Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.48 KB, 10 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
0
<b>Nội dung </b>
Nguồn gốc nhà nước.
Khái niệm và bản chất của nhà nước.
Đặc trưng của nhà nước.
Chức năng nhà nước.
Bộ máy nhà nước.
Hình thức nhà nước.
Kiểu nhà nước.
<b>Mục tiêu </b> <b>Hướng dẫn học </b>
Sau khi học bài này, các bạn có thể:
Chỉ ra được sự khác biệt các quan điểm
khác nhau về sự ra đời của nhà nước.
Nắm bắt được khái niệm nhà nước và
bản chất của nhà nước.
Xác định các đặc trưng của nhà nước.
Nhìn nhận và đánh giá ban đầu về chức
Phân loại các hình thức nhà nước và các
kiểu nhà nước
<b>Thời lượng học</b>
6 tiết
Nghe giảng và đọc tài liệu để nắm bắt
các nội dung chính.
Đặt câu hỏi ngay nếu có thắc mắc.
Trả lời các câu hỏi ôn tập.
Cùng với sự xuất hiện và phát triển, nhà nước và pháp luật có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
Chúng tạo thành hạt nhân chính trị – pháp lý của thượng tầng kiến trúc của xã hội. Nhà nước
không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật, bởi vì theo nghĩa chung nhất, nhà nước là tổ chức được
hình thành từ những quy định của pháp luật. Và ngược lại, pháp luật là sản phẩm của quyền lực
nhà nước, thể hiện ý chí hợp quy luật và điều kiện khách quan do nhà nước nhận thức được.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu đến sự hình thành và phát triển của nhà nước sẽ là tiền đềđể hiểu rõ
bản chất của pháp luật. Bởi nhà nước là một hiện tượng xã hội đa dạng và phức tạp liên quan
chặt chẽđến lợi ích của giai cấp, tầng lớp, dân tộc. Để nhận thức đúng đắn bản chất, vai trò của
nhà nước, trước hết làm sáng tỏ nguồn gốc của nhà nước, chỉ ra nguyên nhân cội nguồn làm xuất
hiện nhà nước.
<b>1.1.</b> <b>Nguồn gốc nhà nước </b>
Trong lịch sử chính trị – pháp lý, ngay từ thời kỳ cổđại, trung đại và cận đại đã có nhiều
<b>1.1.1.</b> <b>Các quan điểm về nguồn gốc nhà nước trước Mác-Lênin </b>
Các nhà tư tưởng theo thuyết thần học là những nhà tư tưởng cổ điển nhất đưa ra
nguồn gốc của nhà nước.
o Đại diện cho trường phái này gồm Ph.Acvin (trong xã hội trung cổ); Masiten.
Koct Phlore (trong xã hội tư sản).
o Thuyết này cho rằng Thượng đế là người sắp đặt trật tự trong xã hội, nhà nước
là do thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung. Nhà nước là lực lượng
siêu nhiên.
o Do vậy, Nhà nước là thiết chế quyền lực của thượng đế; quyền lực của thượng đế
là vĩnh cửu. Có thể nhận thấy nhà nước theo thuyết này là sự phái sinh từ quyền
lực của Thượng đế.
Thuyết gia trưởng (Arixtơn, Philmer, Mikhailơp, Merđc,…) cho rằng nhà nước ra
đời là sự phát triển của gia đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con
người. Nhà nước thực chất là một gia tộc mở rộng và quyền lực nhà nước là sự mở
rộng của quyền gia trưởng.
Từ thế kỷ XVI – XVIII cùng với trào lưu cách mạng tư sản, đã xuất hiện hàng loạt
quan điểm mới về nhà nước, trong đó có thuyết khếước xã hội.
o Những người đại diện cho học thuyết này gồm có Grơxi, Xpirơza, Gốp, Lơre,
Rútxơ,... cho rằng sự ra đời của nhà nước là kết quả của một khếước (hợp đồng)
con người về nguồn gốc nhà nước, thể hiện sự tiến bộ của loài người và phủ nhận
thuyết thần học về sự ra đời của nhà nước, đồng thời coi quyền lực nhà nước là
sản phẩm hoạt động của con người.
