Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ - Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Tp. Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.89 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>V</b>

<b>A</b>


<b>1. Thể thơ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ </b>


C

ũng như ca dao nhiều vùng khác, ca
dao - dân ca xứ Nghệ sử dụng hầu
hết các thể thơ dân tộc, từ thể thơ
hai chữ, ba chữ, bốn chữ, năm chữ, đến thể lục
bát, song thất lục bát và thể tự do, trong đó, có
lẽ ấn tượng nhất là thể thơ năm chữ. Hát Dặm
Nghệ - Tĩnh với thể năm chữ (thơ ngũ ngôn)
độc đáo, không chỉ là “đặc sản” của riêng vùng
Nghệ - Tĩnh, mà còn là hiện tượng “độc nhất vô
nhị” trong kho tàng ca dao của dân tộc.


Chúng tôi đã lập bảng so sánh tỷ lệ phần
trăm của việc sử dụng các thể thơ giữa ca dao
- dân ca xứ Nghệ với dân ca Thanh Hoá, Hà Bắc
(từ các tuyển tập: <i>Kho tàng ca dao xứ Nghệ; </i>
<i>Dân ca Thanh Hố; Hát ví đồng bằng Hà Bắc</i>).


Kết quả cho thấy: từ Thanh Hoá trở ra, người
dân ưa dùng lục bát chính thể, trong khi đó
ca dao - dân ca xứ Nghệ sử dụng lục bát biến
thể khá nhiều, trung bình bốn bài lại có một
bài biến thể, thơ tự do cũng chiếm tỷ lệ không
nhỏ, (gấp đơi so với Thanh Hố và Bắc Bộ). Từ
những biểu hiện trên có thể thấy: Sự xuất hiện
khá đậm nét của lục bát biến thể và thơ tự do
đã khiến cho ca dao - dân ca xứ Nghệ ít nhiều
mang một kiểu dáng mới, ít chuẩn mực, ít trau
chuốt mà phần nào đã thiên về sự phóng túng.


Đó là một nét khác biệt lớn của ca dao - dân ca
vùng này so với các tỉnh phía ngồi. Như thế
cũng có nghĩa là đối với người xứ Nghệ, cái thể
thơ lục bát “anh minh” và từng đạt đến vinh
quang tột đỉnh, tuy vẫn giữ vị trí chủ yếu trong


<b>THỂ THƠ VÀ NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG CÂU CHỮ </b>


<b>TRONG CA DAO - DÂN CA XỨ NGHỆ</b>



<b>HỒ THỊ THU HÀ</b>
<b>Tóm tắt</b>


<i>Một trong những yếu tố nghệ thuật của thi luật trong ca dao - dân ca xứ Nghệ là thể thơ và cách sử </i>
<i>dụng câu chữ. Là sản phẩm của một vùng địa - văn hoá đặc biệt, vùng đất ln ln có những va đập </i>
<i>dữ dội và khốc liệt, ca dao - dân ca xứ Nghệ mang một dáng nét có phần khác lạ so với vẻ óng ả, mẫu </i>
<i>mực của ca dao - dân ca đồng bằng Bắc Bộ bởi sự đột phá khi sử dụng thể thơ, sự phóng túng về số </i>
<i>lượng âm tiết. Chính sự phá cách táo bạo đó đã khiến ca dao - dân ca vùng này tuy giống như những </i>
<i>viên đá ong xù xì, ít mượt mà, dun dáng, ý nhị, nhưng lại có khả năng biểu đạt những xúc cảm mạnh </i>
<i>mẽ nhất. </i>


<b>Từ khóa: </b>Thể thơ, ca dao dân ca, xứ Nghệ


<b>Abstract</b>


<i>One of the artistic elements of the prosody in folk songs - fold ballads of Nghe region is style of </i>
<i>poetry and the usage of words. As a product of a special geo- culture area, which always has fierce </i>
<i>and formidable collisions, folk songs and fold- ballads of Nghe region have an unfamiliar appearance </i>
<i>compared to the shiny, exemplary of folk songs and fold-ballads in the Northern Delta because of a </i>
<i>breakthrough when using a style of poetry, the liberation of the number of syllables. It was the daring </i>
<i>break that made the folk songs - fold ballads of Nghe region have the ability to express the strongest </i>


<i>motion, although they like rough laterite, less smooth, less charming and delicate.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>V</b>

Ă N HÓ

<b>A</b>



sáng tác ca dao, nhưng đã phần nào phải “e dè”
trước sự công phá khá mạnh mẽ của lục bát
biến thể và thơ tự do.


