Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bài giảng Bảo hiểm thương mại - Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại - Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Tp. Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.04 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại


<b>BÀI 1 </b>

<b>TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI </b>



<b>Hướng dẫn học</b>


Để học tốt bài này,sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:


 Học đúng lịch trình của mơn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.


 Đọc tài liệu: Giáo trình Bảo hiểm, PGS. TS. Nguyễn Văn Định chủ biên, NXB Đại
học KTQD.


 Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua
email.


 Trang Web môn học.


<b>Nội dung </b>


Bài 1 trình bày các vấn đề có tính ngun lý về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm thương
mại nói riêng. Đây là bài dẫn nhập, trình bày các khái niệm và nguyên tắc cơ bản, quan
trọng trong bảo hiểm thương mại để hỗ trợ cho nghiên cứu, tìm hiểu các nghiệp vụ bảo
hiểm thương mại cụ thểở bài tiếp theo. Trong bài sẽ tập trung vào:


 Nguồn gốc của bảo hiểm thương mại;


 Khái niệm và bản chất của bảo hiểm thương mại;


 Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động bảo hiểm thương mại;


 Các loại bảo hiểm thương mại;


 Giới thiệu về ngành kinh doanh bảo hiểm.


<b>Mục tiêu </b>


Sau khi học xong bài này, sinh viên cần:


 Hiểu được khái niệm về rủi ro và các loại rủi ro;


 Nắm vững các biện pháp xử lý rủi ro của các cá nhân và tổ chức trong xã hội;
 Hiểu được khái niệm và bản chất của bảo hiểm, bảo hiểm thương mại;


 Hiểu và biết vận dụng các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm thương mại;
 Nắm vững cách phân loại bảo hiểm thương mại theo các tiêu thức khác nhau;


 Hiểu rõ các đặc điểm cơ bản trong bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, và
bảo hiểm con người;


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại


<b>T</b>

<b>ình huống dẫn nhập </b>



<b>Bảo hiểm tình yêu? </b>


Dưới đây là các thơng tin trích xuất từ một bài báo trên <i><b>VnExpress.net</b></i> năm 2009 viết về<b>Dịch </b>
<b>vụ bảo hiểm tình yêu</b> của Công ty Marketting Mặt trời Việt – Sunvico:


Một số cựu sinh viên thế hệ 8X của Đại học Kinh tế Quốc dân đã đưa ra một ý tưởng táo bạo là
cung cấp "Dịch vụ bảo hiểm tình u":



 Khơng giống như các loại hình dịch vụ bảo hiểm rủi ro khác, "bảo hiểm tình yêu" không phải
là dịch vụ bồi thường cho các thành viên tham gia mà chỉ là nơi tiếp nhận tình cảm và nâng
niu giá trịcảm xúc cho các cặp tình nhân.


 Để tham gia dịch vụ bảo hiểm tình u, điều kiện đầu tiên là phải có người yêu. Phí cho dịch
vụ này vào khoảng 600.000 đồng đến 3 triệu đồng, tùy theo mức độ chắc chắn của tình cảm.
Người tham gia phải cung cấp đầy đủ các thông tin cơ bản như tên, tuổi, ảnh (riêng và chung
của hai người), địa chỉ, email, điện thoại... Ba gói dịch vụ tương ứng với giá trị và độ bền
chắc của tình yêu là 600.000 đồng, 1,2 triệu đồng và 3 triệu đồng. Mức phí chỉđóng một lần
và duy nhất vào thời điểm ký hợp đồng.


 Trong một năm sẽ có một buổi để các đơi nhìn nhận, đánh giá lại tình cảm của mình. Các đơi
u nhau sẽđược:


 Chăm sóc vào những ngày đặc biệt trong năm bằng thiệp mừng, hoa hồng. Áo đôi cho
ngày sinh nhật, chocolate và hoa hồng cho ngày Valentine;


 Tham gia các bữa tiệc kỷ niệm ngày tình yêu;


 Một chuyến du lịch hàng năm (trong nước hoặc nước ngoài) tương ứng với giá trị gói
hợp đồng...