tùng nó; cịn ngược lại, nhà nước phải có trách nhiệm duy trì trật tự xã hội và bảo
vệ các quyền và tự do của người dân,… Trường hợp nhà nước không giữ được
vai trị của mình, các quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ mất hiệu lực và
nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký khếước mới. Vì vậy, thuyết khếước xã
hội đã trở thành cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản, lật đổ chế độ phong kiến,
với ý nghĩa đó, nó có tính cách mạng và giá trị lịch sử nhất định.
o Tuy nhiên, thuyết khếước xã hội vẫn có những hạn chế nhất định, về căn bản các
nhà tư tưởng vẫn đứng trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa duy tâm để giải
thích sự xuất hiện của nhà nước, bản chất của nhà nước và sự thay thế nhà nước.
Nó chưa lý giải được nguồn gốc vật chất và bản chất giai cấp của nhà nước.
Ngày càng có nhiều nhà tư tưởng tư sản thừa nhận nhà nước là sản phẩm của đấu
tranh giai cấp, là tổ chức quyền lực của xã hội có giai cấp, nhưng mặt khác họ vẫn
không chịu thừa nhận bản chất giai cấp của nhà nước mà coi nhà nước vẫn là công cụ
đứng ngồi bản chất giai cấp, khơng mang tính giai cấp, là cơ quan trọng tài đểđiều
hoà mâu thuẫn giai cấp. Vì thế, trong lịch sử tư tưởng chính trị – pháp lý xuất hiện
một học thuyết khác của các nhà tư tưởng tư sản về nguồn gốc nhà nước, đó là:
thuyết bạo lực. Đại diện cho những nhà tư tưởng theo học thuyết này là Gumplơvích,
E. Đuyrinh, Kauxky. Thuyết bạo lực cho rằng: nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc
sử dụng bạo lực của thị tộc này với thị tộc khác, thị tộc chiến thắng đã lập ra bộ máy
đặc biệt (nhà nước) để nô dịch thị tộc chiến bại.
Nhìn chung, tất cả các quan điểm trên đều có một hạn chế là đều tách rời những điều
kiện vật chất của xã hội, tách rời những nguyên nhân kinh tế và chứng minh rằng nhà
nước là một thiết chế tồn tại trong mọi xã hội, một lực lượng đứng trên xã hội, đứng
ngoài xã hội để giải quyết các tranh chấp, điều hòa mâu thuẫn xã hội nhằm bảo đảm
sự ổn định và phồn vinh cho xã hội. Theo họ, nhà nước không thuộc giai cấp nào,
nhà nước là của tất cả mọi người và nhà nước tồn tại mãi mãi cùng xã hội.
<b>1.1.2.</b> <b>Quan điểm Mác-Lênin về nguồn gốc của nhà nước </b>
Kế thừa những thành tựu nghiên cứu khoa học của xã hội loài người, các nhà sáng lập
Chủ nghĩa Mác-Lênin giải thích nguồn gốc của nhà nước trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và lịch sử đã chỉ ra rằng nhà nước là một phạm trù lịch sử có q
trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nước nảy sinh từ trong đời sống xã hội, xuất
hiện khi xã hội loài người phát triển đến một trình độ nhất định. Các luận điểm quan
trọng của học thuyết Mác-Lênin về nguồn gốc nhà nước được trình bày tập trung trong
tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, chế độ sở hữu và của nhà nước” của Ph.Ănghen.
Qua tác phẩm này, Ph.Ănghen đã phân tích các vấn đề về gia đình, nguồn gốc của giai
cấp và của nhà nước và những quy luật tiếp tục phát triển và biến đổi sau này của chúng.
Ph.Ănghen đã chỉ ra rằng nhà nước chỉ ra đời ở một giai đoạn lịch sử nhất định của xã
hội trên cơ sở xuất hiện chếđộ tư hữu và gắn liền với nó là sự phân chia xã hội thành các
giai cấp đối kháng, ơng cũng luận chứng về tính chất giai cấp và tính lịch sử của nhà
nước, làm sáng tỏ chức năng giai cấp cơ bản của nhà nước Sau đó được bổ sung và phát
triển trong tác phẩm “nhà nước và cách mạng” của Lênin.