Ngoài ra, chúng tơi cũng thấy có hiện tượng
khá đặc biệt với thể song thất lục bát. Nét đặc
biệt thứ nhất được thể hiện ở việc lấy hai câu
lục bát của khổ trên nối với hai câu thất của
khổ dưới và kết thúc ở đó. Ví dụ:


<i>Đi ra thiên hạ mà coi</i>


<i>Không đâu bằng đất Quỳnh Đôi nữa mà</i>
<i>Trai miệt mài bút nghiên thi cử</i>


<i>Gái quen nghề tơ lụa vá may</i>


Trong trường hợp này, nếu ta thêm hai câu
thất vào trên hai câu lục bát và thêm hai câu
lục bát vào dưới hai câu thất, thì ta sẽ có hai
khổ thơ song thất lục bát hồn chỉnh. Chúng
tơi cho rằng kiểu này có thể là một biến thể
của song thất lục bát, không phải là biến thể
về số lượng âm tiết mà là biến thể theo cách
bỏ hai câu 7 đầu đi, chỉ để lại hai câu lục bát và
hai câu lục bát này lại nối với hai câu 7 của một


khổ khác, rồi kết thúc ở đó mà lẽ ra sau hai câu
7 này phải có hai câu lục bát nữa.


Nét đặc biệt thứ hai được thể hiện ở chỗ
một khổ song thất lục bát nhưng lại chỉ có 3
câu. Với loại này, có thể gọi là biến thể câu. Ví
dụ:


<i>- Em về thưa với thầy se sẽ</i>
<i>Thưa với mẹ cho rõ ràng</i>


<i>Cho em vô một ngõ, ra một đàng với anh.</i>
<i>- Ngọn đèn thương ai mà ngọn đèn không tắt</i>
<i>Nước mắt thương ai mà nước mắt lâm ly</i>
<i>Khăn điều đây ơ bạn, lấy lau đi kẻo buồn</i>


Sở dĩ chúng tôi xếp những bài ca trên vào
thể song thất lục bát bởi căn cứ vào cách gieo
vần thì câu thứ 2 trong các ví dụ trên vừa có
tính chất là của câu 7 thứ 2, lại vừa có tính chất
là của câu 6 thứ 3 trong một khổ thơ lục bát.


Trước đây, khi nói đến biến thể, người ta chỉ
nghĩ đến sự thay đổi về số lượng âm tiết mà
không bàn kỹ về việc tại sao lại xem một bài
cụ thể nào đó là biến thể của thể thơ này hay
là biến thể của thể thơ khác. Vậy, chính thể và
biến thể là gì? Một bài ca dao được coi là chính


âm tiết phải đúng với số lượng âm tiết chuẩn;


2) Số lượng các câu trong một khuôn khổ cũng
phải phù hợp với số lượng các câu trong một
khổ chuẩn; 3) Vần phải bảo đảm quy tắc bằng
trắc ở vị trí chuẩn.


Trên các chuẩn đó chúng tơi xem xét biến
thể những trường hợp sau: 1) Số lượng âm tiết
ít hoặc nhiều hơn số lượng âm tiết chuẩn; 2)
Câu có thể nhiều hơn hoặc ít hơn số lượng câu
trong một khổ; 3) Vị trí gieo vần khơng cịn ở
vị trí chuẩn.


Vậy, muốn xác định được một bài ca dao là
biến thể của thể thơ nào thì phải căn cứ vào
các dấu hiệu lệch chuẩn. Ví dụ bài ca dao sau
đây của xứ Nghệ:


<i>Đường đi loanh quanh ngoắt ngoéo</i>
<i>Đường đi lắt léo chân trâu</i>
<i>Em có chồng rồi anh chẳng dám nhìn lâu</i>


