Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.14 MB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>VJE</b> Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 289-292
289
Nguyễn Trọng Khanh - Nguyễn Thị Thanh Huyền
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
<i>Ngày nhận bài: 25/03/2019; ngày sửa chữa: 10/04/2019; ngày duyệt đăng: 17/04/2019. </i>
<b>Abstract: </b>The new general education curriculum will be implemented from the school year
2020-2021, starting from first grade, in a rolling form in each level of education until the school year
2024-2025 it will be implemented a new curriculum for all 12 classes of general education.
However, since then, it raises the problem that there will be 7 grade blocks will study the old
(current) curriculum and other grades study new curriculum. This raises the task for education
managers, schools and teachers to study to take measures to overcome this problem. The article
analyzes the difficulties that arise when implementing the new general education curriculum and
proposes remedies.
<b>Keywords:</b> General education, curriculum, subject, educational activity.
<b>1. Mở đầu </b>
Theo kế hoạch đã được Quốc hội thơng qua, chương
trình giáo dục phổ thơng (GDPT) mới được thực hiện từ
năm học 2020-2021, bắt đầu từ lớp 1, theo hình thức
“cuốn chiếu” với từng cấp học [1]. Việc thực hiện “cuốn
chiếu” theo từng cấp học sẽ rút ngắn thời gian triển khai
toàn bộ chương trình nhưng sẽ có tình trạng học sinh 7
khối lớp sẽ phải học một giai đoạn theo chương trình cũ
(hiện hành) [2] và một giai đoạn theo chương trình mới
Bài viết phân tích khó khăn sẽ nảy sinh khi triển khai
thực hiện chương trình GDPT mới và đề xuất biện pháp
khắc phục.
<b>2. Nội dung nghiên cứu </b>
<i><b>2.1. Khó khăn nảy sinh khi triển khai thực hiện </b></i>
<i><b>Chương trình giáo dục phổ thông mới </b></i>
Ngày 21/11/2017, Quốc hội ban hành Nghị quyết
51/2017/QH14 về điều chỉnh lộ trình thực hiện chương
trình, sách giáo khoa GDPT mới [1]. Theo đó, điều chỉnh
thời gian bắt đầu triển khai áp dụng chương trình, sách
giáo khoa GDPT mới, đảm bảo tuần tự trong từng cấp học,
chậm nhất từ năm học 2020-2021 đối với lớp đầu cấp của
cấp tiểu học, từ năm học 2021-2022 đối với lớp đầu cấp
của cấp trung học cơ sở (THCS) và từ năm học 2022-2023
đối với lớp đầu cấp của cấp trung học phổ thông (THPT).
Ngày 26/12/2018, Bộ GD-ĐT công bố ban hành
chương trình GDPT tổng thể [3] và chương trình giáo
dục các mơn học hoặc hoạt động giáo dục [4]. Đồng thời,
Bộ cũng công bố Chương trình GDPT mới sẽ bắt đầu
<i>Bảng 1 cho thấy việc thực hiện chương trình GDPT </i>
mới được triển khai theo hình thức “cuốn chiếu” theo
từng cấp học. Năm học 2020-2021 chỉ có lớp 1 bắt đầu
thực hiện theo chương trình giáo dục và sách giáo khoa
mới; năm học 2021-2022 sẽ có 3 lớp thực hiện là lớp 1,
lớp 2 và lớp 6. Cứ như vậy, đến năm học 2024-2025 thì
tồn bộ 12 khối lớp đều thực hiện chương trình giáo dục
và sách giáo khoa mới.
<i>Bảng 1. Kế hoạch triển khai thực hiện chương trình GDPT mới </i>
<i>Năm học </i> <i>Lớp triển khai thực hiện chương trình GDPT mới </i>
2020-2021 1
2021-2022 1 2 6
<b>VJE</b> Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 289-292
290
Với lộ trình như vậy, sẽ có 4 khối lớp mà học sinh sẽ
học chương trình cũ ở tiểu học và học chương trình mới
ở THCS và THPT; có 3 khối lớp mà học sinh sẽ học
chương trình cũ ở tiểu học và THCS nhưng lên cấp
THPT thì lại học theo chương trình mới. Có thể mơ tả
như trên bảng 2.
