Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học theo tinh thần Nghị quyết Trung Ương 8 khoá XI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.81 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

TẠP CHÍ ĐẠI HỌC SÀI GỊN Số 19 - Tháng 2/2014

<b>ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TỒN DIỆN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC </b>


<b>THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 8 KHỐ XI </b>



<b> PHÙNG HỮU PHÚ(*) </b>


TÓM TẮT


<i>Bài viết đi sâu nghiên cứu, phân tích các yêu cầu, thời cơ, thách thức và các bước </i>
<i>chuyển đổi có ý nghĩa chiến lược nhằm đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học theo </i>
<i>tinh thần Nghị quyết Trung ương 8, Khoá 11 và khẳng định sức mạnh đổi mới phải bắt đầu </i>
<i>từ tự đổi mới.</i>


<i><b> Từ khoá:</b>đổi mới căn bản, giáo dục đại học,chuyển đổi chiến lược, thời cơ, thách thức</i>
<i>ABSTRACT </i>


<i>The paper thoroughly studies and analyses the requirements, the opportunities, the </i>
<i>challenges and the significant strategic transitions so as to radically and comprehensively </i>
<i>innovate the higher education in the spirit of the Central Resolution 8, Session 11 and </i>
<i>confirms the fact that the strength of the innovation must start from the self-renewal. </i>


<i><b>Keywords:</b> radical innovation, higher education, strategic transitions, opportunities, </i>
<i>challenges</i>


YÊU CẦU VÀ THỜI CƠ, THÁCH THỨC
Đất nước đang trong q trình đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá , hội
nhập quốc tế, phấn đấu đến năm 2020 cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Sự nghiệp trọng đại, vẻ
vang đó đặt ra những yêu cầu to lớn đối


với giáo dục đại học.


Thực tiễn đòi hỏi, giáo dục đại học
phải góp phần trực tiếp, hiệu quả vào quá
trình phát triển đất nước nhanh, bền vững;
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ. Những năm tới, giáo dục đại
học cần tích cực tham gia vào quá trình tái
cơ cấu nền kinh tế gắn mới đổi mới mơ
hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế,
sức mạnh tổng hợp của đất nước; góp
phần phát triển văn hố, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, tăng cường tiềm lực
quốc phịng, an ninh, khơng ngừng nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Muốn hoàn thành được những nhiệm vụ
nặng nề đó, giáo dục đại học khơng có con


đường nào khác là phải vươn lên mạnh mẽ,
phải đổi mới căn bản, toàn diện.


Ở thời điểm hiện tại và trên chặng
đường sắp tới, giáo dục đại học nước ta có
nhiều thuận lợi và thời cơ phát triển. Nhìn
trên bình diện tồn cầu, những thập niên đầu
của thế kỉ XXI, đúng như nhận định của
UNESCO, phát triển hệ thống giáo dục sẽ là
một xu thế chung của các quốc gia. Trên
thực tế, ở hầu khắp các nước đang diễn ra


làn sóng cải cách và đổi mới giáo dục, đào
tạo, nói chung, giáo dục đại học, nói riêng.
Càng ngày, vai trị, vị trí của giáo dục đại
học càng được nhận thức sáng tỏ, đầy đủ
hơn. Viện trưởng Viện Đại học Rice, Giáo
sư Mallcolin Gills đã có nhận xét rất chí lí:
“Thời đại ngày nay, hơn là bất cứ lúc nào
trong lịch sử nhân loại, sự giàu có hay nghèo
nàn - của các quốc gia tùy thuộc vào chất
lượng giáo dục đại học. Những nước mà có
một tài nguyên nhân lực lớn về kĩ năng và
sức học hỏi cao thì có thể nhìn về một tương
lai dài đầy những thành quả kinh tế chưa
từng có. Nhưng trong hàng chục năm tới




</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

những nước có trình độ giáo dục thấp sẽ
đối diện với viễn cảnh tuyệt vọng âm


thầm”1. Trào lưu cải cách giáo dục đại học;


xu hướng hình thành những giá trị giáo dục
khu vực, toàn cầu, xây dựng đại học đẳng
cấp quốc tế… là mơi trường buộc và khích
lệ giáo dục đại học Việt Nam đổi mới, là
cơ hội tốt để chúng ta có thể tiếp cận, tiếp
thu chọn lọc những kinh nghiệm quý từ thế
giới để khơng ngừng tự hồn thiện, vượt
lên.