<b>Chếđộ cộng sản nguyên thủy, tổ chức thị tộc – bộ lạc và quyền lực xã hội </b>
lực lượng sản xuất. Chỉ với công cụ lao động thô sơ, năng suất lao động kém, sự
bất lực của con người trước thiên nhiên đã hợp nhất con người trong một tập thể.
Lao động chung dẫn đến sở hữu chung về tư liệu sản xuất và việc phân phối đồng
đều sản phẩm làm ra.
o Cấu trúc xã hội cộng sản nguyên thủy dựa vào thị tộc – tế bào cơ sở của xã hội
cộng sản nguyên thủy.
Từ quan hệ tạp hôn, con cái chỉ biết mẹ, dần dần trong quan hệ hôn nhân diễn
ra sự biến đổi quan trọng: những người cùng dịng máu mẹ khơng kết hơn với
nhau, những người này hợp thành một cộng đồng gọi là thị tộc. Như vậy, thị
tộc được hợp thành do quan hệ huyết thống.
Về kinh tế, thị tộc hình thành do quá trình phát triển của lực lượng sản xuất.
Thị tộc phát triển qua hai giai đoạn: thị tộc mẫu hệ và thị tộc phụ hệ. Trong xã
hội phụ hệ, chếđộ hôn nhân một vợ một chồng được xác lập, mọi người trong
thị tộc đều theo dòng họ cha, đó là chếđộ phụ quyền. Thị tộc có ruộng đất, có
khu vực cư trú riêng.
Việc điều hành và quản lý thị tộc do tù trưởng và thủ lĩnh quân sựđảm đương.
Những người này do các thành viên của thị tộc bầu ra.
Thị tộc là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài, xuất hiện khi xã hội đã phát
triển tới một trình độ nhất định. Vì vậy, đây được coi là bước tiến trong lịch
sử của nhân loại.
Trong thị tộc, trên cơ sở sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm, mọi
người đều bình đẳng khơng ai có đặc quyền đặc lợi. Ởđó đã có sự phân cơng
lao động nhưng chỉở mức phân công lao động giữa đàn ông và đàn bà, người
già và trẻ nhỏđể thực hiện các loại cơng việc khác nhau, chứ chưa mang tính
xã hội.
Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc bao gồm những
Nhưng trong thị tộc chưa có cơ quan cưỡng chế mà được bảo đảm bằng sự
cưỡng chế tự nhiên mạnh mẽ. Hội đồng thị tộc sẽ bầu ra người đừng đầu thị
tộc gồm tù trưởng, thủ lĩnh quân sựđể thực hiện quyền lực, quản lý công việc
chung. Căn cứđể bầu người đứng đầu thị tộc là dựa vào tập thể cộng đồng, uy
tín cá nhân, sựủng hộ và tín nhiệm của các thành viên trong thị tộc. Do đó, tù
trưởng, thủ lĩnh quân sự có thể bị bãi nhiễm bất cứ lúc nào nếu uy tín khơng
cịn và khơng được tập thể cộng đồng ủng hộ.
Đứng đầu bộ lạc là tù trưởng bộ lạc do hội nghị bộ lạc bầu ra. Tù trưởng bộ
lạc có quyền giải quyết những công việc gấp, không quan trọng giữa hai kỳ
hội nghị bộ lạc và có quyền triệu tập hội nghị.
Hội đồng bộ lạc bao gồm: tù trưởng bộ lạc, các tù trưởng và thủ lĩnh quân sự
của thị tộc. Quản lý công việc của thị tộc là một trưởng lão già nhất trong thị
tộc. Nên hội đồng bộ lạc còn được gọi là hội đồng trưởng lão.
Hội đồng bộ lạc có quyền thảo luận, quyết định những vấn đề quan trọng của
bộ lạc như tuyên chiến, đình chiến, cử sứ giảđi hoặc chia chiến lợi phẩm,….
o Và đến giai đoạn cuối cùng của chếđộ cộng sản nguyên thủy thì các liên minh bộ
lạc hình thành.