<i>Anh nhìn qua một tý để bán sầu mua vui</i>


Trong bài này, tuy câu 1 là 6 chữ, câu 3 là
9 chữ, câu 4 là 10 chữ nhưng chúng tôi cho
rằng đây là biến thể của thể song thất lục bát
bởi những lý do sau đây: Thứ nhất, khổ thơ 4
câu như là một khổ của khổ thơ song thất lục
bát. Thứ hai, mặc dầu số lượng âm tiết khơng
chuẩn nhưng vị trí gieo vần và vần lại phù hợp


với vị trí gieo vần của thể song thất lục bát. Tức
là trong thơ song thất lục bát, vần trắc là vần
chân ở câu thứ nhất, vần trắc là vần lưng ở câu
thứ hai và vần bằng là ở cuối câu thứ hai. Vần
bằng này lại được gieo vần chân của câu thứ
ba (câu lục), và vần chân của câu thứ ba lại trở
thành vần lưng của câu cuối cùng ở vị trí vần
lưng câu bát.


Dựa vào các tiêu chuẩn trên, chúng tôi sẽ
xem xét các biến thể trong khn khổ một thể
thơ nào đó.


<b>2. Nghệ thuật sử dụng câu chữ trong các </b>
<b>thể thơ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>V</b>

<b>A</b>



Hát Dặm là một di sản dân ca còn bảo lưu
nhiều dấu vết cổ xưa. Dấu vết này không chỉ
thể hiện ở thể thơ 5 chữ vốn là một hình thức
câu thơ ra đời rất sớm mà còn thể hiện ở hiện
tượng láy lại câu thơ cuối mỗi khổ một cách
đặc biệt. Điều này khiến ta không thể không
đưa ra giả thiết: phải chăng giữa thể Dặm và
sử thi cổ sơ sáng thế của người Mường có một
sự ảnh hưởng qua lại. Trong sử thi <i>“Đẻ đất đẻ </i>
<i>nước”,</i> mỗi đoạn thơ trong đó thường sử dụng
lối điệp câu, câu trên câu dưới chỉ khác nhau
một vài từ kiểu như của hát Dặm, điểm khác


biệt là hát Dặm láy lại ở cuối khổ thơ, còn sử thi
Mường vị trí láy lại khơng cố định.


Hát Dặm:


<i>Cầm lấy đũa đũa rớt</i>
<i>Cầm lấy đọi đọi rơi</i>
<i>Ra ngóng đất ngó trời</i>
<i>Cứ ra vô trông đợi</i>
<i>Cứ ra vào trông đợi</i>


Đẻ đất đẻ nước:


<i>- Ngày xưa ngày ấy</i>
<i>Dưới đất chưa có đất</i>
<i>Trên trời chưa có trời</i>
<i>Trên trời chưa có ngơi sao đo đỏ</i>
<i>Dưới đất chưa có ngọn cỏ xanh xanh</i>


<i>- Con người ngày đó</i>
<i>Chưa có chưa nên</i>
<i>Thứ gì cũng chưa có chưa nên</i>


Một trong những đặc trưng làm nên “hồn
cốt” của hát Dặm là thể thơ 5 chữ, nhưng với
bản tính ưa phá cách, thi sĩ bình dân xứ Nghệ
đã cho ra đời nhiều bài Dặm thoát ra khỏi sự
mẫu mực, câu thơ có khi chỉ có 4 chữ, có khi lại
kéo dài đến 6,7,8 chữ. Những câu như vậy có
thể ở bất kỳ một vị trí nào trong bài, tùy theo


yêu cầu của ý mà phát triển hoặc thu gọn. Đó
là trường hợp những bài Dặm biến thể:


- Dạng thiếu về chữ:


<i>Sinh ra cái buổi</i>
<i>Việc cơ cận tại trời</i>
<i>Nói một chút mà chơi</i>
<i>Ăn vào rồi cũng đói</i>


<i>Trở dậy giục vợ: “Nấu ăn thì vừa”</i>
<i>Đàn bà lại nói: “Đã đáng chưa</i>
<i>Gạo đang lưa (cịn) tơi tím gan khơng nấu</i>


<i>Gạo đang cịn, tơi bầm gan khơng nấu”</i>


- Có khi vừa thiếu chữ vừa thừa chữ:


<i>Gạo thời có gạo</i>
<i>Cơm thời có cơm</i>
<i>Chứ khơng phải cúng đơm</i>
<i>Mà mua đôi ba quan tiền thịt</i>


Trong hát Dặm, dạng thừa chữ rất phổ biến.
Nhìn chung, hát Dặm đã thể hiện sự phóng
túng vơ chừng của người xứ Nghệ trong sáng
tạo thơ ca, khơng chỉ phóng túng trong việc
sử dụng câu chữ mà còn ở việc sử dụng số câu
trong một khổ. Chuẩn mực, một khổ hát Dặm
là 5 câu, nhưng có khi, trong một khổ lại lên tới


10 câu, thậm chí 20 câu, hoặc hơn thế nữa…


<i><b>2.2. Nghệ thuật sử dụng câu chữ trong thể </b></i>
<i><b>lục bát</b></i>


Theo thống kê của chúng tôi, trong số 197
bài lục bát biến thể, có tới 32 dạng biến thể
(xét về số lượng âm tiết). Những dạng biến thể
này có cả ở hai câu nhưng nếu xét về độ đậm
đặc của tính chất “mất ổn định” thì đặc biệt
phải xem xét ở câu bát. Cụ thể:


- Các dạng biến thể đơn (một bài chỉ có hai
câu): Biến thể 6/7 (câu lục 6 chữ, câu bát 7 chữ);
biến thể 7/8, 9/8; 6/9; 7/9; 8/9; 5/10; 6/10; 9/10;
6/11; 8/11; 10/11; 6/12; 7/12; 9/12; 8/15.


- Các dạng biến thể hỗn hợp (trong một bài
ca dao có nhiều biến thể, những bài này phải
từ 4 câu trở lên): Biến thể 6/9 và 6/13; biến thể
7/8 và 6/10; biến thể 7/9 và 6/10; biến thể 8/10
và 9/10; biến thể 7/11 và 10/13; biến thể 6/11
và 8/15; biến thể 6/13 và 6/10; biến thể 7/10 và
8/9; biến thể 6/11 và 8/8; biến thể 6/9 và 6/10;
biến thể 8/8 và 8/9; biến thể 7/9 và 8/11.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>V</b>

Ă N HĨ

<b>A</b>



khi đó, khảo sát 41 trường hợp biến thể trong
dân ca Hà Bắc ta thấy chỉ có 2 dạng biến thể ở


câu bát: biến thể 6/9 và 6/10, chỉ có mặt trong
2 bài, chiếm 4,9%, còn lại phần lớn là biến thể
ở câu lục, với 39 bài, chiếm 95,1%. Như vậy, ở
ca dao xứ Nghệ, số lượng các dạng biến thể
phong phú hơn rất nhiều so với dân ca Hà Bắc
(32 dạng/6 dạng).


Trong các biến thể của ca dao - dân ca xứ
Nghệ, số lượng âm tiết thường nhiều hơn so
với biến thể của dân ca Hà Bắc. Ở Hà Bắc, qua
tài liệu mà chúng tôi đã khảo sát, trong các bài
lục bát biến thể khơng có trường hợp nào câu
kéo dài 11,12,13, thậm chí 16 chữ như của xứ
Nghệ.


Trên đây là những điểm khác biệt của việc
sử dụng số chữ trong câu thơ lục bát biến thể
giữa ca dao - dân ca xứ Nghệ và dân ca đồng
bằng Bắc Bộ. Thiết nghĩ, đó cũng chính là một
nét độc đáo trong đặc điểm nghệ thuật của thi
ca bình dân vùng này.


<i><b>2.3. Nghệ thuật sử dụng câu chữ trong thể </b></i>
<i><b>song thất lục bát</b></i>


Trong câu thơ song thất lục bát của ca dao
- dân ca xứ Nghệ, ta thấy có những trường hợp
sau:


- Dạng thiếu chữ ở câu song thất và thừa


chữ ở câu lục bát:


<i>Đường đi loanh quanh ngoắt ngoéo </i>(6 chữ)


<i>Đường đi lắt léo chân trâu </i>(6 chữ)


<i>Em có chồng rồi anh chẳng dám nhìn lâu </i>(9
chữ)


<i>Anh nhìn qua một tý để bán sầu mua vui </i>


(10 chữ)


- Hai câu thất giữ nguyên, biến thể 2 câu
lục bát:


<i>Đường đi ra thì gặp giặc giã </i>(7 chữ)


<i>Đường rẽ ngã thì gặp vua quan</i> (7 chữ)


<i>Cô quạnh thân em không chú bác họ hàng </i>


(9 chữ)


<i>Đi theo chàng có đặng hỡi chàng chàng ơi </i>(9
chữ)


- Giữ nguyên câu thất thứ 2, còn lại cả 3 câu


<i>Công mô mà công, nợ mô mà nợ </i>(8 chữ)



<i>Anh cứ về cưới vợ cho xinh</i> (7 chữ)


<i>Hai đứa ta kề gối tang tình</i> (7 chữ)


<i>Ví dù cơng nợ hai đứa mình trả chung </i>(9 chữ)
- Cả bốn câu đều thêm chữ:


<i>Cơm ăn hai bát, bát ăn bát để</i> (8 chữ)


<i>Đũa so hai đôi, đôi đứng đôi nằm</i> (8 chữ)


<i>Dẫu thầy mẹ đánh chín chục một trăm </i>(8 chữ)


<i>Đập rồi lại dậy, quyết nhất tâm em lấy chàng </i>


(10 chữ)


Nhìn chung, khi sử dụng thể song thất
lục bát, người xứ Nghệ thiên về sự phá cách.
Dường như cái tính chất sang trọng của thể
thơ này khơng hẳn đã thích hợp với cốt cách
người xứ Nghệ, và việc ưa sử dụng song thất
lục bát biến thể cốt để làm giảm bớt tính chất
sang trọng, q phái đó. Câu thơ song thất lục
bát trong ca dao - dân ca xứ Nghệ vì thế mà trở
nên mộc mạc hơn, dân dã hơn.


<i><b>2.4. Nghệ thuật sử dụng câu chữ trong thể </b></i>
<i><b>tự do</b></i>



Ấn tượng mà thể thơ tự do trong ca dao -
dân ca xứ Nghệ mang lại là ở chỗ: đa phần các
bài ca dao theo thể này đều chịu ảnh hưởng
của hình thức câu thơ hát Dặm, nghĩa là câu
thơ 5 chữ được sử dụng khá rộng rãi. Cho dù
trong bài thơ có nhiều thể được sử dụng thì
câu thơ 5 chữ vẫn giữ vị trí “trụ cột”. Ví dụ:


<i>Đêm qua tôi lên ông trời</i>


<i>Chộ (thấy) ơng Nguyệt lão đang ngồi xe dây</i>
<i>- Ơng ơi xe chi đó mà xe</i>


<i>Ơng có xe dun</i>
<i>Để tơi ngồi tơi đợi</i>
<i>- Con ơi con đừng vội</i>


<i>Con đừng có mà lo</i>
<i>Ơng xe rồi ơng lại xe cho</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>V</b>

<b>A</b>



là trong bài ca đó, xuất hiện vài ba câu 5 chữ,
trơng giống như hát Dặm. Ví dụ:


<i>Trăng khi mờ khi tỏ</i>
<i>Nước khi nhỏ khi to</i>
<i>Anh u em khơng kể đói no</i>
<i>Thu đơng xn hạ biết chừng mơ mà lường.</i>



Có lẽ, thể Dặm với câu thơ 5 chữ đã ăn sâu
vào tiềm thức dân gian, có một sức sống quá
mãnh liệt, khiến nó có thể chi phối mọi cảm
quan sáng tạo thơ ca của người xứ Nghệ. Đối
với các thể thơ khác, có niêm có luật rõ ràng
thì khơng thể, cịn riêng đối với thể tự do, một
thể thơ được cho là phóng túng bậc nhất, bài
nào mà chưa có một vài câu 5 chữ của Dặm
thì dường như là người Nghệ chưa thoả lòng.
Cũng giống như trong bữa ăn của họ, chưa có
món cà mặn, món nhút, chút tương, thì bữa ăn
đó như đang cịn “thiếu thiếu” một cái gì đó…
<b>3. Giá trị biểu đạt của nghệ thuật sử dụng </b>
<b>câu chữ trong các thể thơ</b>


Qua việc thống kê, khảo sát, mô tả ở trên,
chúng ta thấy rất rõ là các thi sĩ bình dân xứ
Nghệ đã thể hiện một cách tài tình khả năng
sáng tạo những nét độc đáo, khác lạ trên cơ
sở các thể thơ truyền thống. Yếu tố thi luật này
đã trở thành một phương tiện nghệ thuật đắc
dụng, có ý nghĩa to lớn trong việc phô diễn
những tư tưởng, tình cảm cũng như tính cách
ít nhiều riêng biệt của người Nghệ - Tĩnh.


<i><b>3.1. Giá trị biểu đạt của nghệ thuật sử </b></i>
<i><b>dụng câu chữ trong thể 5 chữ hát Dặm</b></i>


Có thể thấy sự “xâm lược” của văn xi, của


yếu tố cốt truyện vào hát Dặm là rất rõ. Vì thế
trong hát Dặm, phẩm chất nổi bật của nó là
tính tự sự. Kể lể khun răn, phân trần bày giải,
nói kỹ từng việc, từng hành động, cả trình tự
diễn biến của khơng gian và thời gian, giống
như tô màu một bức tranh, cứ tơ thêm, tơ đậm
thêm mãi… Tính chất này thấm đẫm trong
hầu như tất cả các bài hát Dặm, nhất là đối với
những bài dài dằng dặc có nhiều khổ thơ, có
sự biến thể thừa về số dòng trong một khổ
cũng như số lượng âm tiết trong một dịng…


chính phương pháp kể chuyện mộc mạc, thủ
thỉ, hình ảnh cụ thể, sống động, với những
ngơn từ dịu dàng mà thấm thía đã làm nên sức
lôi cuốn đặc biệt cho hát Dặm Nghệ - Tĩnh.


<i><b>3.2. Giá trị biểu đạt của nghệ thuật sử </b></i>
<i><b>dụng câu chữ trong thể lục bát và song thất </b></i>
<i><b>lục bát</b></i>


Thể lục bát với vần lưng nổi tiếng đã “mặc
sức tung hoành” trong địa hạt ca dao hàng bao
thế kỷ mà khơng một thể thơ nào khác có thể
đánh bại được. Cho dù “khí chất” mỗi vùng mỗi
khác, nhưng với những tố chất tuyệt vời sẵn có,
thì dù là miền Bắc, miền Trung hay miền Nam,
thể lục bát cũng vẫn phát huy hết sức mình
thoả mãn mọi yêu cầu trong sáng tạo, trong
thưởng thức. Ca dao xứ Nghệ cũng không phải


là trường hợp ngoại lệ. Ấn tượng tổng thể thì
có vẻ không được đặc sắc so với ca dao đồng
bằng Bắc Bộ, nhưng trong ca dao Nghệ - Tĩnh
cũng không hiếm những câu đã trở nên bất tử.
Chỉ với hai câu ca dao này thôi: <i>“Thấy anh như </i>
<i>thấy mặt trời/Chói chang khó ngó, trao lời khó </i>
<i>trao”</i> cũng đã đủ thấy cái “thẩn” thơ của người
dân xứ Nghệ kỳ diệu đến mức nào, không phải
ngẫu nhiên mà bài ca dao này lại có một sức
sống, một sức lan tỏa, một sức chinh phục với
muôn người đến vậy, đến mức tài thơ Xuân
Diệu cũng phải ngẩn ngơ, luận bàn...


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>V</b>

Ă N HĨ

<b>A</b>



thể khơng xem xét đến ngun nhân điều kiện
địa lý, khí chất tâm hồn của những con người
sống trên mảnh đất này.


Tuy “tố chất vùng” hay “khí chất con người”
ở một vùng lãnh thổ chỉ là một nhân tố phụ,
nhưng nó cũng góp phần không nhỏ để bổ
sung và tô thêm những đường nét cụ thể trên
diện mạo một nhân cách sáng tạo, một tập thể
sáng tạo. Người Nghệ nói riêng và người Việt
miền Trung nói chung, cùng huyết thống với
dân cư đồng bằng sông Hồng, cùng một dịng
văn hố lịch sử với cộng đồng người Việt. Có
điều, cái làm nên những khác biệt là ở tính chất
ít nhiều riêng biệt của người dân vùng này, do


cuộc sống lịch sử thế hệ nọ nối tiếp thế hệ kia
phải luôn luôn ở vào thế đối chọi. Sống, với họ,
thực sự là một cuộc đấu tranh không ngừng.
Cho nên điều dễ dàng nhận thấy trong thực
tế là người vùng này riết róng, quyết liệt, táo
bạo và cực đoan hơn hẳn dân xứ Bắc. Và chính
cái tính cách táo bạo, cực đoan ấy lại rất cần
thiết cho sáng tạo thơ ca. Khn khổ lục bát 14
chữ mang tính chất vĩnh hằng trong lục bát và
song thất lục bát đã khơng cịn là một khn
khổ tuyệt đối ưu việt đối với người xứ Nghệ.
Sự phá vỡ khuôn mẫu cổ điển của thơ lục bát
và song thất lục bát chính là một sự sáng tạo,
một sự đột phá của các thi sĩ bình dân xứ Nghệ
trong lĩnh vực thơ ca. Đối với người dân Bắc
Bộ, đời sống của họ có phần ổn định hơn, dễ
chịu hơn, cho nên nếp cảm, nếp nghĩ cũng ít bị
biến động. Điều đó phần nào đã chi phối đến
lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật của họ: nề nếp
hơn, và dường như cũng bảo thủ hơn.


Tất nhiên, khi xem xét hiện tượng kéo dài
âm tiết trong câu thơ của ca dao - dân ca xứ
Nghệ, chúng ta cũng không thể không xét đến
sự chi phối của giai điệu âm nhạc đối với lời
của bài ca. Trong hát Ví Nghệ - Tĩnh, giai điệu
bài hát thường có tính chất đay, da diết, sâu
lắng. Câu thơ trong ca dao xứ Nghệ thường
được mở rộng lượng âm tiết, rất có thể là để
uốn theo giai điệu trong hát Ví Nghệ - Tĩnh.


(Nguyên nhân này đúng với những bài lục bát
biến thể thuộc về hát Ví).


Trong ca dao xứ Nghệ, sự phá bung khuôn
khổ thơ lục bát và song thất lục bát khơng
những có giá trị “tạo dáng” cho câu thơ thêm
phần khác lạ, mà nó cịn đem lại những hiệu
quả thẩm mỹ mới mẻ. Thơ, dĩ nhiên, là thể cô
đọng nhất của văn chương. “Thơ phải được ý ở
ngoài lời. Trong thơ hàm súc vơ cùng thì mới là
tơn chỉ của người làm thơ” (Ngô Lôi Pháp). Vậy
tại sao người xứ Nghệ lại cứ ưa lối kéo dài câu
thơ ra? Câu thơ lục bát của họ, đặc biệt là câu
bát, có khi lên tới 16 âm tiết trải dài, thật sự đã
khơng bình thường nữa. Có lẽ cái ý thích “nói
cái gì cũng phải nói đến tận cùng, cho đã đời”
của người xứ Nghệ đã ảnh hưởng đến điều
này. Cũng có lẽ, những cam go, khắc nghiệt
trong cuộc sống đã biến thành những tấn bi
kịch trong tâm hồn, cho nên, họ đã xem nghệ
thuật như là một sự cứu rỗi có thể giúp họ giải
tỏa những uất ức, những thống khổ trong
lịng. Và, để thực hiện được nhu cầu hóa giải
đó, bao giờ mà chẳng dẫn đến hiện tượng “lắm
lời”. “Nói cho đã” chính là phương sách để có
thể vơi đi những niềm bức xúc, để cất đi những
nỗi buồn đè nặng tâm tư. Chính vì vậy khuôn
mẫu cổ điển của thơ lục bát và song thất lục
bát dường như trở nên quá tù túng, khơng đủ
để giãi bày tình cảm, và người xứ Nghệ thấy


rằng cần phải phá bung nó ra.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>V</b>

<b>A</b>



được thể hiện bằng hàng loạt từ ngữ vào một
vài từ (có khi ở ngay sự ngưng nghỉ bất thường
trong trường hợp thiếu vắng một hoặc hai âm
tiết trong những câu biến thể).


