Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Âm nhạc truyền thống và đương đại của người Chăm An Giang - Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Tp. Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.74 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<i>AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 </i>


<b>ÂM NHẠC TRUYỀN THỐNG VÀ ĐƯƠNG ĐẠI </b>


<b>CỦA NGƯỜI CHĂM AN GIANG </b>



Võ Văn Thắng1<sub>,</sub><sub>Dương Phương Đông</sub>1


<i>1<sub>Trường Đạ</sub><sub>i h</sub><sub>ọc An Giang, ĐHQG</sub><sub>-</sub><sub>HCM</sub></i>


<i><b>Thông tin chung: </b></i>


<i>Ngày nhận bài: 20/05/2020 </i>
<i>Ngày nhận kết quả bình </i>
<i>duyệt: </i>


<i>21/06/2020 </i>


<i>Ngày chấp nhận đăng: </i>


<i>06/2020 </i>


<i><b>Title: </b></i>


<i>Effect of treatment </i>
<i>conditions on the </i>
<i>preservation of tricolor </i>


<i>mango (Mangifera indica) </i>


<i>pieces </i>



<i><b>Keywords: </b></i>


<i>An Giang, music, the </i>


<i>Cham people</i>
<i><b>Từ khóa: </b></i>


<i>An Giang, âm nhạc, Chăm</i>


<b>ABSTRACT </b>


<i>Based on the overview of the formation with the cultural </i>


<i>characteristics of the Cham people in An Giang, the article focuses </i>


<i>on clarifying the traditional and contemporary music as well as </i>
<i>typical musical characteristics of this community. Thereby, the author </i>
<i>also points out the differences and similarities in music between the </i>


<i>Chams in An Giang music and the Cham people in Central Vietnam. </i>
<i>From the current state of the musical life of the Cham people in An </i>


<i>Giang, the author proposes values with unique elements that need to </i>
<i>be preserved and promoted to help this kind of music be more diverse </i>
<i>in the present and future. </i>


<b>TÓM TẮT </b>


<i>Trên cơ sở khái quát sự hình thành với những nét đặc trưng vềvăn </i>



<i>hóa của người Chăm ở An Giang, bài viết tập trung làm rõ âm nhạc </i>
<i>truyền thống và đương đại của cộng đồng này ởAn Giang, đồng thời, </i>
<i>tác giảlàm rõ các đặc điểm vềnét đặc trưng âm nhạc người Chăm </i>
<i>An Giang. Qua đó, tác giảcũng chỉ ra những điểm dị biệt và tương </i>
<i>đồng trong âm nhạc người Chăm An Giang với người Chăm miền </i>
<i>Trung Việt Nam. Từ thực trạng đời sống âm nhạc của người Chăm </i>


<i>An Giang, tác giảđề xuất những giá trị cần bảo tồn và phát huy cùng </i>
<i>với những yếu tố nhằm tạo điều kiện cho nền âm nhạc này phát triển </i>


<i>phong phú hơn trong hiện tại và tương lai. </i>


<b>1. </b> <b>GIỚI THIỆU </b>


An Giang là tỉnh nằm ở đầu nguồn lưu vực sông
Mekông với đặc thù là một tỉnh nông nghiệp, vừa
có đồng bằng, vừa có đồi núi, có đường biên giới
tiếp giáp với Campuchia dài gần 100km. An
Giang có dân số đông nhất ở miền Tây Nam Bộ,
đứng hạng thứ 6 ở Việt Nam. An Giang cũng là


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 </i>
Chăm cùng 12 Thánh đường và 13 tiểu Thánh


đường. Mặc dù dân số ít hơn dân tộc Khmer, Kinh
trong tỉnh nhưng cộng đồng Chăm ở An Giang
với sự gắn kết của tơn giáo và văn hóa, ln thể
hiện rõ nét tinh thần đoàn kết, tương thân tương
ái. Người Chăm ở An Giang theo Islam giáo đã
góp phần quan trọng trong việc hình thành nét văn


hóa độc đáo cho tộc người Chăm nơi đây, tạo ra
những điểm khác biệt cơ bản trong đời sống văn
hóa với bộ phận người Chăm tại Ninh Thuận và
Bình Thuận.


<b>2. </b> <b>KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH </b>


<b>NGƯỜI CHĂM AN GIANG </b>


Người Chăm An Giang hình thành như thế nào
đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau nhưng căn
cứ vào một số tài liệu dân tộc học và những hiện
vật còn lưu giữ, đặc biệt là quyết định xác minh
cộng cộng đồng dân tộc của Tổng cục Thống kê
Việt Nam ngày 2/3/1979, chúng ta có thể nói
rằng: Người Chăm An Giang và người Chăm
miền Nam Trung bộ đều chung một nguồn gốc
lịch sử từ lâu đời. Kể cả người Chăm ở thành phố
Hồ Chí Minh, Tây Ninh và Campuchia (Lâm
Tâm, 1994). Từ thời cổ, trung đại, trên dải đất
miền Trung Việt Nam chính là địa bàn cư trú của
người Chăm, họ đã từng xây dựng nên một quốc
gia hùng mạnh - Vương quốc Champa (Chiêm
Thành) vẫn còn lưu trong sử sách cho đến ngày
hôm nay. Theo các sử liệu cổ của Trung Quốc,
Vương quốc Champa được thành lập từ năm 192
sau Công nguyên, lấy tên là Lâm Ấp (có nghĩa là
xứ rừng). Sau đó, Lâm Ấp lần lượt đổi tên thành
Hoàn Vương rồi Chiêm Thành. Lâm Ấp được
thành lập là do Khu Liên, một viên chức bản địa


vì khơng chịu nỗi sự cai trị hà khắc của nhà Hán
nên lãnh đạo người dân nổi dậy lật đổ chính
quyền khu vực Nam Thừa Thiên Huế ngày nay.
Lâm Ấp có địa bàn trải dài từ thành phố Đà Nẵng
và các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên -
Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và
một số vùng thuộc Tây Nguyên. Trong quá trình
phát triển đất nước, Vương quốc Champa có
những biến động nhất định do ảnh hưởng của
chiến tranh. Người Champa từng có xung đột với


các quốc gia trong khu vực thời bấy giờ như Chân
Lạp (Campuchia), Malaska, Xiêm (Thái Lan)…
Đặc biệt là những cuộc xung đột và giao tranh với
Đại Việt có ảnh hưởng rất lớn đối với sự biến đổi
lãnh thổ và dân cư Lâm Ấp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 </i>
Sết It lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống lại triều


đình phong kiến. Cuộc khởi nghĩa đã thu hút khá
đông người Chăm, người Mã Lai tham gia. Đến
khi cuộc khởi nghĩa thất bại, rất nhiều người
Chăm, người Mã Lai chạy về Nam Bộ. Tất cả đều
được Triều Nguyễn thu nhận và cho định cư ở
vùng đất An Giang, cụ thể là phân bố trong 7
làng: Châu Giang, Katambong, Phum Soài, La
Ma, Koh Koi, Koh Kia và Sa Bâu. Đây được xem
là đợt di dân đông đảo nhất của người Chăm từ


Campuchia về An Giang.


Trong hai năm 1854 và 1858, nhiều người Chăm
Islam sống sót sau đợt tàn sát của quân Khmer đã
chạy qua Châu Đốc tị nạn, được Trương Minh
Giảng cho định cư cùng với những người Chăm
đã có mặt từ trước ở vùng biên giới dọc theo sông
Hậu gần Châu Đốc và Tây Ninh. Do tác động của
điều kiện lịch sử diễn ra từ nửa sau thế kỷ XVIII,
tạo nên những đợt di dân của người Chăm sau bao
năm phiêu bạt đã trở về vùng đất Nam bộ Việt
Nam cư trú. Như vậy, cư dân Chăm ở Nam Bộ nói
chung và ở An Giang nói riêng được hình thành
từ hai nguồn chủ yếu: một là, từ Trung Bộ chuyển
cư thẳng vào vùng đất mới phía Nam và hai là,
một phần khác không nhỏ từ nước ngoài như
Chân Lạp, Mã Lai, Inđônêsia trở về. Buổi đầu họ
tập trung cư trú rất đông ở An Giang, Tây Ninh và
rải rác ở các địa phương thuộc Nam Bộ. Tuy
nhiên, do yêu cầu lập nghiệp và ảnh hưởng của
chiến tranh, bom đạn dưới thời kỳ Pháp thuộc và
ách thống trị của chủ nghĩa thực dân mới ở miền
Nam, nhiều nông dân ở vùng Đồng bằng sông
Cửu Long, trong đó có khá đơng người Chăm,
nhất là người Chăm ở An Giang đã bỏ quê lên Sài
Gòn hy vọng tìm nơi có cuộc sống yên ổn hơn
hoặc đi phá hoang, sống về nghề ruộng rẫy ở tỉnh
Bà Rịa, Đồng Nai, rải rác cũng có một số ít sống
trong các thị trấn, thị xã. Do điều kiện lịch sử,
người Chăm ở An Giang có mối quan hệ với Hồi


giáo Malaysia, Inđơnêsia,… từ đó, mở rộng quan
hệ với cộng đồng Hồi giáo trong khu vực Đông
Nam Á và các nước khác. Chính vì thế, cộng đồng
người Chăm ở An Giang chịu ảnh hưởng của
người Mã Lai nhiều hơn về tiếng nói, tín ngưỡng
so với những người đồng tộc của họ ở Ninh
Thuận, Bình Thuận. Tuy vậy, người Chăm Hồi
giáo ở An Giang và người Chăm Bàlamơn ở Ninh
Thuận, Bình Thuận có chung một nguồn gốc, một
tiếng nói, một nền văn hóa Chăm cổ truyền và biết
rõ về tính cộng đồng nguồn gốc này. Trong số
người Chăm về An Giang, có một bộ phận được


các tài liệu gọi là Đồ Bà mà người Pháp cho là
<i>người Mã Lai. </i>Người Chăm gọi họ là “Java –
Kur”. Từ “Java” để chỉ những người nói tiếng Mã
Lai ở đảo Java (Inđônêsia) và thường cũng để gọi
chung những người nói tiếng Mã Lai ở khu vực
Đông Nam Á hải đảo; từ “Kur” để gọi người
Khmer. Di duệ của người Java – Kur này hiện cư
trú tập trung tại xóm Châu Giang, trên khu vực
bến phà Châu Giang thuộc thị xã Tân Châu, một ít
sinh sống tại Koh Tambong (<i>Koh Tamboong</i> tiếng
Chăm có nghĩa là "Cồn Cây gậy", còn người
Khmer gọi cù lao Khánh Hòa là េ�ះដំបង, có
nghĩa là “Cù lao Dùi cui” hay “Cù lao Lớn” hay
“Cù lao Xương rồng”) thuộc huyện Châu Phú
(Sơn Nam, 1988). Trải qua quá trình định cư lâu
dài tại vùng đất An Giang, cộng đồng người
Chăm đã tạo nên một bản sắc riêng rất độc đáo


trong nền văn hóa Việt Nam góp phần khơng nhỏ
cho bức tranh tươi đẹp của vùng đất mới này ngày
hôm nay.


<b>3. </b> <b>HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA VĂN NGHỆ </b>


<b>CỦA NGƯỜI CHĂM AN GIANG </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 </i>
Chăm Islam ở An Giang luôn đề cao tình nghĩa vợ


chồng, tình anh em như truyện Đôrya cô gái nết
na, Amách và Sifoah,… Đặc trưng trong hầu hết
các câu truyện kể của người Chăm An Giang đều
thấp thống hình bóng của thần linh hiện ra để
giải quyết những khó khăn mà khả năng con
người khơng làm được. Ngồi ra, họ cũng có
truyện cười, truyện ngụ ngôn hay truyện thần
thoại kể về Mohammad, về thiên thần theo kinh
Qur’an. Có thể nói, nền văn học Việt Nam có sự
đóng góp khơng nhỏ kho tàng văn học của cộng
đồng Chăm Islam.


<i>Sinh hoạt âm nhạc</i> người Chăm An Giang không
giống như âm nhạc của người Chăm ở Trung bộ.
Họ không sử dụng bất kỳ nhạc khí dây, hơi nào
ngồi bộ trống Ráp Pà-nà (khác với trống
Paranưng, Gineng của Chăm Trung bộ (Người
Chăm miền Trung quan niệm: kèn Saranai, trống
Paranưng và trống Gineng là biểu tượng của trời,


đất, người, thể hiện “thiên, địa, nhân” nhất thể. Do
vậy, khi biểu diễn cần chơi ba loại nhạc cụ này để
thể hiện sự hòa hợp 3 yếu tố đó. Hiện nay, người
Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận cịn lưu giữ
và sử dụng nhiều nhạc cụ truyền thống trong sinh
hoạt văn hóa cộng đồng, gồm ba nhóm: một là, bộ
gõ gồm có trống Gineng (2 mặt), trống Paranưng
1 mặt, trống Hagăr (2 mặt), Chiêng (cheng) và mõ
(akhok); hai là, bộ hơi gồm kèn Saranai, tù và
(asăng) và sáo (talăk); ba là, bộ dây gồm đàn Nhị
(Kanhi), đàn Bầu “Chapi” và đàn Gáo “Rabăp”).
Trống cổ Ráp Pà-nà ở An Giang nếu cịn đủ bộ thì
có 12 cái và được lưu giữ khoảng 300 năm.
Nhưng do chiến tranh, bộ trống bị thất lạc khơng
cịn đủ mà chỉ cịn 6 cái, trong đó, 01 cái trống
đực (trống dẫn), 5 trống cái (Hiện nay, theo khảo
sát của chúng tơi, chỉ cịn 2 dàn trống cổ ở xóm
Chăm Châu Giang (Phú Hiệp, Tân Châu) và đội
trống Lama (Vĩnh Trường, An Phú), nhưng chỉ có
gần một chục người ở Vĩnh Trường biết chơi, biết
hát các giai điệu cổ nhạc Chăm-pa bằng trống Ráp
Pà-nà). Người chơi trống Ráp Pà-nà chỉ là nam,
ngồi xếp thành hình bán nguyệt, họ vừa đánh
cũng có thể vừa hát, trong khi đó, khi chơi trống
Paranưng (cả ngày lễ tết và ngày thường) ở miền
Trung, người chơi vừa đánh trống vừa múa hát, cả
nam lẫn nữ đều hát, múa chung vui. Do nhu cầu


giao lưu văn hóa, trống Ráp Pà-nà ở An Giang
cũng được biểu diễn trong các lễ hội như trống


Paranưng. Từ trống Ráp Pà-nà, người Chăm An
Giang phát triển một cách linh hoạt, sáng tạo
trong khi chơi với thể loại dân ca: các điệu hò, vè,
hát đố, hát ru, các bài đồng dao, hát giao duyên
Ađtơn, Atằm Tànà, ca dao Pa-nược Pa-dát. Trong
sinh hoạt văn hóa văn nghệ, chúng ta không thấy
sự xuất hiện của những cô gái Chăm duyên dáng
với những điệu múa quạt xòe, mềm mại như ở
miền Trung mà chỉ có tiếng trống. Tiếng trống thể
hiện sự linh thiêng và được xem là linh hồn của
người Chăm, cho nên, nó cũng ln được xuất
hiện trong những buổi cầu nguyện hàng tuần hay
các buổi lễ lớn tại các thánh đường.


<b>4. </b> <b>ÂM NHẠC TRUYỀN THỐNG VÀ </b>


<b>ĐƯƠNG ĐẠI CỦA NGƯỜI CHĂM AN </b>
<b>GIANG </b>


<i><b>4.1</b></i> <i><b>Âm nhạc truyền thống của người Chăm An </b></i>
<i><b>Giang </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 </i>
trong đám cưới, trong lao động hay ru con (khác


với người Chăm Ninh Thuận chỉ hát góp vui,
khơng sử dụng nhạc khí trong đám cưới).


Cho đến nay, các nhà nghiên cứu âm nhạc vẫn
chưa tìm ra được một nhạc cụ nào (bộ hơi hay bộ


kéo giống người Chăm Ninh Thuận) của người
Chăm An Giang, chỉ duy nhất ngoài bộ gõ là:
Trống Ráp Pà-nà, trống Tum như đã nói trên đây.
Người Chăm An Giang chỉ kết hợp trống và hát


để tạo ra tiết tấu nhanh, chậm khác nhau nhằm thể
hiện nội dung bài hát ở trạng thái buồn, vui và
khơng có múa.


Dựa trên các yếu tố đã phân tích, để có cái nhìn rõ
hơn, chúng ta xem bảng so sánh sau đây để tìm ra
những nguyên nhân hạn chế của người Chăm
Ninh Thuận và Chăm An Giang trong sinh hoạt
âm nhạc.


<b>Chăm Ninh Thuận </b> <b>Chăm An Giang </b>
<b>Âm nhạc truyền thống: </b>


Đa dạng, phong phú về hình thức thể hiện


<b>Âm nhạc truyền thống: </b>
Số lượng ít, đa số bị thất truyền
<b>Khí nhạc: có đủ 3 bộ: </b>


- Bộ gõ;
- Bộ dây;
- Bộ hơi.


<b>Khí nhạc: có 01 bộ: </b>
Chỉ có bộ gõ.



<b>Các bài hát truyền thống: </b>


Đa dạng, đáp ứng cho từng lễ hội, sinh động


<b>Các bài hát truyền thống: </b>
Ít, mai một, hầu như khơng cịn
Bộ trống của người Chăm An Giang:


Trống Ráp Pà-nà: Có hình dáng giống Paranưng
nhưng mục đính và cách biểu diễn có phần khác
nhau về tư thế ngồi đánh trống. Bộ trống đầy đủ
gồm 12 cái (2 trống đực, 10 trống cái). Trống Ráp


Pà-nà được làm bằng cách khoét lỗ thân các loại
danh mộc như giáng hương, mun… có tuổi từ 100
năm trở lên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 </i>


Trống Ráp Pà-nà chỉ dành cho nam giới chơi vào những ngày lễ tết, lễ cưới. Khi chơi trống, người chơi
ngồi thành vòng bán nguyệt. Đội đồng ca cũng là người chơi trống, cất vang những bài hát ca ngợi tình
mẹ cha, tình yêu quê hương, đất nước, lời răn dạy con cháu…


- Trống Tum (trống cái)


Đây là loại trống tròn, bịt da một mặt, đường kính
khoảng 30cm. Mặt trống bịt da dê, thân trống
bằng gỗ q. Trống tum (trống cái) đóng vai trị
chủ đạo trong dàn trống, tất cả phải dựa vào nhịp


của trống tum (trống cái) mà đánh. Chỉ những


người nhạc trưởng và có uy mới được đánh trống
này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 </i>
này có lý do là, trong quan niệm người Chăm An


Giang, họ theo đạo Islam nên các bài truyền thống
là những bài hát của đạo Hồi giáo có nguồn gốc từ
Malaysia.


Như trên đây chúng tơi đã trình bày, âm nhạc
người Chăm ở An Giang có đặc điểm là nó dựa


vào lời đọc/ mời đến thánh đường làm lễ (Azan),
từ đó sáng tạo ra những giai điệu hình thành nên
nhiều bài hát truyền thống. Từ những yếu tố,
chúng tôi nghiên cứu các thanh âm Azan như sau:


Qua thang âm được ghi nhận từ Azan, chúng ta có được thang âm so sánh gần như tương đồng.
Đó là thang âm quốc tế Hungarian (Minor).


Theo chúng tơi tìm hiểu và sưu khảo được, hiện
nay có khoảng trên dưới 05 bài được cho là nhạc
truyền thống của người Chăm An Giang, gồm:
- 02 bài được hát trong đám cưới;


- 01 bài hát ru con;
- 01 bài hát cầu an;



- 01 bài hát mừng nhà mới.


Bài hát đầu tiên, là bài hát <i>Iniganhtanh </i>(Đưa rễ).
Bài hát này được hát suốt thời gian khi chú rể
cùng đoàn nhà trai xuất hành sang nhà gái để trao
quà cưới và ra mắt chú rể. Sau khi đã thỏa thuận
hai bên nhà trai và nhà gái tất cả cùng vui vẻ hát
bài <i>Niganhtanh</i> để chúc cho cô dâu và chú rể
được bên nhau mãi mãi.


</div>

<!--links-->

×