Ở trong nước, những thành quả, kinh
nghiệm phát triển giáo dục đại học - cả
kinh nghiệm thành công và chưa thành
công, mấy chục năm qua gắn với thành
quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần ba
mươi năm đổi mới đất nước, trực tiếp là
gần hai mươi năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương 2, khoá VIII về định hướng
chiến lược phát triển giáo dục đào tạo là
những tiền đề vật chất, tinh thần quan trọng
để chúng ta kế thừa, phát triển. Sự quan
tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, của Mặt
trận Tổ quốc, của toàn xã hội, của từng gia
đình đối với sự nghiệp giáo dục; truyền
thống hiếu học, phẩm chất thông minh,
năng lực trí tuệ của người Việt Nam, thế hệ
trẻ Việt Nam là những thuận lợi lớn, là bệ
phóng vững chắc để giáo dục đại học nước
ta có thể cất cánh trong thế kỉ mới.


Tuy nhiên, cũng phải thấy cho hết
những khó khăn, thách thức gay gắt đang
và sẽ tác động nhiều mặt đến quá trình phát
triển giáo dục đại học Việt Nam để quyết
tâm khắc phục, vượt qua.


Trong thế giới tồn cầu hố, cùng với
xu thế hợp tác, phát triển là quá trình cạnh
tranh ngày càng quyết liệt giữa các quốc


gia, đặc biệt là cạnh tranh về khoa học,
công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng
cao - cũng có nghĩa là cạnh tranh về giáo
dục đại học. Trong cuộc chạy đua tăng tốc
này, giáo dục đại học Việt Nam còn ở điểm
xuất phát thấp và chưa có nhiều lợi thế, có
nguy cơ tụt hậu xa hơn so với giáo dục đại


học khu vực, thế giới2.


Mơ hình tổ chức, phương thức hoạt
động của đại học nước ta tuy đã có những
bước đổi mới, song dấu ấn của tư duy, cách
nghĩ, cách làm, thói quen thời bao cấp vẫn
là một trở lực. Mặc dù Đảng, Nhà nước, xã
hội và gia đình đã dành sự quan tâm đáng
kể trong đầu tư cho giáo dục đại học, song
do tiềm lực kinh tế đất nước có hạn, nguồn
lực tài chính quốc gia, khả năng đầu tư của
cộng đồng xã hội và khả năng đóng góp
của phần đơng các gia đình chưa đáp ứng
được yêu cầu. Mặt trái của cơ chế thị
trường, hội nhập quốc tế đang tác động đến
nhận thức, tư tưởng, đạo đức, lối sống của
một bộ phận sinh viên và một số giảng
viên, cán bộ quản lí giáo dục, làm phát sinh
những tiêu cực, tệ nạn gây bức xúc xã hội,
cản trở bước tiến của giáo dục đại học.


Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục


đại học đòi hỏi chúng ta phải nhận thức
đầy đủ, sâu sắc những thuận lợi, khó khăn,
thời cơ, thách thức; kiên trì kế thừa, phát
huy những thành tựu, kinh nghiệm tốt; tận
dụng những cơ hội phát triển; kiên quyết
khắc phục những nhận thức, việc làm chưa
đúng, đẩy lùi những tiêu cực và tệ nạn; tiếp
thu có chọn lọc những thành quả và kinh
nghiệm phù hợp của giáo dục đại học quốc
tế để phát triển nhanh, bền vững.


<b>NHỮNG CHUYỂN ĐỔI CÓ Ý NGHĨA </b>
<b>CHIẾN LƯỢC </b>


Tháng 11 năm 2013, Hội nghị lần thứ
tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng,


khoá XI đã ban hành Nghị quyết về <i>Đổi </i>


<i>mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào </i>
<i>tạo, đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hố, </i>
<i>hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị </i>
<i>trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội </i>


<i>nhập quốc tế.</i> Nghị quyết đánh dấu bước


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

tạo, nhất là đối với quá trình đổi mới giáo
dục đại học. Quán triệt tinh thần Nghị
quyết, soi vào thực tiễn giáo dục đại học
nước ta hiện nay trên hệ quy chiếu với giáo


dục đại học khu vực, thế giới có thể thấy
sáng tỏ hơn nhiều vấn đề cốt lõi của đổi
mới và phát triển. Nổi bật và xuyên suốt là
định hướng về những bước chuyển có ý
nghĩa chiến lược của giáo dục đại học mà
chúng ta phải ra sức phấn đấu, đi trước
trong việc thực hiện mục tiêu đến năm
2030 nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ


tiên tiến trong khu vực3.