Các dịch vụ chăm sóc này chỉ được dừng lại khi hai người yêu nhau tay trong tay đến nhận quà
tại công ty vào những ngày đặc biệt hoặc đã cưới nhau.


Đã có trên 50 cặp tình nhân đăng ký sử dụng dịch vụ bảo hiểm tình yêu của Sunvico với đủ mọi
lứa tuổi từ học sinh, sinh viên đến những người ra trường đi làm ởđộ tuổi 25 – 28.


<i> </i>


<i>dich–vu–bao–hiem–tinh–yeu–2697386.html 28/3/2009 </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại


<b>1.1. Nguồn gốc của bảo hiểm thương mại </b>
<b>1.1.1. Rủi ro và biện pháp xử lý rủi ro </b>


<b>1.1.1.1. Khái niệm và phân loại rủi ro </b>
<b>Khái niệm rủi ro </b>


Môi trường hoạt động và tồn tại của chúng ta luôn ẩn
chứa các biến cố, các sự kiện nằm ngoài dự kiến. Có
những sự kiện ngồi dự kiến mang lại những tốt đẹp,
thuận lợi cho cuộc sống con người. Tuy nhiên, có
khơng ít biến cố mà khơng ai mong muốn vì kết cục
đi kèm là các thiệt hại hay thương tổn mà con người
phải gánh chịu. Hiểu theo cách thông thường, các


biến cố không mong đợi đó được gọi là rủi ro. Dù mức độ thiệt hại gánh chịu nặng
hay nhẹ, nhưng nhìn chung rủi ro thường khiến cho chúng ta lâm vào hoàn cảnh khó
khăn hơn so với khi khơng có rủi ro.


Khi nghiên cứu về rủi ro, trong từng hoàn cảnh, từ các góc độ khác nhau, rủi ro có thể
được diễn đạt cụ thể khác nhau.Chẳng hạn:


 Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất;


 Rủi ro là một giá trị dự tính về một kết cục;
 Rủi ro là sự kết hợp các nguy cơ; hay



 Rủi ro là sự biến động xảy ra quanh một giá trịđã dự tính.


Có thể thấy có 2 quan điểm. Quan điểm thứ nhất coi rủi ro là sự kiện bất lợi, gắn với
việc có tổn thất. Quan điểm thứ hai hiểu rủi ro rộng hơn một chút, coi rủi ro sự chệch
ra khỏi kết quả dự kiến nào đó. Nếu hiểu rủi ro theo quan điểm thứ hai này thì “rủi ro”
không chỉ là mang lại kết cục bất lợi mà “giá trị thực tế chệch ra khỏi giá trị dự kiến
(hay kỳ vọng)” cũng có thể là tích cực. Theo các nhà bảo hiểm, <i><b>r</b><b>ủ</b><b>i ro </b>là sự cố không </i>
<i>may bất ngờ xảy ra gây thiệt hại về người hoặc tài sản.</i>


Đặc điểm liên hệ rõ ràng nhất giữa các định nghĩa về rủi ro mà chúng ta vừa nhắc tới
là <i>sự không chắc chắn</i>, hay cịn gọi là <i>tính bất định</i>, của một biến cố nào đó.


 <i>Khơng chắc chắn về khả năng xảy ra rủi ro</i>. Khả năng xảy ra một rủi ro nào đó
được đo lường qua xác suất của nó. Khả năng một ngơi nhà nằm cạnh một xưởng
hóa chất bị cháy sẽ là một xác suất nào đó nằm từ 0 đến 1, tức là nằm trong dải từ
“không cháy” đến “cháy”.


 <i>Không chắc chắn về thời điểm xảy ra rủi ro</i>. Chẳng hạn, không thể chắc chắn được
chiếc ô tô để trong một khu sân vào ban đêm khơng có người trơng coi có bị mất
hay không và vào lúc nào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại


mức độ nghiêm trọng của tổn thất thì rất lớn và ngược lại, có những rủi ro có tần
suất cao nhưng mức độ nghiêm trọng lại không lớn.