Qua mơ tả trên bảng 2, có thể chia các khối lớp ra 3
nhóm:
- Nhóm 1: gồm những khóa bắt đầu học lớp 1 trong
những năm học 2013-2014, 2014-2015 và 2015-2016.
Nhóm này sẽ học theo chương trình hiện hành ở cấp tiểu
học và THCS, sau đó sẽ học theo chương trình GDPT
mới ở cấp THPT.
- Nhóm 2: gồm những khóa bắt đầu học lớp 1 trong
những năm học 2016-2017, 2017-2018, 2018-2019 và
2019-2020. Nhóm này sẽ học theo chương trình hiện
hành ở cấp tiểu học, sau đó sẽ học theo chương trình
GDPT mới ở cấp THCS và THPT.
- Nhóm 3: gồm những khóa bắt đầu học lớp 1 từ năm
học 2020-2021 trở đi. Nhóm này sẽ học tồn bộ theo
chương trình GDPT mới nên khơng cần phải chú ý đến
những điểm nêu ra dưới đây.
Sẽ không có gì q khó khăn đối với học sinh thuộc
nhóm 1 và 2 khi phải học theo cả hai chương trình nếu
như chương trình GDPT mới khơng có sự đổi mới nhiều
về cấu trúc chương trình các môn học hoặc hoạt động
giáo dục so với chương trình hiện hành. Tuy nhiên, với
tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện, với sự chuyển từ
dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng sang dạy học định
hướng phát triển năng lực và phẩm chất, với tinh thần kế
thừa truyền thống giáo dục trong nước và học tập kinh
GDPT mới có sự thay đổi cả về hướng tiếp cận, mục tiêu,
chương trình, nội dung và việc sử dụng sách giáo khoa.
So với chương trình hiện hành, chương trình GDPT mới
có mơn tích hợp, có hoạt động trải nghiệm, có chương
trình giáo dục địa phương, có mơn tự chọn,... Cấu trúc
mạch nội dung của từng môn học hoặc hoạt động giáo
dục, cấu trúc nội dung của các môn học khác nhau cũng
có sự thay đổi so với chương trình hiện hành. Điều đó có
thể sẽ dẫn tới hệ quả sau đối với những khóa học sinh
phải học theo cả hai chương trình:
<i>- Tình huống A: học sinh phải học một nội dung kiến </i>
<i>thức 2 lần: Ví dụ, với một mơn học nào đó, nội dung kiến </i>
thức A được dạy ở cấp tiểu học của chương trình hiện
hành nhưng ở chương trình mới thì được chuyển sang
dạy ở cấp THCS. Như vậy, những khóa học sinh thuộc
nhóm 2 sẽ phải học nội dung kiến thức A ở cả cấp tiểu
học (theo chương trình hiện hành) và ở cấp THCS (theo
chương trình mới).