<b>Bước chuyển từ quá trình giáo dục </b>
<b>chủ yếu truyền thụ kiến thức sang phát </b>
<b>triển toàn diện năng lực và phẩm chất </b>
<b>người học </b>


<i>Về phát triển năng lực của người học</i>
Bước vào thế kỉ XXI, các nhà giáo dục
học quốc tế tán đồng cao với quan niệm
của UNESCO: việc chuyển giao trách
nhiệm nắm bắt tri thức từ người giảng sang
người học sẽ là thay đổi chính trong hệ


thống giáo dục4. Sự phát triển như vũ bão


của cách mạng khoa học, công nghệ vừa là
sản phẩm trí tuệ của nhân loại, vừa nâng
cao khả năng sáng tạo của con người. Khối
lượng tri thức được tạo ra ngày càng khổng
lồ, hết sức đa dạng, luôn luôn mới mẻ.


Trước thực tế đó, con người buộc phải thay
đổi phương thức nắm bắt tri thức, chuyển
mạnh từ nắm bắt những tri thức cụ thể sang
trau dồi phương pháp tiếp cận, sàng lọc,
vận dụng, sáng tạo tri thức.


Giáo dục đại học Việt Nam nói riêng,
giáo dục đại học Châu Á nói chung, có nét
giống nhau là thiên về truyền thụ kiến thức.
Nói về đặc điểm này, Hiệu trưởng Đại học
Yale (Mĩ), Giáo sư Richard C. Levin đã
đưa ra một nhận xét sắc sảo trong bài viết


<i>Sự trỗi dậy của các đại học Châu Á</i>:


Phương pháp giảng dạy tập trung vào việc
làm chủ nội dung, chứ không phải phát
triển năng lực tư duy độc lập và tinh thần
phản biện. Cách tiếp cận của Châu Á
truyền thống đối đối với chương trình học


và phương pháp giảng dạy có thể rất thích
hợp cho việc đào tạo những kĩ sư và viên
chức chính phủ hạng trung, nhưng có lẽ
khơng mấy thích hợp để đào tạo giới tinh


hoa nhằm đổi mới công nghệ và lãnh đạo5.


Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới,
song đến nay, về cơ bản giáo dục đại học


nước ta vẫn chưa khắc phục tốt hạn chế
được nêu trong Nghị quyết Trung ương 2,


khoá VIII về <i>Định hướng chiến lược phát </i>


<i>triển giáo dục và đào tạo trong thời kì </i>
<i>cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và nhiệm </i>


<i>vụ đến năm 2000, </i>cách đây đã hơn 17 năm.


Sinh viên do chúng ta đào tạo ra vẫn còn
yếu về trình độ kiến thức, kĩ năng thực
hành, phương pháp tư duy khoa học và
trình độ ngoại ngữ; khả năng vận dụng kiến
thức vào sản xuất, đời sống, thích ứng với
sự biến đổi nhanh chóng của ngành nghề,


cơng nghệ… vẫn cịn nhiều bất cập6. Sau


khi tốt nghiệp, số lượng sinh viên chưa đáp
ứng được yêu cầu công việc hoặc phải đào
tạo lại còn chiếm tỉ lệ cao.


Nhận thức sâu sắc những yếu kém đã
tồn tại từ lâu, chậm được khắc phục, Nghị
quyết Trung ương 8, khoá XI đã định
hướng rõ, giáo dục đại học phải chú trọng


phát triển <i>năng lực tự học, tự làm giàu kiến </i>



<i>thức, sáng tạo của người học;</i> phải đổi mới


nội dung giáo dục <i>theo hướng tinh giản, </i>


<i>hiện đại, thiết thực; </i>phải khắc phục lối


truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy


móc, <i>tập trung dạy cách học, cách nghĩ, </i>


<i>khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người </i>
<i>học tự cập nhật kiến thức, đổi mới kiến </i>
<i>thức, phát triển năng lực sáng tạo, kĩ năng </i>
<i>vận dụng kiến thức.</i>


