Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.32 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Thứ Tư, 20/12/2006, 06:04 (GMT+7)</b>
<b>Đặng Thùy Trâm - Chuyện ngồi nhật ký (kỳ 4)</b>
<b>TT - Trang đầu tiên của Nhật ký Đặng Thùy Trâm có ghi ngày </b>
<b>10-4-1968: “Vậy là chiều nay các anh lên đường để lại cho mọi người</b>
<b>một nỗi nhớ mênh mông giữa khu rừng vắng vẻ. </b>
Các anh đi rồi nhưng tất cả nơi đây còn ghi lại bóng dáng các anh:
những con đường đi, những chiếc ghế ngồi chơi xinh đẹp, những câu
thơ thắm thiết yêu thương…”. Những người được chị Thùy nhắc đến
ấy chính là các chiến sĩ của “đồn tàu khơng số” sau khi đưa tàu vận
chuyển vũ khí vào Phổ An (Đức Phổ, Quảng Ngãi) bị địch phục kích đã
chiến đấu và cịn lại 14 người, sau khi được nhân dân che chở đã tìm
đường lên miền tây Quảng Ngãi. Các anh đã có một tháng điều trị ở bệnh xá Đức Phổ trong sự chăm
sóc của bác sĩ Đặng Thùy Trâm.
<b>>> Kỳ 1: Bác sĩ - nghệ sĩ</b>
<b>>> Kỳ 2: Thùy và Đỗ Mộc</b>
<b>>> Kỳ 3: Sống trong lòng Đức Phổ</b>
<b>Những chuyến tàu bi tráng</b>
Một người trong số đó là ông Lưu Công Hào - thủy thủ của tàu 43 lữ đoàn 125 hải quân. Gần 40 năm đã
qua, những ký ức về chị Thùy vẫn vẹn nguyên trong ông, hơn thế ông đã nâng niu gìn giữ những kỷ vật
của chị Thùy.
Gọi là "tàu không số" nhưng thật ra các tàu đều có số hiệu tại đơn vị, chỉ khi tiến hành thâm nhập vào
miền Nam để tiếp tế vũ khí mới tùy theo từng vùng biển đi qua mà con tàu có thể mang nhiều số hiệu
Con tàu vận tải vũ khí vào Đức Phổ mang số hiệu 43 là một trong bốn con tàu tiếp tế vũ khí cho chiến
trường miền Nam dịp tổng tấn công xuân Mậu Thân 1968 (ba chiếc kia là tàu 235 do thuyền trưởng
Nguyễn Phan Vinh chỉ huy vào Hòn Hèo, Khánh Hòa; tàu 165 do thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm chỉ
huy đi vào bến Vàm Lũng, Cà Mau; và tàu 56 do thuyền trưởng Nguyễn Văn Ba - Ba Râu - chỉ huy vào
bến Lơ Giao, Bình Định).
Bốn tàu ra đi nhưng chỉ có tàu 56 trở về, ba chiếc còn lại đều đụng độ với đối phương và hủy tàu. Trận
đánh của tàu 43 sau này được thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng kể lại với nhà văn Nguyên Ngọc khi
ơng đi làm bộ phim Đường mịn trên biển Đông và trong câu chuyện ấy thuyền trưởng Thắng đã kể về
nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm...
Và từ sợi dây mong manh ấy nối dài đến khi những trang nhật ký của chị Thùy "trở về" vào năm ngối thì
miền ký ức của người lính tàu khơng số chợt bừng thức. Ơng Hào đã ngắm nhìn lại cuốn sổ nhỏ ngày
xưa, tấm hình chị Thùy chụp khi còn là học sinh ở Hà Nội.
Sau trận chiến không cân sức với đối phương khi tàu vừa chuẩn bị quay mũi lao vào bến để xuống hàng
ở Đức Phổ, ban chỉ huy quyết định hủy tàu, có ba anh em trên tàu hi sinh là Vũ Văn Ruệ, Võ Nho Tòng
và Phạm Văn Rai, còn 14 chiến sĩ nhưng bị thương mất 11 người, chính bà con ở thôn Quy Thiện, xã
Phổ Hiệp đã cưu mang đùm bọc anh em trong những ngày nguy khốn đó.
Sau mười ngày đêm nằm dưới hầm bí mật, trên mặt đất đối phương ập vào làng càn quét truy tìm nhưng
khơng sao tìm thấy dấu vết. Thật kỳ lạ, lịng dân nơi đây đã che chở an tồn cho tất cả. Sau đó các
thương binh được anh em du kích cáng lên bệnh xá, nhưng hai đêm liền đều gặp phục kích phải quay
lại, đêm thứ ba mới thoát được. Hơn một ngày rưỡi xuyên rừng, vào chiều tối hôm sau các anh em thủy
thủ của tàu 43 mới đến được bệnh xá của chị Thùy.
<b>Một tháng ở bệnh viện</b>
Ký ức của ơng Hào vẫn cịn vẹn ngun hình ảnh của bệnh xá
giữa rừng ấy. Hai ngày sau khi các chiến sĩ “đồn tàu khơng số”
lên đến bệnh xá thì chị Thùy mới đi cơng tác về.
Nhìn vết thương của anh em, chị không cầm được nước mắt:
“Các anh đã về đến đây cứ yên tâm điều trị, nhanh chóng phục
hồi sức khỏe để còn tiếp tục chiến đấu”.
Chiến trường Khu 5 cũng như cả chiến trường miền Nam sau
Tết Mậu Thân vơ cùng khốn khó và khốc liệt. Những thương
binh như ông Hào được tiêu chuẩn là ăn cơm với rau má chấm
cá chượp, còn chị Thùy và các anh em trong bệnh xá phải ăn
độn khoai lang.