Bài ca dao xứ Nghệ sau đây:


<i>Muối ba năm muối đang còn mặn</i>
<i>Gừng chín tháng gừng hãy cịn cay</i>


<i>Đơi ta tình nghĩa nặng dày</i>


<i>Dù có xa nhau đi chăng nữa thì ba vạn sáu </i>
<i>ngàn ngày cũng nỏ xa</i>


So với bài ca dao Bắc Bộ:


<i>Tay bưng đĩa muối chén gừng</i>
<i>Gừng cay muối mặn xin đừng qn nhau</i>


Có thể thấy, câu Ví xứ Nghệ dường như đã
mượn ý của câu này mà dàn trải ra. Chính sự
dàn trải đó đã mang đến cho người đọc cái ấn
tượng không thể quên được. Là vì ở câu ca dao
Bắc Bộ có nói đến vị mặn của muối, vị cay của
gừng, nhưng nói như vậy là để dặn dị nhau


phải chung thuỷ dù có trải qua bao nhiêu nỗi
cay đắng của cuộc đời. Ca dao xứ Nghệ không
chỉ nói thuộc tính của gừng là cay, của muối là
mặn, mà cái độ bền của cay mặn mới là điều họ
cần nói, để từ đó mà nói lên chuyện quên hay
không quên phải phụ thuộc vào sự thử thách
của thời gian. Cái nội dung độ dài của thời gian
mới là điều cần thiết. Và người xứ Nghệ phải
tìm hết cách để đưa cái độ dài thử thách đó
vào ca dao của mình. Sự dồn lời ở câu tám cuối
cùng là kết quả của sự “đẻ đau” những tình ý
chất chứa trong lòng những kẻ say nhau. Bởi
vậy, câu bát trải dài đến 16 chữ khiến cho bài
thơ có một sự vang vọng, khiến cho tình ý như
được xốy sâu hơn, tha thiết, diết da vơ chừng.
Lối diễn đạt kéo dài “dù có xa nhau đi chăng
nữa thì ba vạn sáu ngàn ngày” sau khi gây
được cảm giác rất xa lại được phủ nhận bằng
một kết luận đột ngột: “cũng nỏ xa” đã khiến
cho ý nghĩa khẳng định được tăng lên, nhờ đó
mà tấm chân tình sắt son kia dường như trở
thành bất tử...


Như vậy, cùng sử dụng những biểu tượng
nghệ thuật truyền thống “muối mặn”, “gừng
cay”, nhưng cách diễn đạt của bài ca dao xứ


trải dài, ca dao Nghệ - Tĩnh đã tạo thêm cho ý
thơ những chiều kích mới: chiều dài của thời
gian, chiều sâu của tâm tư và dàn trải trong


chiều rộng nhập nh của ngữ nghĩa. Chính
điều đó làm nên sức ngân vang sâu thẳm lâu
bền cho bài ca dao. Ở đây, chúng ta bắt gặp
hiện tượng sáng tạo lại các thi liệu vay mượn.
Ca dao Nghệ - Tĩnh đã sáng tạo lại các thi liệu
“gừng cay”, “muối mặn” của ca dao Bắc Bộ theo
cách thức của riêng mình.


<i><b>3.3. Giá trị biểu đạt của nghệ thuật sử </b></i>
<i><b>dụng câu chữ trong thể tự do</b></i>


Bên cạnh những ưu điểm, thơ lục bát có
những hạn chế nhất định trong việc biểu
hiện cái quyết liệt sôi nổi của hiện thực khách
quan. Cuộc sống với tất cả những sự kiện bề
bộn, những chất liệu phong phú và sắc thái đa
dạng nhất cũng gặp khó khăn khi đưa vào thể
lục bát hay song thất lục bát. Chính vì vậy mà
có sự xuất hiện của thể thơ tự do trong thơ ca.
So với các thể thơ truyền thống, thơ tự do có
điều kiện thuận lợi và khả năng để bảo lãnh
cảm hứng và chất liệu thi ca nói trên hơn. Và
các tác giả bình dân xứ Nghệ đã tận dụng tính
ưu việt này để sáng tạo những bài thơ mang
phong cách phóng túng. Chẳng hạn như bài
ca dao sau đây:


<i>Cha mẹ có cản đường bắc</i>
<i>Thì ta rẽ ngoặt đường nam</i>
<i>Cha mẹ có cản đường nam</i>


<i>Thì ta rẽ sang đường bắc</i>


<i>Ví dù có trục trặc cả đường bắc lẫn đường nam</i>
<i>Thì xúm tay ta nhen lửa đốt cả xóm làng ta đi.</i>


</div>

<!--links-->

×