- Tình huống B: học sinh khơng được học nội dung
<i>kiến thức có trong cả hai chương trình. Ví dụ, với một </i>
mơn học nào đó, nội dung kiến thức B, theo chương trình
hiện hành thì được dạy ở cấp THPT nhưng theo chương
trình mới thì chuyển xuống dạy ở cấp THCS. Như vậy,
những khóa học sinh thuộc nhóm 1 sẽ khơng được học
<i>- Tình huống C: học sinh thiếu kiến thức cơ sở để học </i>
<i>kiến thức mới. Ví dụ, với một mơn học nào đó, kiến thức </i>
C bao gồm C1 và C2, trong đó C1 là kiến thức cơ sở để
học kiến thức C2. Ở chương trình mới, kiến thức C1
được bố trí ở cấp THCS, kiến thức C2 được bố trí ở cấp
THPT. Cịn ở chương trình hiện hành, kiến thức C1 và
<i>Bảng 2. Những khối lớp học theo một hoặc hai chương trình </i>
<i>Năm học </i> <i>Lớp triển khai thực hiện chương trình GDPT mới </i>
2013-2014
2014-2015
2015-2016
2016-2017
2017-2018
2018-2019
2019-2020
2020-2021 <b>1 </b>
2021-2022 <b>1 </b> <b>2 </b> <b>6 </b>
<b>VJE</b> Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 289-292
291
C2 đều được bố trí ở cấp THPT. Như vậy, tương tự với
tình huống B, những học sinh thuộc nhóm 1 sẽ khơng
được học kiến thức cơ sở C1 (vì ở THCS - chương trình
Ví dụ với mơn Cơng nghệ:
+ Nội dung kiến thức về mạng điện trong nhà được đề
cập ở lớp 8 chương trình cũ và lớp 12 chương trình mới.
Như vậy, với những học sinh thuộc nhóm 1 (chỉ học chương
trình mới ở THPT) sẽ bị rơi vào tình huống A: học “Mạng
điện trong nhà” ở lớp 8 (chương trình cũ) và học “Hệ thống
điện trong gia đình” ở lớp 12 (chương trình mới).
+ Nội dung kiến thức về hoa, cây cảnh và trang trí
nhà ở bằng hoa và cây cảnh được dạy ở lớp 6 chương
trình cũ và lớp 3 chương trình mới. Như vậy, những học
sinh thuộc nhóm 2 (ở tiểu học thì học chương trình cũ,
cịn THCS và THPT thì học theo chương trình mới) sẽ bị
rơi vào tình huống B: khơng được học dù kiến thức này
có ở cả hai chương trình cũ và mới.
+ Nội dung kiến thức về quạt điện được dạy trong
chương trình hiện hành ở lớp 8, nhưng ở chương trình
GDPT mới thì được dạy ở lớp 3 và lớp 6. Như vậy, với
những học sinh thuộc nhóm 2 sẽ bị rơi vào tình huống C vì
ở chương trình mới, một phần nội dung ban đầu của quạt
điện ở lớp 6 sẽ khơng được dạy nữa vì đã được dạy ở lớp 3.
+ Nội dung kiến thức về “Thiết kế kĩ thuật” chỉ có ở
chương trình mới và được dạy ở các lớp 5, lớp 8 và lớp
10. Như vậy, với học sinh thuộc nhóm 1 và 2 sẽ bị rơi
vào tình huống C: khơng được học nội dung về thiết kế
Các tình huống nêu trên khơng chỉ gây khó khăn cho
học sinh mà ngay cả giáo viên khi tổ chức dạy học cũng
sẽ gặp khó khăn khi gặp phải các tình huống này. Vì vậy,
để đảm bảo cho những học sinh thuộc diện nhóm 1 và 2,
phải học cả chương trình hiện hành và chương trình mới,
các nhà giáo dục, nhà sư phạm,... cần phải có biện pháp
cụ thể để khắc phục được sự bất cập này. Và với lớp 6,
bắt đầu thực hiện chương trình mới từ năm học
2021-2022 nên việc tìm biện pháp và triển khai thực hiện phải
bắt đầu sớm nhất có thể.
<i><b>2.2. Đề xuất biện pháp khắc phục </b></i>
Để khắc phục những khó khăn nêu trên, để việc triển
khai thực hiện chương trình GDPT mới thuận lợi và hiệu
quả, các bộ phận chỉ đạo, quản lí, các nhà giáo dục, các
trường sư phạm, nhà trường phổ thông và giáo viên phổ
thông cần nghiên cứu để có những điều chỉnh cần thiết,
phù hợp. Ngồi các nhiệm vụ thông thường, Vụ Giáo dục
Trung học - Bộ GD-ĐT là đơn vị quản lí, chỉ đạo cần chủ
trì các hoạt động nghiên cứu xây dựng biện pháp, lập kế
hoạch triển khai, biên soạn tài liệu, chỉ đạo triển khai
công tác tập huấn, bồi dưỡng giáo viên phổ thông thực
hiện chương trình GDPT mới.