Nạn đói lại hồnh hành bà con đồng bào miền tây Quảng Ngãi,
những ngày ấy toàn bệnh xá đều thực hiện khẩu lệnh: Vì đồng
bào Ba Tơ, mỗi người dành nửa khẩu phần ăn của mình để cứu
đói cho bà con dân tộc thiểu số.
Những chuyến đi về đồng bằng nhận lương thực, thuốc men lên để chăm sóc thương binh dạo ấy vơ
cùng nguy hiểm vì bị phục kích, rình rập, bơ gạo mang lên đến bệnh xá lại chia ra một nửa để cứu đói
cho đồng bào.
Gian khó vậy nhưng ai cũng lạc quan, niềm lạc quan bắt đầu từ chị Thùy, từ tấm lòng của chị, những tâm
sự của chị và cả những dự định tương lai của chị.
Ngay trong những ngày ấy, chị Thùy viết lưu bút cho người lính trẻ Lưu Công Hào mà chị coi như đứa
em trai, chị đã mơ đến một ngày không xa “chị sẽ đến Đồ Sơn nghỉ mát, và một buổi chiều nào đó trên
bãi biển Đồ Sơn chị lại được gặp em, được nắm tay em (cánh tay đau đã làm em mất ngủ mấy đêm ở
trạm này lúc ấy đã lành từ lâu rồi em nhỉ...)”.
Gần 40 năm rồi, ông Hào vẫn nhớ những buổi trưa, tranh thủ ánh nắng hiếm hoi chị Thùy mang dụng cụ
y tế, bông băng ra phơi. Sợ máy bay phát hiện, ông Hào trèo lên cây kéo kín tán lá ngụy trang, tiếng chị
Thùy nhẹ nhàng nhắc: “Cẩn thận Hào nghe, cẩn thận kẻo ngã đấy em nhé”...
Những ngày sau đó, khi một số anh em thương binh hồi phục, các anh vào rừng chặt những cây gỗ
thẳng, đều đặn làm thành những chiếc ghế nhỏ tặng bệnh xá, làm những lan can để anh em thương binh
vịn tay tập đi lại, làm cả một khu nghỉ ngơi cho thương binh (những chiếc ghế này đã được chị nhắc đến
trong những dịng nhật ký hơm chia tay). Đó là những ngày rất đẹp trong ký ức anh lính trẻ Lưu Công
Hào dù mỗi ngày phải luôn đối mặt với muôn vàn hiểm nguy.
Một tháng điều trị ở bệnh xá qua mau, rồi một buổi chiều anh em thủy thủ của “đồn tàu khơng số” nhận
lệnh lên đường, không biết tự bao giờ chị Thùy đã chuẩn bị đầy đủ tăng, võng, balô, ruột tượng đựng
gạo... để anh em vượt Trường Sơn ra Bắc, trở lại với những con tàu để tiếp tục chi viện vũ khí cho chiến
trường Nam bộ.
Ngày chia tay, chị Thùy đã nắn nót ghi vào cuốn sổ nhỏ của Lưu Cơng Hào ngồi những dịng lưu bút là
địa chỉ của người em gái Đặng Phương Trâm, địa chỉ gia đình để anh lính trẻ khi về đến Hà Nội sẽ ghé
thăm...
Sau ba tháng vượt Trường Sơn, những người lính đã về đến hậu phương, nhưng cơng việc của những
người lính tàu khơng số ln là một bí mật đặc biệt, ơng Hào khơng thể đến thăm gia đình chị Thùy và cơ
em gái Phương Trâm như chị Thùy dặn dò.
Rồi những chuyến đi vào Nam tiếp tục cho đến ngày hịa bình. Những dịng chữ và tấm hình chị Thùy
tặng ơng Hào vẫn gìn giữ như một kỷ vật thiêng liêng. Bây giờ, cuốn sổ tay bé tí với những dịng lưu bút,
tấm hình chị Thùy tặng đã được ơng Hào trao lại cho Bảo tàng Hải quân (tại thành phố Hải Phịng), đặt ở
một vị trí trang trọng, thảng hoặc ơng Hào lại vào nhìn để nhớ về một phần đời không thể nào quên.
<b> LÊ ĐỨC DỤC</b>
Đào Lý Phương viên vẫn nguyên vẹn như ngày nào với rường cột, mái ngói cổ xưa. Di ảnh chính của chị
Thùy đã được gia đình đưa về thờ cúng ở mái nhà xưa này, nơi chứng kiến những tiếng khóc đầu đời
của chị…
<i><b>Kỳ tới:</b></i> Mái nhà xưa ở Huế
<b>Tin bài liên quan</b>
<b>* Tất cả...</b>
<b>Ý kiến bạn đọc </b>
Họ và tên
Địa chỉ Email
Invalid
Gửi tới
Tiêu đề
Nội dung
<b>(*)</b>
Hướng dẫn Gõ tiếng Việt
Đính kèm tài liệu
Tài liệu 1(Tối đa 1MB)
Tài liệu 2(Tối đa 1MB)
Tài liệu 3(Tối đa 1MB)
Tài liệu 4(Tối đa 1MB)
G? i di
Cởi áo cà sa khoác chiến bào - (19/12)
Những người tiếp bước chị Trâm - (19/12)
Đặng Thùy Trâm - chuyện ngoài nhật ký (Kỳ 3): Sống trong lòng Đức Phổ - (19/12)
Thùy và Đỗ Mộc - (18/12)
“Được học bổng cô Trâm, phải ráng thành bác sĩ” - (18/12)
Vào “thủ phủ” Vàng Pao - (17/12)
Đặng Thùy Trâm - chuyện ngoài nhật ký - (17/12)
Người chép sử Vệ út - (15/12)
Tiểu đội nhí và “chiến thuật xe bò” - (14/12)