Thực hiện những định hướng nêu trên
sẽ tạo bước chuyển có ý nghĩa cách mạng
trong quan hệ giữa người dạy và người
học, chuyển người thầy từ vai trò truyền
thụ những tri thức cụ thể thành người
chuyển giao bí quyết nắm bắt, vận dụng tri


thức; đặt người học ở vị trí <i>chủ thể trung </i>


<i>tâm của quá trình giáo dục</i>, chủ động,


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

trình tự đào tạo một cách thực chất. Đồng
thời, đây cũng là quá trình tạo ra sự biến
đổi về chất trong giáo dục đại học, nâng
giáo dục ở tầm chuyển giao - tiếp nhận tri


thức lên tầm không ngừng làm giàu tri
thức, sáng tạo tri thức.


<i>Về giáo dục, bồi đắp phẩm chất, nhân </i>
<i>cách của người học</i>


Bốn trụ cột mà UNESCO xác định như
là cơ sở của cải cách giáo dục trong thế kỉ
XXI: “học để hiểu biết; học để làm việc;
học để chung sống; học để tự khẳng định”
đã trở thành sự gợi mở đầy sức thuyết phục
về mục tiêu giáo dục phẩm chất, năng lực
của người học. Hai mệnh đề đầu là sự tiếp
nối tư duy đã được khẳng định trước đây,
song hai mệnh đề sau thì thật là mới mẻ và
sâu sắc. Học là học kĩ năng sống để có thể
chung sống thân thiện với thế giới tự nhiên,
chung sống hài hòa với cộng đồng; học là
để tiếp nhận các giá trị và tự sáng tạo
những giá trị của chính mình, của riêng
mình, đóng góp vào giá trị chung của cộng
đồng. Trong xã hội hiện đại, giáo dục, học
vấn, văn hoá là ba bộ phận của một quá
trình thống nhất - sự phát triển về mặt tinh
thần và nhân văn của cá nhân và xã hội; là
các yếu tố không tách rời của sự phát triển
xã hội một cách văn minh, đồng thời, là nội


dung, tiền đề và kết quả của phát triển7.



Trường đại học chính là nơi hội đủ ba nhân
tố giáo dục - học vấn - văn hoá, do vậy
phải trở thành trung tâm bồi đắp đời sống
tinh thần và chủ nghĩa nhân văn của người
học, phải tạo hiệu ứng lan tỏa văn hoá
trong xã hội.


Từ xa xưa, trong nền giáo dục truyền
thống, ông cha ta đã nêu một triết lí dung


dị mà vơ cùng sâu sắc: <i>học ăn, học nói, học</i>


<i>gói, học mở</i> - tức là học kĩ năng sống, học


để làm người. Đến thời đại cách mạng, Bác
Hồ nâng tầm giáo dục thành sự nghiệp


<i>trồng người </i>với thiên chức dạy để người


học có tri thức làm việc, làm người, làm
cán bộ cách mạng. Nền giáo dục đại học
cách mạng của nước ta đã giương cao tôn


chỉ cao quý đó. Tuy nhiên, bước vào cơ
chế thị trường, do chậm đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp đào tạo; do
không đánh giá hết tác động của mặt trái
kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, thiếu
những biện pháp tích cực, kiên quyết ngăn
chặn, đẩy lùi những tiêu cực, tệ nạn xâm


nhập vào học đường, môi trường giáo dục
đại học đã bị ô nhiễm. Giáo dục tư tưởng,
đạo đức, lối sống có phần bị xem nhẹ; xuất
hiện bệnh hình thức, hiếu danh, chạy theo
bằng cấp và sự sa sút phẩm chất, nhân cách
trong một bộ phận sinh viên, giảng viên,
cán bộ quản lí.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

thật sự đối với người học - chủ thể trung
tâm của giáo dục đại học.