<b>Hình 1.1: Sự kết hợp giữa tần suất và tính khốc liệt của rủi ro </b>


Phân biệt rủi ro, nguy cơ, hiểm họa để làm rõ khái niệm rủi ro:



 <b>Rủi ro</b> là từ chung để chỉ một biến cố gây ra tổn thất. Ví dụ, một ngơi nhà nằm
cạnh một xưởng hóa chất bị cháy và gây tổn thất cho chủ ngôi nhà.


 <b>Hiểm họa</b> (peril) là nguyên nhân chính gây tổn thất. Ở đây, “cháy” được coi là
hiểm họa.


 <b>Nguy cơ</b> (hazard) là (tập hợp) nhân tố ảnh hưởng đến tổn thất hậu quả. Bản thân
nguy cơ không phải là nguyên nhân gây tổn thất nhưng có thể làm tăng hoặc giảm
khả năng tổn thất khi hiểm họa xảy ra. Việc “nằm cạnh xưởng hóa chất” là một
nguy cơ gây ra rủi ro cháy xưởng hóa chất. Nguy cơ thường có nguy cơ vật chất và
nguy cơđạo đức. Chẳng hạn, nguy cơđối với một tổn thất do cháy nhà có thể liên
quan đến kết cấu ngơi nhà (nguy cơ vật chất), nhưng cũng có thể là nguy cơ liên
quan đến ý thức trách nhiệm của chủ nhà trong việc lắp hệ thống phun nước tự
động phòng chống cháy (nguy cơđạo đức).


<b>Phân loại rủi ro </b>


 Căn cứ vào vào khả năng kiếm lời trong kết cục của rủi ro: <i>rủi ro thuần và rủi ro </i>
<i>đầu cơ1</i>


o Rủi ro thuần túy chỉ liên quan đến hoặc có tổn thất hoặc khơng bị tổn thất. Ví


dụ một người nào đó có thể bị tàn tật, và vì thế người đó có thể phải bỏ ra các
khoản chi phí y tế phát sinh và chịu các tổn thất về thu nhập do không thể làm
việc được nữa. Ngược lại, nếu khơng bị tàn tật thì sẽ khơng bị tổn thất do rủi ro
đó gây ra.


o Rủi ro đầu cơ liên quan đến 3 kết cục có thể xảy ra: tổn thất, có lãi hoặc khơng


thay đổi. Ví dụ: rủi ro từ việc mua cổ phiếu là rủi ro đầu cơ. Ở đây, rủi ro đầu


cơ vì người mua cổ phiếu có thể lời, lỗ hoặc khơng bị mất tiền nhưng cũng
chẳng kiếm được khoản lời nào từ việc mua cổ phiếu đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại


 Căn cứ vào việc đo lường hậu quả của rủi ro: <i>rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính</i>


o Rủi ro tài chính là rủi ro mà có thể xác định hậu quả bằng tiền hoặc quy được


thành tiền.


o Rủi ro phi tài chính là những rủi ro mà kết cục/hậu quả không đo lường theo


thước đo tài chính mà theo các tiêu chí liên quan đến tâm sinh lý con người.
Chẳng hạn, việc vào ăn một nhà hàng mới khai trương được coi là tình huống
có yếu tố rủi ro. Và rủi ro ở đây là cảm giác bực bội khó chịu về phong cách
phục vụ của một nhà hàng mới chưa chuyên nghiệp mà nhẽ ra có được nếu
trước đó đi vào một nhà hàng ngon quen thuộc.


 Căn cứ vào cả nguyên nhân và hậu quả của rủi ro: <i>rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt</i>


o Rủi ro cơ bản là những rủi ro phát sinh từ


những ngun nhân nằm ngồi tầm kiểm
sốt của con người và gây ảnh hưởng đến số
đơng người. Nhìn chung, nguyên nhân dẫn
đến các rủi ro cơ bản thường do thiên nhiên.
Ví dụ như, động đất, hạn hán, bão lụt,…Một
số loại rủi ro cơ bản do các biến động trong



mơi trường kinh tế – chính trị – xã hội. Ví dụ như thất nghiệp,…


o Rủi ro riêng biệt có nguyên nhân và hậu quả mang tính cá nhân của một người


hay một tổ chức. Trong một cộng đồng hẹp, rủi ro riêng biệt có thể xảy ra đối
với người này mà khơng xảy ra với người kia. Các rủi ro như tai nạn giao
thông hay tai nạn lao động là những ví dụđiển hình về rủi ro riêng biệt.