Hội đồng liên minh bộ lạc gồm những tù trưởng của các bộ lạc và các thị tộc.
Hội đồng thảo luận và quyết định những công việc của liên minh theo phương
thức dân chủ. Mọi quyết định phải được sự nhất trí hồn tồn của các thành
viên. Các quyết định đó khi đưa về các bộ lạc cũng phải được hội đồng bộ lạc
tán thành thì mới có hiệu lực.
Liên minh bộ lạc có hai thủ lĩnh tối cao, không ai hơn ai về quyền hạn và
chức trách.
o Về cơ bản, tính chất quyền lực, cách thức tổ chức quyền lực trong bào tộc, bộ lạc,
liên minh bộ lạc được xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc trong xã hội thị tộc
nhưng chừng mực nào đó thì được tập trung cao hơn.
o Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, quyền lực đều xuất phát từ xã hội và phục vụ
lợi ích của cả cộng đồng. Quyền lực trong chếđộ cộng sản nguyên thủy mới chỉ
là quyền lực xã hội do toàn xã hội tổ chức và phục vụ lợi ích cho cả cộng đồng.
o Tóm lại, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, quyền lực xã hội được tổ chức thực
hiện trên cơ sở dân chủ thực sự. Những quy tắc xã hội nhưđạo đức, tôn giáo, tập
quán,…dùng để điều chỉnh các thành viên trong xã hội cộng sản nguyên thủy.
Các quy tắc xã hội đó đều được mọi người tự giác tuân theo và được đảm bảo
thực hiện bởi sự cưỡng chế của cộng đồng.
<b>Sự tan rã của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện nhà nước </b>
o Xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa biết đến nhà nước, nhưng chính trong lịng xã
hội đó đã nảy sinh những tiền đề vật chất cho sự ra đời của nhà nước. Những
nguyên nhân làm xã hội cộng sản nguyên thuỷ tan rã đồng thời cũng là những
nguyên nhân xuất hiện nhà nước, đó là sự phân cơng lao động xã hội.
o Lịch sử xã hội cổ đại đã trải qua ba lần phân cơng lao động xã hội, đó là: chăn
nuôi tách khỏi trồng trọt; thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp; và thương
nghiệp xuất hiện.
Việc con người thuần dưỡng được động vật đã mở ra một kỷ nguyên mới
dùng hàng ngày, con người đã có của cải dư thừa để dành. Trong các cộng
đồng, những người có địa vịđã chiếm được nhiều của cải dư thừa của tập thể.
Xã hội đã phân chia thành người giàu và người nghèo dẫn đến quan hệ xã hội
đã có nhiều biến đổi. Đại gia đình phụ quyền được phân thành nhiều gia đình
nhỏ, bao gồm vợ chồng và con cái. Mỗi gia đình nhỏ là một đơn vị kinh tế, có
tài sản riêng như cơng cụ sản xuất, tư liệu lao động và những thứ đó được
truyền lại cho con cái từđời này qua đời khác, củng cố thêm chế độ tư hữu.
Bên cạnh đó, của cải và tù binh trong chiến tranh cũng được coi là tài sản
quan trọng mà những người có địa vị trong bộ lạc thắng trận chiếm đoạt cho
riêng mình.
Xã hội tiếp tục phát triển, cùng với sự tồn tại của chăn nuôi và trồng trọt, thủ
cơng nghiệp cũng được phát triển mạnh mẽ. Việc tìm ra kim loại và chế tạo
công cụ bằng kim loại tạo khả năng tăng năng suất lao động. Nghề chế tạo
kim loại, nghề dệt, nghề làm đồ gốm, chế biến sản phẩm nông nghiệp.v.v...
ngày càng phát triển. Điều này đã dẫn đến việc thủ công nghiệp tách khỏi
nông nghiệp. Hậu quả của lần phân công lao động thứ hai này đã làm quá
trình phân hóa xã hội diễn ra mạnh mẽ, nơ lệ trở thành lực lượng xã hội với số
lượng ngày càng đông, sự phân biệt giữa người giàu và người nghèo, giữa chủ
nô và nô lệ ngày càng sâu sắc, đối kháng giai cấp ngày càng gia tăng.