<i><b>Bước chuyển từ phát triển chủ yếu theo </b></i>
<i><b>số lượng sang chú trọng chất lượng, </b></i>
<i><b>hiệu quả với số lượng hợp lí </b></i>


Ở các nước phát triển, trên nền mặt
bằng dân trí khá cao, để đáp ứng nhu cầu
thường xuyên, đa dạng, ngày càng sâu rộng
của người học trong một xã hội học tập,
giáo dục đại học có xu hướng đại chúng
hố , thực hiện phân tầng mạnh, hình thành
nhiều loại hình cơ sở đào tạo với mục tiêu,
nội dung, chương trình, thời lượng rất đa
dạng, đáp ứng nhu cầu học tập của mọi đối
tượng. Đây là xu hướng khách quan, tiến
bộ mà giáo dục đại học các nước đều
hướng tới.


Cách đây 17 năm, trong điều kiện
mạng lưới giáo dục nước ta đang trong quá


trình hình thành, chưa đủ sức đáp ứng nhu
cầu ngày càng lớn của người học, Nghị
quyết Trung ương 2, khoá VIII định
hướng phát triển: coi trọng cả ba mặt quy
mô - nâng cao chất lượng - phát huy hiệu
quả; phát triển quy mô, số lượng được đặt
ở vị trí ưu tiên. Theo tinh thần đó, gần 20
năm qua, nhất là những năm gần đây, mạng
lưới giáo dục đại học không ngừng được
mở rộng; số lượng các trường đại học tăng
lên rất nhanh - đến cuối năm 2012, theo số
liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cả nước
đã có 204 trường đại học, vượt xa những
năm trước đó. Có thể ghi nhận sự nỗ lực và
cố gắng đáng trân trọng từ sự phát triển
mạnh mẽ này, song lại phải thấy một sự
thật không vui là, trong điều kiện đội ngũ
giảng viên đại học còn có hạn, cơ sở vật
chất bảo đảm cho dạy và học còn thiếu
thốn, phổ cập trung học phổ thông cịn
đang trong q trình phấn đấu, trình độ
phát triển kinh tế đất nước còn thấp, sự
phát triển nóng về số lượng các trường đại
học và quy mô tuyển sinh đã khơng tương
thích với việc nâng cao chất lượng đào tạo
và góp phần làm trầm trọng hơn tình trạng
bất hợp lí về cơ cấu nguồn nhân lực qua


đào tạo. Chất lượng, hiệu quả giáo dục đại
học có chiều hướng giảm sút và được đánh


giá là khâu yếu trong chất lượng, hiệu quả
của giáo dục, đào tạo nước ta nói chung.


Để khắc phục tình trạng này, Nghị
quyết Trung ương 8, khoá XI đã xác định,
phải chuyển phát triển giáo dục và đào tạo
từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng
chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng
yêu cầu số lượng; giáo dục đại học phải
hướng vào đào tạo nguồn nhân lực chất


lượng cao, bồi dưỡng nhân tài8. Bước


chuyển này đòi hỏi phải rà soát, sắp xếp,
phân tầng mạng lưới giáo dục đại học hợp
lí; kết gắn chặt chẽ kế hoạch đào tạo của
các cơ sở đại học với quy hoạch nguồn
nhân lực phù hợp với yêu cầu, điều kiện
của từng ngành, từng địa bàn; khắc phục
tình trạng mất cân đối giữa đào tạo đại học
với đào tạo nghề, bất hợp lí giữa các ngành
đào tạo bậc đại học dẫn tới tình trạng
nguồn nhân lực vừa thừa vừa thiếu.


Vấn đề quan trọng hơn là phải phấn
đấu nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục
đại học; lấy việc phục vụ trực tiếp, thiết
thực quá trình đổi mới mơ hình tăng trưởng
từ chiều rộng sang chiều sâu, tái cơ cấu,
nâng cao giá trị tăng thêm, sức cạnh tranh


và phát triển nhanh, bền vững của nền kinh
tế đất nước; góp phần tích cực vào sự
nghiệp phát triển văn hố, xã hội, bảo đảm
quốc phịng, an ninh… làm thước đo chủ
yếu xác định giá trị sáng tạo của đại học.
Sản phẩm của giáo dục đại học, trước hết
là sinh viên tốt nghiệp ra trường, phải được
xã hội thừa nhận về phẩm chất, năng lực.
Lấy sự chấp nhận của thị trường lao động
đối với người học là tiêu chí quan trọng để
đánh giá uy tín, chất lượng các cơ sở giáo
dục, đào tạo và là căn cứ để định hướng
phát triển ngành nghề, quy mô, số lượng


đào tạo9. Muốn vậy, các cơ sở giáo dục đại


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

gắn với thực tiễn, đào tạo gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc,
với tiến bộ khoa học công nghệ, phù hợp
với quy luật khách quan của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu
cầu hội nhập quốc tế. Từng cơ sở giáo dục
đại học phải giải quyết tốt mối quan hệ
giữa đào tạo tài năng, đào tạo chất lượng
cao và đào tạo đại trà căn cứ vào mục tiêu,
điều kiện, năng lực thực tế.


<b>Bước chuyển từ hệ thống giáo dục còn </b>
<b>khép kín, cứng nhắc, biệt lập sang hệ thống </b>
<b>giáo dục mở, linh hoạt, liên thơng </b>



Hình thành, phát triển trong điều kiện
nền kinh tế thị trường ra đời sớm và khơng
ngừng hồn thiện, giáo dục đại học ở phần
lớn các nước tiên tiến được thiết kế thành
hệ thống mở, mềm dẻo, có tính liên kết
cao, đủ sức thích ứng với thị trường luôn
biến động, thay đổi. Phương thức đào tạo
theo tín chỉ được thực hiện trong hệ thống
giáo dục đại học uyển chuyển đó tạo điều
kiện để người học có thể học tập suốt đời,
có khả năng trang bị những tri thức phù
hợp mỗi khi buộc phải hoặc mong muốn
chuyển đổi nghề nghiệp, công việc.


Nền kinh tế thị trường nước ta đang
trong quá trình hình thành; thị trường lao
động vẫn còn sơ khai, nhu cầu việc làm
còn rất lớn, người lao động chưa có điều
kiện và nhu cầu thay đổi cơng việc. Những
yếu tố khách quan đó cùng với dấu ấn tư
duy, phương thức quản lí, điều hành giáo
dục theo kiểu hành chính đã tồn tại quá lâu
là những nguyên nhân chính khiến cho hệ
thống giáo dục đại học của chúng ta (dù đã
từng qua một số năm thử nghiệm không
thành cơng mơ hình liên thông vào đầu
những năm 1990), cho đến hiện nay, về cơ
bản vẫn là hệ thống khép kín, khơ cứng,
biệt lập. Bước vào thời kì mới, khi kinh tế


thị trường ngày càng phát triển theo chiều
sâu, quá trình hội nhập quốc tế không
ngừng mở rộng, hệ thống giáo dục đại học
như thế khơng cịn thích hợp nữa, khơng đủ


sức đáp ứng địi hỏi ngày càng cao, ngày
càng đa dạng của thực tiễn.


Nghị quyết Trung ương 8, khoá XI đã
nêu mục tiêu: xây dựng nền giáo dục mở
với năm đặc trưng cơ bản (1) thực học,
thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lí tốt; (2)
có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lí,
gắn với xây dựng xã hội học tập; (3) đảm
bảo những điều kiện nâng cao chất lượng;
(4) chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá,
xã hội hoá và hội nhập quốc tế; (5) giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản
sắc dân tộc. Mục tiêu trên là định hướng
chung xây dựng nền giáo dục, đào tạo nước
nhà trong thời kì mới. Đây cũng là định
hướng sát hợp với giáo dục đại học. Trong
quá trình thực hiện mục tiêu này, giáo dục
đại học phải giải quyết hiệu quả ba vấn đề
mấu chốt:


<i>Thứ nhất,</i> từng bước khắc phục tình


trạng khép kín của cả hệ thống, của từng cơ
sở đào tạo, hình thành cơ chế mở trong


từng trường, trong toàn hệ thống; mở giữa
hệ thống giáo dục đại học với đời sống xã
hội, với cộng đồng giáo dục quốc tế.


<i>Thứ hai,</i> mềm hố, linh hoạt hố mơ


hình tổ chức và phương thức vận hành giáo
dục đại học, thích ứng với sự vận động của
cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.


