Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.96 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Trong suốt q trình hoạt động lý luận và thực tiễn chỉ đạo cách
mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác lập và hiện thực
hoá hệ thống quan điểm về dân chủ trong tổ chức xây dựng xã
hội mới trên tất cả các lĩnh vực. Tư tưởng của Người về dân chủ
trong chính trị đã trở thành một bộ phận văn hoá của dân tộc
Việt Nam. Người xứng đáng với danh hiệu “Nhà thực hành dân
chủ vĩ đại của thế kỷ XX”. Khi nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ trong chính trị, cho thấy nổi lên những nội
dung lớn sau:
Một là. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị xuất
phát từ truyền thống văn hoá dân tộc, được kết tinh qua hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước; là sự kết hợp những tinh hoa
biệt là lý tưởng giải phóng dân tộc gắn với giải phóng xã hội,
giải phóng con người của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hai là. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị được
thể hiện ở việc khẳng định quyền lực của nhân dân trong hiến
pháp và pháp luật; đảm bảo tổ chức nhà nước dân chủ của dân,
do dân và vì dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ,
địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(1). Quan niệm địa vị cao
nhất là dân được Hồ Chí Minh giải thích rất ngắn gọn “dân là
chủ”, mọi quyền hành và lực lượng là của nhân dân, mọi công
việc đều do dân và do đó thành quả của nền dân chủ mới thuộc
về đại đa số quần chúng nhân dân chứ khơng phải của bất cứ
một số ít dân cư nào. Trong Chương trình hành động của Mặt
trận Việt Minh, Hồ Chí Minh đã đưa ra những nội dung cơ bản
về chế độ dân chủ cộng hoà cho nước ta sau khi giành chính
Minh và Đảng ta đã thức tỉnh quần chúng nhân dân làm nên
thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám.
Vấn đề làm chủ của nhân dân, của các giai tầng trong xã hội
được pháp điển hoá trong các bản Hiến pháp (1946 và 1959).
Hiến pháp năm 1946 bảo đảm “Quyền tư hữu tài sản của công
dân Việt Nam” (Điều 12), “Quyền lợi các giới cần lao trí thức
và chân tay” (Điều 13). Hiến pháp năm 1946 còn tuyên bố:
“Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà” (Điều 22), Ban Thường vụ Nghị viện
có quyền “kiểm sốt và phê bình Chính phủ” (Điều 36)…
Quan điểm “quyền lực thuộc về nhân dân” còn được Hồ Chí
Minh nói rõ trong bản Hiến pháp năm 1959. Điều 6 của bản
Hiến pháp này nêu rõ: “Tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa
vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả nhân viên nhà nước đều
phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng hiến pháp dân
chủ, xác định quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn là
những quan điểm căn bản cho việc xây dựng hệ thống chính trị
dân chủ ở nước ta, thể hiện qua việc xây dựng Nhà nước dân
chủ của dân, do dân và vì dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân là nhà nước
trong đó dân là chủ; dân là người có địa vị cao nhất, có quyền
quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước, dân tộc.
Người khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của tồn
thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo”(2).
Nhà nước do dân nghĩa là dân làm chủ nhà nước, nhà nước phải
tin dân và dựa vào dân. Nội dung quyền làm chủ nhà nước của
dân được thể hiện: Nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan
nhà nước từ trung ương đến địa phương thông qua thực hiện chế
độ tổng tuyển cử phổ thông. Nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử,
đồng thời có quyền thực hiện chế độ bãi miễn. Người viết: “Nếu
phủ”(3). Dân phải có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp trí tuệ, sức
người, sức của để tổ chức, xây dựng, bảo vệ và phát triển nhà
nước. Đồng thời, nhân dân có quyền tham gia vào cơng việc
quản lý nhà nước, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra.
Nhà nước vì dân, theo Hồ Chí Minh, là nhà nước phục vụ nhân
dân, đem lại lợi ích cho nhân dân. Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo một mục tiêu cao nhất là không ngừng cải thiện
và nâng cao đời sống của nhân dân đúng với phương châm
“Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì hại đến dân
phải hết sức tránh”. Nhà nước phải chăm lo mọi mặt đời sống
của nhân dân, thoả mãn các nhu cầu thiết yếu nhất: làm cho dân
có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân
được học hành, làm cho dân có điều kiện khám chữa bệnh, chăm
sóc sức khoẻ…
Bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí
Minh được Đại hội X xác định rất rõ: “Nhà nước là đại diện
pháp và tư pháp; hoàn thiện hệ thống, xây dựng và hoàn thiện cơ
chế kiểm tra, giám sát trong các hoạt động và quyết định của các
cơ quan công quyền.
Bốn là. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị có giá
trị lý luận và thực tiễn vô cùng sâu sắc đối với cách mạng Việt
Nam qua các thời kỳ. Quán triệt những nội dung của tư tưởng
dân chủ Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực tiễn
lãnh đạo cách mạng đã kế thừa, vận dụng và không ngừng phát
triển sáng tạo tư tưởng của Người nhằm mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đưa đất nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu xuyên suốt, mục tiêu
cao cả và là điểm tựa về đường lối, chủ trương, chính sách để
đồn kết tồn dân thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước. Thực hiện mục tiêu xun suốt đó
cũng chính là vận dụng và phát triển những kiến giải sáng tạo
1. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2000, t. 6, tr. 515.
2. Sđd, t. 7, tr. 218.
3. Sđd, t. 5, tr. 60.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 44.
Nguyễn Văn QuangKhoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại học