Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (945.55 KB, 9 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Từ lâu nay hình ảnh người phụ nữ thướt tha trong tà áo dài truyền thống với</b>
<b>chiếc nón lá đã in đậm trong tâm thức người Việt. Khắp ba miền Bắc, Trung,</b>
<b>Nam đều có những vùng làm nón lá khá nổi tiếng và mỗi loại nón đều mang</b>
<b>những nét đẹp, sắc thái riêng.</b>
“Muốn ăn cơm trắng cá trê,
Muốn đội nón tốt thì về làng Chng”
nhiều tầng lớp như nón ba tầm cho các cơ gái, nón nhơ, nón long, nón dấu, nón
chóp cho các chàng trai và những người đàn ông sang trọng. Nhưng từ năm 1940
đến nay, những người thợ làng Chng chỉ cịn làm duy nhất một loại nón.
“Trên đầu đội nón làng Chng
Ra đồng, xuống chợ, tới trường, vào thơ
Dịu dàng che nắng, che mưa
Nón bằng, nón chóp ngàn xưa chung tình”
<i>(Hồng Cẩm Thạch)</i>
Những chiếc nón cầu kì hơn sẽ được trang trí vào lịng nón những họa tiết hoa lá
bằng giấy sắc màu hoặc chỉ khâu nhiều vòng giăng mắc ở hai điểm đối diện để
buộc quai nón. Chiếc nón lá trắng trịn trịa chỉ cần thêm một dải lụa mềm buộc làm
quai nón đã tôn lên vẻ dịu dàng cho bao cô gái.