<i>Thứ ba,</i> khẩn trương xóa bỏ trạng thái


chia cắt, biệt lập về chương trình, nội dung
đào tạo trong từng trường, giữa các trường
trên từng lĩnh vực, trên từng địa bàn và
trong tồn hệ thống, giải quyết hài hịa giữa
trang bị kiến thức chuyên sâu với kiến thức
liên ngành, tạo sự liên thông, liên kết giữa
các bậc học, giữa các trình độ và giữa các
phương thức giáo dục, đào tạo, giữa đào
tạo trong nước và đào tạo quốc tế…


SỨC MẠNH ĐỔI MỚI BẮT ĐẦU TỪ
TỰ ĐỔI MỚI


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

giáo dục, đào tạo, của cộng đồng xã hội,
của từng gia đình, trực tiếp là sự phấn đấu
của các cơ sở đào tạo, của người dạy,
người học.



Quá trình đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục đại học, cốt lõi là thực hiện ba
bước chuyển có ý nghĩa chiến lược, trước
hết đòi hỏi các trường đại học, đặc biệt là
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lí phải quyết
tâm, quyết liệt đổi mới cách nghĩ, cách
làm, phát huy vai trò tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, chuyển mạnh từ quản lí hành chính
sang quản trị khoa học, nhất là quản trị đào
tạo, nghiên cứu khoa học, quản trị nhân lực
và tài chính.


Sự chuyển đổi có ý nghĩa cách mạng
của giáo dục đại học đòi hỏi và tạo điều
kiện để người thầy tự vượt lên chính mình,
tự hồn thiện tài năng và nhân cách, thật sự
là tấm gương sáng và là người dẫn dắt thế
hệ trẻ học đường vững bước vào đời, vào
con đường học tập, sáng tạo suốt đời.


Đổi mới giáo dục đại học, thực hiện
những bước chuyển căn bản và toàn diện tạo
cơ hội thuận lợi và cũng đòi hỏi nghiêm ngặt
sự rèn luyện, phấn đấu cao độ của các thế hệ
sinh viên, học viên, đặc biệt là ý thức làm
chủ và thái độ trách nhiệm với chính mình,
với gia đình, cộng đồng và xã hội.


Sức mạnh đổi mới giáo dục đại học
không bắt đầu từ đâu xa mà bắt đầu từ sự


tự đổi mới của từng thầy giáo, cô giáo,
từng cán bộ, học viên, sinh viên trong từng
trường, trong toàn ngành cộng hưởng với
sự đổi mới của toàn xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Thống nhất nhận thức,
quyết tâm hành động, dù khó khăn, phức
tạp đến mấy, công cuộc đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục đại học theo tinh thần
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khoá
XI nhất định sẽ thành cơng./.


<i><b>Chú thích: </b></i>


1<sub> Dẫn theo Nguyễn Thiện Tống (2013), Mơ </sub>


hình đại học đa lĩnh vực trong thời đại kinh
tế tri thức, Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 17,
tr.47.


2<sub> Theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu </sub>


2013-2014 của Diễn đàn kinh tế thế giới, Việt
Nam xếp thứ 70 trong 148 nước về chỉ số
cạnh tranh tồn cầu, trong đó giáo dục đại
học xếp thứ 95.


3<sub> Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn </sub>


kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương khoá XI, Văn phòng Trung


ương Đảng, Hà Nội, 2013, tr. 122.


4<sub> Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia </sub>


Hồ Chí Minh (2012), <i>Phát triển giáo dục </i>


<i>và đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài( một </i>


<i>số kinh nghiệm của thế giới),</i>Nxb Chính


trị-hành chính, HN, tr.41-42.


5<sub> Richard C. Levin, “Sự trỗi dậy của đại </sub>


học Châu Á”, <i>Phát triển giáo dục và đào </i>


<i>tạo nguồn nhân lực, nhân tài…- một số </i>


<i>kinh nghiệm của thế giới,</i> sđd, tr. 410.


6<sub> Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban </sub>


Chấp hành Trung ương khoá VIII về <i>Định </i>


<i>hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào </i>
<i>tạo trong thời kì cơng nghiệp hoá, hiện đại </i>


<i>hoá và nhiệm vụ đến năm 2000,</i> 12-1996.


7<sub> T. Savenkova, Khả năng cạnh tranh của </sub>



các chuyên gia là vecstơ phát triển giáo dục
trên con đường đi tới tiến bộ, trong sách
<i>Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân </i>


<i>lực, nhân tài…,</i> sđd, tr. 43.


8<sub> Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn </sub>


kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hànhTrung ương khoá XI, Sđd, tr. 120,
132.


9<sub> Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn </sub>


</div>

<!--links-->

×