tốt, mà nhiều nơi không bảo quản được như Xuân Bảng.
Đồ thờ tự, tượng pháp đình Xuân Bảng cũng là những tác phẩm kỳ cơng, thể
hiện tài nghệ, óc sáng tạo của nghệ nhân tạc tượng, điêu khắc, làm nghề đất nung. Sản
phẩm được dùng tại đình là thành quả lao động được tồn tại khơng nhiều trên đất Nam
Định. Góp phần đưa cơng trình đình Xn Bảng đạt giá trị cao về kiến trúc và giá trị
nghệ thật rất cao trên các đồ thờ tự, sứng đáng là di sản văn hóa tiêu biểu, hài hòa với
giá trị lịch sử đáng quý của địa phương.
3. Ý KIẾN ĐỀ NGHỊ CỦA ĐỊA PHƯƠNG.
Đình Xn Bảng là di tích có giá trị cao về lịch sử giá trị rất cao về kiến trúc
nghệ thuật, thiết nghĩ cần có sự quan tâm của nhà nước. Vậy chính quyền và nhân dân
thị trấn Xuân Trường trân trọng đề nghị các nghành các cấp từ trung ương đến địa
phương xem xét, cơng nhận đình Xn Bảng thị trấn Xuân Trường huyện Xuân
Trường tỉnh Nam Định là di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, giúp địa
phương bảo vệ di tích quý hiếm này được tốt hơn.
19
KẾT LUẬN
Xuân Trường – Nam Định được biết đến là vùng đất “ địa linh nhân kiệt” có từ
lâu đời. trải qua trường kỳ lịch sử của đất nước và dân tộc vùng đất này có nhiều tên
gọi khác nhau. Cái tên Xuân Trường với hàm ý sức Xuân Trường tồn mãi đã có từ thế
kỷ XIX.
Từ xưa, Xuân Trường là nơi gặp gỡ giao hội của cách mạng giao thơng thủy bộ
chủ yếu là những dịng sơng hướng ra biển lớn như sơng Ninh Cơ, sơng Hồng, sơng
Sị…cảnh quan sinh thái phủ Xuân Trường thật đa dạng phong phú. Những cánh đồng
trải dài với những hệ thống kênh mương kéo dài ắp đầy nước mát tạo cho nơi đây sớm
trở thành trung tâm giao thương, vừa thuận lợi cho làm ăn phát triển kinh tế- văn hóa,
khiến vùng đất này có vị trí khá đặc biệt trong lịch sử dân tộc, văn hóa dân tộc.
Lịch sử đã để lại trên q hương Xn Trường nhiều cơng trình kiến trúc văn hóa
tín ngưỡng tâm linh bao gồm: 45 ngơi chùa 245 đền đình miếu, 833 từ đường, 71 nhà
thờ. Đến nay có 29 di tích được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa được bộ văn
hóa thơng tin và du lịch cơng nhận, 20 di tích lịch sử văn hóa được UBND tỉnh cơng
nhận.
Kết quả lịch sử nghiên cứu cho thấy đây là địa bàn sinh tụ của nhiều người dân
thuộc đủ các vùng miền trên phạm vi toàn quốc đến đây khai khẩn lập làng cư trú.
Những giá trị văn hóa đó từ hàng trăm năm nay, đã được người dân trong vùng đời này
qua đời khác để tôn thờ, ngưỡng vọng. Hướng về một tương lai phát triển, người dân
Xuân Trường luôn ý thức được rằng cần phải ra sức bảo tồn, phát huy những giá trị
lịch sử, văn hóa ấy trên cơ sở những di sản văn hóa vẫn ln được tồn tại cả trong tâm
thức và hiện hữu.
Xã hội ngày nay đang phát triển theo hướng cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, chúng
ta cần bảo lưu gìn giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống. Đình là nơi tồn tại những
giá trị văn hóa tâm linh của người Việt, vì thế mỗi người cần có ý thức gìn giữ những
nét đẹp văn hóa đó khơng chỉ đình Xn Bảng mà cịn tất cả các đình trên quê hương
Việt Nam
20