Sau đây, chúng tôi đề xuất biện pháp giải quyết
những bất cập nảy sinh như sau:
Vụ Giáo dục Trung học lập kế hoạch, đề xuất thành
lập các nhóm nghiên cứu và chỉ đạo các nhóm nghiên
cứu hoạt động. Mỗi nhóm nghiên cứu phụ trách một môn
học hoặc một hoạt động giáo dục theo chương trình
GDPT mới. Các nhóm này có nhiệm vụ nghiên cứu đề
xuất phương án xử lí, biên soạn tài liệu tập huấn và tham
gia tập huấn cho giáo viên trung học khi triển khai thực
hiện chương trình GDPT mới.
Nhóm nghiên cứu cần xem xét chương trình GDPT
mới, chương trình GDPT hiện hành nói chung và chương
trình mơn học/hoạt động giáo dục cụ thể được giao nói
riêng. Nhiệm vụ đầu tiên mà mỗi nhóm phải thực hiện là
xem xét, phát hiện ra những bất cập, khó khăn mà học
sinh đã học chương trình GDPT hiện hành ở cấp tiểu học
hoặc cả ở THCS sẽ gặp phải khi học chương trình GDPT
mới ở cấp THCS hoặc THPT. Chủ yếu là đối với học
sinh chuyển sang học chương trình mới ở lớp 6 hoặc lớp
10. Để xác định được những bất cập này, nhóm nghiên
cứu phải xem xét mạch logic của phần chương trình hiện
hành và chương trình mới để phát hiện ra những trường
hợp bất cập có thể có sau đây:
<b>VJE</b> Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 289-292
292
Vì nhiều lí do, việc phát hiện ra những khó khăn như
trên và việc đề ra biện pháp, biên soạn nội dung cũng như
chỉ đạo thực hiện cần có sự chỉ đạo của Bộ GD-ĐT và
thống nhất trong tồn ngành. Mỗi nhóm nghiên cứu phụ
trách một môn học/hoạt động giáo dục phải chuẩn bị cho
sự điều chỉnh, bổ sung cho học sinh chuyển sang học
chương trình mới ở các lớp 6 và lớp 10. Nội dung và kế
hoạch điều chỉnh, bổ sung cần được thảo luận, tham khảo
ý kiến chuyên gia một cách cẩn thận, kĩ lưỡng và được cấp
có thẩm quyền phê duyệt trước khi triển khai thực hiện.
Thời lượng dành cho việc điều chỉnh, bổ sung cho học sinh
lớp 6 và lớp 10 khi chuyển đổi chương trình tùy theo mức
độ mà có thể triển khai vào cuối kì nghỉ hè, trước khi bắt
đầu thực hiện năm học mới (nếu nội dung quan trọng và
cần thời lượng nhiều) hoặc lấy từ thời lượng dành cho hoạt
động trải nghiệm, hướng nghiệp của chương trình mới
(nếu chỉ cần một thời lượng nhỏ nhất định).
Một vấn đề cần chú trọng nữa là mặc dù mấy năm gần
đây, Bộ GD-ĐT đã triển khai chuyển từ dạy học theo kiến
thức, kĩ năng sang định hướng năng lực và phẩm chất
nhưng dù sao khi chuyển đổi chương trình thì có thể coi
Chương trình GDPT mới chuyển từ dạy học theo chuẩn
kiến thức, kĩ năng sang dạy học định hướng phát triển năng
lực và phẩm chất. Sự chuyển đổi mục tiêu cùng với những
thay đổi về cấu trúc chương trình, nội dung kiến thức,
<b>3. Kết luận </b>
Khi tiến hành đổi mới chương trình, sách giáo khoa
trong chương trình GDPT cần biên soạn tài liệu và tổ
chức tập huấn cho cán bộ quản lí GDPT và giáo viên phổ
thông. Việc này càng phải được đặc biệt chú trọng khi
việc đổi mới được tiến hành toàn diện từ hướng tiếp cận,
mục tiêu, chương trình, phương pháp dạy học, kiểm tra
đánh giá và với hình thức triển khai “cuốn chiếu” theo
từng cấp học nhằm đảm bảo được sự thành công của
công cuộc đổi mới GDPT.
<b>Tài liệu tham khảo </b>
[1] Bộ GD-ĐT (2018). Tài liệu tập huấn cán bộ quản lí
<i>về triển khai thực hiện đổi mới chương trình giáo </i>
<i>dục phổ thông và thực hiện Đề án “Giáo dục hướng </i>
<i>nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong </i>
<i>giáo dục phổ thông giai đoạn 2018-2025”. Tài liệu </i>
tập huấn hiệu trưởng các trường trung học phổ
thông, tháng 11/2018.
[2] Bộ GD-ĐT (2006). <i>Chương trình giáo dục phổ </i>
[3] Bộ GD-ĐT (2018). <i>Chương trình giáo dục phổ </i>
<i>thơng - Chương trình tổng thể ban hành kèm theo </i>
Thơng tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018.
[4] Bộ GD-ĐT (2018). <i>Chương trình giáo dục phổ </i>
<i>thơng - (Chương trình các mơn học, hoạt động giáo </i>
<i>dục) ban hành kèm theo Thông tư số </i>
32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018.
[5] Chính phủ (2018). Đề án Giáo dục hướng nghiệp và
<i>định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ </i>
<i>thông giai đoạn 2018-2025 ban hành kèm theo </i>
Quyết định 522/QĐ-TTg ngày 14/05/2018.
[6] Chính phủ (2018). <i>Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày </i>
<i>18/6/2018 về đẩy mạnh đổi mới chương trình, sách </i>
<i>giáo khoa giáo dục phổ thông. </i>
[7] Quốc hội (2017). Nghị quyết 51/2017/QH14 ngày
<i>21/11/2017 về điều chỉnh lộ trình thực hiện chương </i>
<i>trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới theo </i>
<i>Nghị quyết 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, </i>
<i>sách giáo khoa giáo dục phổ thông. </i>
<b>THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC BÀI TẬP... </b>
<i>(Tiếp theo trang 277) </i>
<b>Tài liệu tham khảo </b>
[1] Trương Huệ Khâm - Tô Khảm (2004). Huấn luyện kĩ
<i>- chiến thuật bóng bàn hiện đại. NXB Thể dục thể thao. </i>
[2] Lưu Quang Hiệp - Phạm Thị Uyên ( 1995). Sinh lí
<i>học thể dục thể thao. NXB Thể dục thể thao. </i>
[3] Nguyễn Danh Thái (1997). Bóng bàn hiện đại. NXB
Thể dục thể thao.
[4] Nguyễn Danh Thái - Vũ Thành Sơn (1999). Bóng
<i>bàn. NXB Thể dục thể thao. </i>
[5] Phạm Thị Miên (2003). Tuyển tập nghiên cứu khoa học
<i>Thể dục thể thao năm 2003. NXB Thể dục thể thao. </i>
[6] Bộ GD-ĐT (2005). Chỉ thị số 12-CT/BGDĐT ngày
<i>07/04/2005 về việc tăng cường công tác giáo dục thể </i>
<i>chất và hoạt động thể thao nhằm hưởng ứng “Năm </i>
<i>Quốc tế về Thể thao và Giáo dục thể chất - 2005” </i>
<i>của Liên hiệp quốc. </i>
[7] Phạm Ngọc Viễn (1991). <i>Tâm lí học thể dục thể </i>
<i>thao. NXB Thể dục thể thao. </i>