Với việc xuất hiện nhiều ngành nghề chuyên môn trong sản xuất đã làm phát
sinh nhu cầu trao đổi hàng hoá trong xã hội. Sự phát triển nền sản xuất hàng
o Tất cả những yếu tố trên đã làm đảo lộn đời sống thị tộc, phá vỡ tính khép kín của
thị tộc. Tổ chức thị tộc với hệ thống quản lý trước đây trở nên bất lực trước tình
hình mới. Để điều hành xã hội mới đòi hỏi phải có tổ chức mới đủ sức mạnh để
dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp đối lập nhau. Tổ chức đó là nhà
nước và nhà nước đã xuất hiện.
<b>Quan điểm Mác-Lênin </b>
o Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, là
"sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thểđiều hoà được".
Nhà nước là "bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác".
o Trong tác phẩm nhà nước và cách mạng, Lênin chỉ ra rằng về bản chất, Nhà nước
o Tiền đề kinh tế cho sự xuất hiện nhà nước là sự xuất hiện chếđộ tư hữu về tài sản
trong xã hội. Tiền đề kinh tế là cơ sở vật chất cho sự ra đời của nhà nước – đó là
sự phân chia xã hội thành các giai cấp mà lợi ích cơ bản giữa các giai cấp và các
tầng lớp này là đối kháng với nhau đến mức khơng thểđiều hồ được.
o Ngồi các yếu tố chung nói trên, sự xuất hiện nhà nước ở các vùng và của các dân
tộc khác nhau cũng có những đặc điểm khác nhau do có các điều kiện kinh tế, xã
hội và ngoại cảnh khác nhau. Theo Ph. Ăngghen có ba hình thức xuất hiện nhà
nước điển hình:
Nhà nước Aten: Đây là hình thức nhà nước
thuần tuý cổ điển nhất. Nguyên nhân dẫn
đến sự ra đời của Nhà nước Aten chủ yếu
trên cơ sở phân hoá nội bộ xã hội thị tộc do
sự phát triển của kinh tế và sự xuất hiện
mâu thuẫn giai cấp đối kháng.
Nhà nước La Mã: Nhà nước này ra đời trên
cơ sở kết quảđấu tranh giữa giới bình dân chống lại giới quý tộc. Chiến thắng
của giới bình dân đã phá vỡ tổ chức thị tộc, thúc đẩy quá trình hình thành thiết
chế nhà nước vốn dựa trên sự phân chia lãnh thổ và sự khác biệt về tài sản.
Nhà nước Giéc Manh: Đây là hình thức nhà nước được thiết lập sau chiến
thắng của người Giéc Manh đối với đế quốc La Mã cổđại. Nó ra đời do nhu
cầu thiết lập quyền thống trị trên lãnh thổ La Mã mà người Giéc Manh đã xâm
chiếm được chứ khơng phải do địi hỏi bức thiết của cuộc đấu tranh giai cấp
trong nội bộ xã hội của người Giéc Manh.
o Vì vậy, theo quan điểm của triết học Mác-Lênin thì nhà nước là một phạm trù
lịch sử, nghĩa là nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất định trong
quá trình phát triển của lịch sử. Nhà nước sẽ mất đi khi những điều kiện tồn tại
của nó khơng cịn. Trong lịch sửđã có một thời kỳ rất dài chưa có nhà nước và
sau này nhà nước cũng mất đi khi điều kiện tồn tại của nó khơng cịn.
<b>1.2.</b> <b>Khái niệm và bản chất của nhà nước </b>
<b>1.2.1.</b> <b>Khái niệm </b>
Lịch sử phát triển của xã hội cho thấy trong xã hội nguyên thủy, dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, mọi người sống bình đẳng, chưa có giai cấp nên chưa có
nhà nước.
Như vậy, nhà nước được hiểu là "hình thức (phương thức) tổ chức xã hội có giai cấp,
là tổ chức quyền lực chính trị cơng cộng đặc biệt, có chức năng quản lý xã hội để
phục vụ lợi ích trước hết cho giai cấp thống trị và thực hiện những hoạt động nảy
sinh từ bản chất của xã hội".
Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là Nhà nước chiếm hữu nơ lệ. Đó là nhà nước xuất
hiện trong cuộc đấu tranh khơng thểđiều hịa được giữa giai cấp chủ nơ và giai cấp
nơ lệ. Tiếp đó là nhà nước phong kiến và nhà nước tư bản chủ nghĩa mà sự xuất hiện
của nó cũng dựa trên mâu thuẫn đối kháng nói trên. Như thếở bất kỳ nơi đâu và lúc
nào khi mà mâu thuẫn giai cấp khơng thểđiều hịa được thì ởđó nhà nước xuất hiện.
Như Lênin đã viết: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai
cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà về mặt
khách quan, những mâu thuẫn giai cấp khơng thểđiều hịa được thì nhà nước sẽ xuất
hiện và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là
khơng thểđiều hịa được”.
<b>1.2.2.</b> <b>Bản chất của nhà nước </b>
Bản chất của nhà nước thể hiện ở hai thuộc tính: Tính giai cấp và tính xã hội.
<b>Tính giai cấp </b>
o Tính giai cấp của nhà nước thể hiện ở chỗ nhà nước là bộ máy đặc biệt do giai
cấp cầm quyền tổ chức nhằm mục đích bảo vệ vị thế và lợi ích của giai cấp
cầm quyền.
o Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và mối tương quan giữa các tầng lớp trong xã
hội trong mỗi nhà nước mà mức độ thể hiện tính giai cấp lại khác nhau…
o Nhà nước xuất hiện và tồn tại một cách khách quan theo quy luật vận động và phát
triển của kinh tế, xã hội. Và nhà nước là tổ chức quyền lực công cộng của tồn xã
hội. Vì vậy, nhà nước có vị trí tựa hồ nhưđứng trên xã hội, đứng trên giai cấp.
o Quyền lực nhà nước là một loại quyền lực đặc biệt, có tổ chức chặt chẽ và có sức
mạnh cưỡng chế. Quyền lực nhà nước bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp
và quyền tư pháp. Quyền lập pháp là quyền ban hành và sửa đổi pháp luật, quyền
hành pháp là quyền thực hiện và áp dụng pháp luật, quyền tư pháp là quyền xét xử.
o Tuy nhiên, tính giai cấp của nhà nước cũng có những biến đổi nhất định bởi nó bị
ảnh hưởng nhiều yếu tố khác nhau trong từng kiểu nhà nước. Do vậy, tính giai
cấp ln là thuộc tính thể hiện bảo chất của nhà nước cần được nhận thức một
cách sâu sắc.
o Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp và là biểu hiện của sự khơng thể
điều hồ được các mâu thuẫn của giai cấp đối kháng. Nhà nước là tổ chức quyền
lực chính trị đặc biệt. Để làm rõ bản chất của nhà nước cần phải xác định nhà
nước đó của ai? Do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo? Phục vụ trước tiên cho lợi
ích của giai cấp nào?
o Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp
khác được thể hiện dưới ba quyền lực: kinh tế, chính trị và tư tưởng.
năng bắt những người khác phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế. Tuy nhiên,
bản thân quyền lực kinh tế lại khơng có khả năng duy trì quan hệ bóc lột, vì
thế để bảo đảm cho quan hệ bóc lột, giai cấp nắm quyền lực kinh tế phải
thơng qua quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị xét về mặt bản chất là bạo lực có tổ chức của một giai cấp
nhằm trấn áp các giai cấp khác trong xã hội. Thông qua nhà nước, giai cấp
thống trị về kinh tế đã trở thành chủ thể của quyền lực chính trị. Nhờ nắm
trong tay nhà nước, giai cấp thống trịđã tổ chức và thực hiện quyền lực chính
trị của mình, hợp pháp hố ý chí của giai cấp mình thành ý chí nhà nước và
như vậy buộc các giai cấp khác phải tuân theo trật tự phù hợp với lợi ích của
giai cấp thống trị. Bằng cách đó giai cấp thống trị đã thực hiện sự chuyên
chính của giai cấp mình đối với các giai cấp khác.