<b>1.1.1.2. Các biện pháp xử lý rủi ro </b>


Rủi ro có thể xảy ra với bất kỳ ai, bất kỳđâu và bất kỳ lúc nào. Cuộc sống con người
luôn đối mặt với các biến cố bất ngờ gây tổn thất khôn lường và nhiều mặt. Các tổn
thất có thể là những mất mát, thiệt hại về tài chính như nhà cửa bị phá hủy; tài sản bị
mất; phải bỏ ra một khoản tiền ngồi dự tính để trang trải cho các chi phí y tế do ốm
đau, tai nạn; hoặc đơn giản là một khoản tiền buộc phải bỏ ra để đền bù tổn thất của
người khác do lỗi của mình gây nên. Các tổn thất có lúc không thể đong đếm được
bằng tiền nhưng gây ra rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Đó là các tổn thất về tinh
thần, tổn thất về mặt xã hội như sự chia lìa tình cảm gia đình, đơi lứa; những mất mát
về niềm tin;… Bởi vậy, tìm ra các biện pháp để đối phó với rủi ro, hay bao trùm hơn
là để xử lý các rủi ro luôn được đặt ra trong bất kỳ xã hội nào. Đối với các doanh
nghiệp, trong một nền kinh tế thị trường và có tính tồn cầu, nhận thức và xác định
các biện pháp quản lý rủi ro thích hợp là yếu tố then chốt để quản lý vốn một cách có
hiệu quả và đạt được thành công.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại


(ví dụ như như chấp nhận rủi ro và bảo hiểm). Tuy nhiên, cách phân loại này cũng có
tính tương đối. Vì thực tế, trong biện pháp bảo hiểm, các biện pháp đề phòng hạn chế
rủi ro tổn thất luôn được thực hiện lồng ghép để biện pháp bảo hiểm có hiệu quả hơn.
Một cách phân loại khác là dựa vào phương thức thực hiện biện pháp xử lý rủi ro, theo


đó có các biện pháp không thực hiện chuyển giao rủi ro, ví dụ như tiết kiệm, né tránh
rủi ro, đề phịng hạn chế tổn thất; và có các biện pháp thực hiện qua cơ chế chuyển
giao rủi ro như bảo hiểm, ….


<b>Tránh né rủi ro </b>


Là biện pháp nhằm <i>loại trừ các cơ hội có thể dẫn đến </i>
<i>tổn thất, không tham gia vào các hoạt động có thể gây </i>
<i>ra tổn thất</i>. Chẳng hạn, để tránh dịch bệnh đậu mùa, rất
nhiều người lựa chọn bỏ quê hương bản quán để đến
vùng khác, tránh dịch bệnh có thể lây sang mình.
Tuy nhiên, rủi ro xảy ra nhiều khi không do hoạt động
của chính bản thân con người mà do tác động ngẫu
nhiên bên ngồi, và trong cuộc sống khơng phải bao
giờ cũng né tránh được rủi ro. Hơn thế nữa, nhiều hoạt
động trong đời sống có rủi ro nhưng cũng gắn liền với
các lợi ích. Do đó, né tránh rủi ro bằng cách không
tham gia vào hoạt động đó khơng phải là lựa chọn
mong muốn.


<b>Đề phòng hạn chế tổn thất </b>


Đề phòng hạn chế tổn thất là sự kết hợp hai hoạt động gồm là phòng ngừa rủi ro và
giảm thiểu tổn thất.


 <b>Phòng ngừa rủi ro</b> là biện pháp đưa ra các hành động nhằm làm <i>giảm tần suất</i>


xảy ra rủi ro gây tổn thất hoặc trong chừng mực có thể, nhằm triệt tiêu khả năng
xảy ra rủi ro. Ví dụ như trang bị và diễn tập phòng cháy chữa cháy, tập dượt cứu
hộ, dựng các biển báo nguy hiểm, tổ chức các khố học về an tồn lao động, tun


truyền an tồn giao thơng,...


 <b>Giảm thiểu tổn thất</b>là biện pháp kiểm soát tổn thất bằng cách làm giảm/hạn chế
giá trị thiệt hại nếu rủi ro xảy ra, nói cách khác là nhằm <i>giảm mức độ thiệt hại</i> có
thể phải gánh chịu (tính khốc liệt). Chẳng hạn, các biện pháp cứu các tài sản cịn
có giá trị khi có hoả hoạn xảy ra; đưa ngay những người bị thương đến nơi cấp cứu
và điều trị; lắp thêm các túi khí trong ơ tơ;...


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại


Có thể thấy, các biện pháp kiểm sốt rủi ro mang tính chủđộng và có tác động rất tốt
trong việc ngăn chặn hoặc giảm thiểu rủi ro tổn thất. Nhưng thực tế, rủi ro vẫn luôn
xảy ra dù đã thực hiện các biện pháp né tránh hay phòng ngừa. Và khi rủi ro đã xảy ra,
con người vẫn không thể lường hết được hậu quả do rủi ro gây ra. Một vấn đề nữa
được đặt ra ởđây là cần phải chi bao nhiêu cho việc thực hiện các biện pháp đề phòng
hạn chế tổn thất. Đối với một số rủi ro, khoản chi này là khơng nhiều so với lợi ích
đáng kể từ việc giảm thiểu được khả năng tổn thất. Nhưng đơi khi, chi phí cho việc
thực hiện các hoạt động này khơng nằm trong khả năng tài chính của một người hay
một doanh nghiệp. Lúc này việc bỏ ra một khoản tiền đểđề phòng hạn chế tổn thất có
thể xảy ra lại khơng phải là một quyết định đúng đắn.


<b>Chấp nhận rủi ro </b>


Chấp nhận rủi ro còn được gọi là giữ lại rủi ro.


 <b>Chấp nhận rủi ro thụ</b> <b>động</b> là cách quản lý rủi ro gắn liền với thái độ khơng có
sự chuẩn bị trước hoặc chuẩn bị khơng đầy đủ cho việc khắc phục hậu quả rủi ro.
Nhìn chung, thái độ này có thể là do chủ thể gặp rủi ro có nhận thức rất hạn chế về
rủi ro và quản trị rủi ro; hoặc có thể do khả năng tài chính khơng đủ để thực hiện
các biện pháp khác tốt hơn. Chấp nhận rủi ro thụ động thường thể hiện qua việc


tham gia cách có ý thức vào một hoạt động nhưng khơng nhận thức được hoạt
động đó có thể gặp rủi ro; hoặc tin tưởng một cách thiếu hiểu biết là hoạt động đó
khơng có rủi ro; hoặc đơi khi có nhận thức được rủi ro từ hoạt động nhưng lại đánh
giá quá thấp mức độ tổn thất có thểđối mặt.


<b>Ví dụ:</b> Cơng ty dược phẩm A sản xuất ra một
loại thuốc và cũng nhận thấy rằng họ có thể đối
mặt với rủi ro phải bồi thường cho những bệnh
nhân dùng loại thuốc này do tác dụng phụ quá
mức so với cảnh báo. Tuy nhiên, họ lại đánh giá
là số trường hợp khiếu kiện trách nhiệm sẽ
khơng nhiều và dự tính mức tổn thất phải bồi


thường cho những bệnh nhân khiếu kiện là khơng đáng kể. Do đó, khi mua bảo
hiểm trách nhiệm sản phẩm họ chỉ mua với mức phí tương ứng với mức tổn thất
trách nhiệm mà họ dự tính phải đền bù. Khi xảy ra khiếu kiện về trách nhiệm sản
phẩm, mức phán quyết bồi thường của tòa án lớn hơn nhiều so với mức mà công ty
dược phẩm này đánh giá. Công ty bảo hiểm chỉđảm nhận bồi thường tương ứng
với phần tổn thất trách nhiệm mà công ty dược này đã ước tính và mua bảo hiểm.
Cịn phần vượt q chính là phần rủi ro mà họ giữ lại một cách thụđộng vì khơng
chuẩn bị ngân quỹđể bổi thường cho các tổn thất trách nhiệm vượt quá này.
Khi chấp nhận rủi ro thụđộng, cách tài trợ tổn thất thường thấy là dựa vào cứu trợ,
giúp đỡ tài chính hoặc đi vay mượn. Đối với các doanh nghiệp, đơi khi họ lấy từ
chính doanh thu hiện tại để bù đắp cho tổn thất giữ lại thụđộng và sẽ làm giảm lợi
nhuận trong năm có tổn thất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại


chí để hạn chế được các tổn thất có thể phát sinh thêm. Song, việc đi vay mượn
hay chờ nhận cứu trợ khó có thể đáp ứng được điều này. Hơn thế nữa, các khoản


tiền đi vay mượn hay nhận được từ cứu trợ trong nhiều trường hợp không thể trang
trải, bù đắp được cho tổn thất phải gánh chịu. Bởi vì, vay mượn, theo một cách nào
đó được coi là chuyển giao rủi ro từ một người sang một người khác hoặc sang
một nhóm nhỏ chưa đủ đảm bảo số lớn. Cịn cứu trợ chỉ là nguồn tài chính được
huy động dựa vào sự hảo tâm của người khác nên khoản tiền có được có đủ bù đắp
tổn thất mà một người phải gánh chịu hay không là không chắc chắn.


 <b>Chấp nhận rủi ro chủ</b> <b>động</b> là trường hợp nhận thức được rủi ro có thể xảy ra
nhưng chấp nhận tham gia vào hoạt động, môi trường có thể gặp rủi ro và có kế
hoạch khắc phục hậu quả khi tổn thất xảy ra. Các biện pháp chấp nhận rủi ro một
cách chủđộng có thể kểđến là tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình; lập quỹ dự trữ
dự phòng của các tổ chức, các doanh nghiệp; lập công ty bảo hiểm nội bộ; tự bảo
hiểm; lập hội chung để cùng gánh chịu rủi ro. Các biện pháp này được đánh giá
cao hơn nhiều so với chấp nhận rủi ro thụ động. Tuy nhiên, khi sử dụng các biện
pháp này, nguồn vốn bị coi là không được sử dụng một cách tối ưu; các quĩ tự lập
có thể khơng đảm bảo đủđể bù đắp thiệt hại có thể phải gánh chịu.


<b>Chuyển giao rủi ro không qua bảo hiểm </b>


Sự hình thành của các cơng cụ tài chính phái sinh
đã cung cấp cho nền kinh tế thêm các biện pháp để
quản lý rủi ro, về cơ bản thường có: các hợp đồng
giao sau, các hoán đổi lãi suất, và các quyền chọn.
Các cơng cụ tài chính phái sinh là biện pháp chuyển
giao rủi ro phi bảo hiểm, được dùng để đầu tư tự


bảo vệ (hedging) trước các rủi ro liên quan đến các thay đổi bất lợi có thể có về giá
một mặt hàng nào đấy. Thường những doanh nghiệp hay cá nhân có các giao dịch
thương mại có thể lo ngại có những biến động giá liên quan đến mặt hàng mà họ
muốn mua/bán vào một thời điểm nào đó trong tương lai. Những người này cần sử


dụng các công cụ phái sinh để chốt mức giá mà họ mong muốn và tin là tốt nhất cho
việc mua/bán của họ so với mức giá trên thị trường hàng hóa đó trong tương lai. Tuy
nhiên, các biện pháp này chỉ phù hợp ở những thị trường tài chính phát triển.


Ví dụ, về việc chuyển giao rủi ro bằng một hợp đồng giao sau (là các thỏa thuận buộc
người chủ hợp đồng này phải mua hay bán tài sản ở mức giá cụ thể vào một thời điểm
cụ thể trong tương lai): Vào đầu năm, một người nông dân bán lúa theo một hợp đồng
giao sau với mức giá chốt là 5,2 triệu đồng/tấn vì sợ rằng thời gian tới giá lúa có thể
giảm. Hợp đồng này thỏa thuận sẽ giao bán lúa vào khoảng tháng 9 cho một công ty
nông sản. Nếu vào tháng 9, giá lúa thực tế trên thị trường là 4,8 triệu đồng/tấn thì
hợp đồng mua bán nơng sản này vẫn thực hiện với mức giá là 5,2 triệu đồng/tấn. Như
vậy, với hợp đồng giao sau, người nông dân này đã chuyển rủi ro qua cho công ty
nông sản.


<b>Bảo hiểm </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại


<i>chế) qua đó</i> <i>nhiều người có mong muốn nhu cầu được bảo vệ trước cùng một rủi ro, </i>
<i>một nguy cơ nào đó đã đóng góp lập nên một quỹ chung để từ quỹ chung này bù đắp </i>
<i>tổn thất do rủi ro gây ra cho một hoặc một số ít thành viên trong cộng đồng những </i>
<i>người đã đóng góp</i>. Theo cơ chế này, tổn thất của một hoặc một số thành viên đã được
dàn mỏng cho sốđông tất cả các thành viên trong cộng đồng. Như vậy, dựa trên cơ sở
số lớn, rủi ro đã được chuyển giao và phân tán, việc gánh chịu thiệt hại đối với một
hoặc một vài cá nhân trở nên dễ dàng hơn, việc khắc phục hậu quả tổn thất do rủi ro
gây ra bởi vậy cũng nhanh chóng và tốt hơn.


Đặc điểm (kỹ thuật) phân tán rủi ro cho số đông người cùng gánh chịu làm cho bảo
hiểm thể hiện được tính ưu việt nổi trội hơn so với các biện pháp quản lý rủi ro khác
đã bàn luận ở trên. Thêm vào đó, thực tiễn cho thấy các tổ chức bảo hiểm luôn thực


hiện lồng ghép cả biện pháp đề phịng hạn chế rủi ro trong q trình cung cấp dịch vụ
bảo hiểm cho các cá nhân và tổ chức khác trong nền kinh tế. Lúc này, đề phòng hạn
chế rủi ro tổn thất vừa mang tính khuyến khích vừa mang tính bắt buộc đối với những
người tham gia bảo hiểm, giúp cho các tổ chức bảo hiểm quản lý rủi ro mà họđã nhận
bảo hiểm một cách có hiệu quả hơn. (Xem thêm vai trị đề phòng hạn chế rủi ro của
bảo hiểm ở Chương 1). Lợi ích “hai trong một” này của bảo hiểm càng làm rõ thêm vị
trí và tầm quan trọng của bảo hiểm trong đời sống kinh tế xã hội. Cho đến nay, bảo
hiểm vẫn luôn được coi là lựa chọn tối ưu trong tập hợp các biện pháp quản lý rủi ro
đối với các cá nhân, các tổ chức trong nền kinh tế.


Lĩnh vực bảo hiểm trong nền kinh tế bao gồm hai lĩnh vực (mảng) nhỏ, đó là bảo hiểm
xã hội (BHXH) và bảo hiểm thương mại (BHTM). Phân biệt một cách đơn giản,
BHXH là bảo hiểm do nhà nước cung cấp, nhằm bảo vệ cho người lao động và gia
đình họ trước các biến cố gây mất/giảm thu nhập theo lao động. Các biến cố này là
thất nghiệp, ốm đau, thai sản, tuổi già, tử vong, tàn tật, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp,… Trong khi đó, BHTM là các hoạt động bảo hiểm do các doanh nghiệp thực
hiện, theo cơ chế thị trường, cung cấp sự bảo đảm bồi thường hay chi trả một khoản
tiền nhằm khắc phục, ổn định tài chính cho các cá nhân và tổ chức có nhu cầu được
bảo vệ trong xã hội.