Để thực hiện sự chuyên chính giai cấp, giai cấp thống trị không đơn thuần chỉ
sử dụng bạo lực cưỡng chế mà cịn thơng qua sự tác động về tư tưởng. Chính
vì vậy, khi nắm trong tay quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị, giai cấp
thống trị cịn thông qua nhà nước xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình
thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội, buộc các giai cấp khác phải lệ thuộc
vào mình về mặt tư tưởng.
o Như vậy, nhà nước là công cụ sắc bén thể hiện và thực hiện ý chí của giai cấp
cầm quyền, bảo vệ trước tiên lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.
o Nhà nước, hiểu theo nghĩa pháp luật, là một tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực
chính trịđược giai cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của
mình. Nhà nước vì thế mang bản chất giai cấp. Nhà nước xuất hiện kể từ khi xã
hội loài người bị phân chia thành những lực lượng giai cấp đối kháng nhau; nhà
nước là bộ máy do lực lượng nắm quyền thống trị (kinh tế, chính trị, tư tưởng)
thành lập nên, nhằm mục đích điều khiển, chỉ huy toàn bộ hoạt động của xã hội
trong một quốc gia, trong đó chủ yếu để bảo vệ các quyền lợi của lực lượng thống
trị. Thực chất, nhà nước là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp. Ăngghen đã
nêu rõ: “bản chất của nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy trấn áp của một giai
cấp này đối với một giai cấp khác, điều đó trong chế độ cộng hịa dân chủ cũng
<b>Tính xã hội </b>
o Tính xã hội là một thuộc tính khách quan phổ
biến của nhà nước. Nhà nước ra đời và tồn tại
trong xã hội bao gồm giai cấp thống trị và các
giai cấp, tầng lớp dân cư khác. Bản thân giai
cấp thống trị chỉ có thể tồn tại trong mối quan
hệ với các giai cấp, tầng lớp dân cư khác. Bởi
vậy, nhà nước ngoài tính chất là một cơng cụ
duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị cịn phải là một tổ chức quyền lực cơng. Quyền lực công là phương
thức tổ chức bảo đảm lợi ích chung của xã hội. Nhà nước phải giải quyết những
vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội, bảo đảm trật tự chung cho xã hội ổn định,
tồn tại và phát triển. Do đó, nhà nước không chỉ bảo vệ quyền lợi của giai cấp
thống trị mà còn bảo vệ quyền lợi của giai tầng khác trong xã hội khi mà lợi ích
đó khơng mâu thuẫn căn bản với lợi ích của giai cấp thống trị.
<b>Nghiên cứu tình huống: </b>
<b>Quan điểm của V.I. Lênin về nhà nước </b>
Tư tưởng về nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống lý luận của
Nhất quán với tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, V.I.Lênin tiếp tục khẳng định rằng, nhà
nước là một hiện tượng lịch sử, sự tồn tại và tiêu vong của nó là tùy thuộc vào những điều
kiện cụ thể; “nhà nước chỉ là một tổ chức thống trị của một giai cấp” và “bất cứ nhà nước
nào cũng là một bộ máy để một giai cấp này trấn áp giai cấp khác”.
Đối với V.I.Lênin, khái niệm “nhà nước” là để chỉ bộ máy nhà nước trong xã hội có giai cấp.
Ông viết: “đặc trưng của nhà nước là sự tồn tại của một giai cấp đặc biệt, tập trung quyền
lực trong tay. Dĩ nhiên, khơng ai có thể dùng hai tiếng nhà nước để gọi một cộng đồng,
trong đó tất cả mọi thành viên đều thay phiên nhau quản lý “tổ chức của trật tự’”. Chính sự
tập trung quyền lực chính trị trong tay một giai cấp đặc biệt là đặc trưng để phân biệt nhà
nước với mọi hình thức tổ chức xã hội khác. V.I.Lênin vạch rõ: “Nếu quyền lực chính trị
trong nước nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi phù hợp với quyền lợi của đa số, thì
mới có thể thực hiện việc điều khiển công việc quốc gia thực sự theo đúng nguyện vọng
của đa số. Nhưng nếu quyền lực chính trị nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi khác với
quyền lợi của đa số, thì việc điều khiển cơng việc quốc gia theo nguyện vọng của đa số