<b>1.1.2. Bản chất và vai trò của bảo hiểm thương mại </b>
<b>1.1.2.1. Khái niệm và bản chất của bảo hiểm thương mại </b>


Có thể tiếp cận khái niệm BHTM từ nhiều góc độ
khác nhau dựa trên khái niệm về bảo hiểm. Tuy
vậy, để nhìn nhận BHTM đúng như một hoạt động
kinh doanh gắn với việc lựa chọn quản lý rủi ro của
các cá nhân và tổ chức trong xã hội, chúng ta có thể
hiểu <i><b>b</b><b>ả</b><b>o hi</b><b>ể</b><b>m th</b><b>ươ</b><b>ng m</b><b>ạ</b><b>i</b></i> <i>là hoạt </i> <i>động theo </i>
<i>nguyên tắc số đơng bù số ít qua đó người bảo hiểm </i>


<i>cam kết bồi thường/chi trả bảo hiểm cho bên được </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại


Theo cách hiểu này, BHTM là một cam kết giữa hai bên trên cơ sở hợp đồng (hợp
đồng bảo hiểm) giữa bên bảo hiểm và bên được bảo hiểm. Bên bảo hiểm (hay còn gọi
là người bảo hiểm) có thể là một DNBH hoặc một hội tương hỗ bảo hiểm – là người
cung cấp sự bảo đảm sẽ chi trả/ bồi thường nếu sự kiện (hay rủi ro) được bảo hiểm
xảy ra gây tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm. Bên được bảo hiểm là bên nhận được
sự bảo đảm từ người bảo hiểm và đổi lại phải đóng phí bảo hiểm. Đây là một khái
niệm chung để chỉđối tác của người bảo hiểm trong cam kết bảo hiểm. Thực chất, sẽ
có ba chủ thể hiện diện khi nói đến bên được bảo hiểm, đó là người tham gia bảo
hiểm, người được bảo hiểm và người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm.


 Người tham gia bảo hiểm là tổ chức hoặc cá nhân tham gia ký kết hợp đồng bảo
hiểm với người bảo hiểm, chịu trách nhiệm khai báo rủi ro và đóng phí bảo hiểm.
 Người được bảo hiểm là tổ chức hoặc cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, hoặc


tính mạng, tình trạng sức khỏe được bảo đảm trong hợp đồng bảo hiểm.


 Người thụ hưởng (quyền lợi bảo hiểm) là tổ chức hoặc cá nhân được chỉ định
trong hợp đồng bảo hiểm sẽ được nhận tiền bồi thường/chi trả từ người bảo hiểm
khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.


Cam kết bảo hiểm được thực hiện dựa trên ngun
tắc sốđơng bù số ít, nghĩa là việc bồi thường/chi trả
của người bảo hiểm phải dựa vào một quỹ tài chính
được hình thành từ các khoản phí bảo hiểm đã được
nộp (quỹ bảo hiểm) bởi rất nhiều người tham gia
bảo hiểm.



Bản chất kinh tế của BHTM là quá trình phân phối


lại thu nhập giữa những người tham gia bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính
phát sinh khi tai nạn, rủi ro bất ngờ xảy ra gây tổn thất đối với người được bảo hiểm.
Phân phối thu nhập trong BHTM thường là phân phối khơng mang tính bồi hồn. Dù
có tham gia đóng góp nhưng nếu không thoả mãn các điều kiện để được bồi thường
hay chi trả thì sẽ hoạt động phân phối khơng diễn ra (khơng có sự bồi hồn đối với các
khoản đã đóng góp). Tuy vậy, vẫn có ngoại lệ với các bảo hiểm nhân thọ mang tính
tiết kiệm.


<b>1.1.2.2. Vai trò của bảo hiểm thương mại </b>


Sự ra đời và phát triển của BHTM ngày càng cho thấy rõ vai trị kinh tế xã hội
vơ cùng to lớn mà hoạt động này mang lại cho mỗi cá nhân, mỗi tổ chức và cho toàn
xã hội.


 Góp phần ổn định tài chính cho người tham gia bảo hiểm, từđó ổn dịnh đời sống
và hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc bồi thường chi trảđúng lúc, đúng mức cho
bên được bảo hiểm khi không may gặp rủi ro đã giúp cho họ khắc phục được hậu
quả rủi ro một cách nhanh chóng và hiệu quả. Bồi thường/chi trả bảo hiểm giúp
cho bên được bảo hiểm có thể bảo tồn vốn và tiếp tục hoạt động sản xuất kinh
doanh; giúp người được bảo hiểm hồi phục sức khoẻ và khả năng lao động; …
 Góp phần đề phịng, hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống con người an toàn hơn,


</div>

<!--links-->

×