Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ BÍCH LIÊN

B¶O ĐảM QUYềN ĐƯợC CHĂM SóC SứC KHỏE
THEO PHáP LUậT VIệT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ BÍCH LIÊN

B¶O ĐảM QUYềN ĐƯợC CHĂM SóC SứC KHỏE
THEO PHáP LUậT VIệT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN HIỀN PHƢƠNG

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Bích Liên


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƢỢC
CHĂM SÓC SỨC KHỎE VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƢỢC
CHĂM SÓC SỨC KHỎE.................................................................. 7
1.1.

Một số vấn đề lý luận về quyền đƣợc chăm sóc sức khỏe .............. 7

1.1.1. Khái niệm quyền được chăm sóc sức khỏe .......................................... 7
1.1.2. Đặc điểm quyền được chăm sóc sức khỏe ......................................... 13

1.1.3. Ý nghĩa của quyền được chăm sóc sức khỏe ..................................... 15
1.2.

Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền đƣợc chăm sóc
sức khỏe ............................................................................................. 16

1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe ......................... 16
1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe ........................... 17
1.2.3. Các biện pháp bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe ................... 21
1.3.

Bảo đảm quyền đƣợc chăm sóc sức khỏe trong pháp luật quốc
tế và một số quốc gia trên thế giới .................................................. 28

1.3.1.

Bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe trong pháp luật quốc tế ......... 28

1.3.2. Bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe theo pháp luật của một
số quốc gia trên thế giới ..................................................................... 30
1.3.3. Kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam ...................................................... 33
Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 36


CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƢỢC CHĂM
SÓC SỨC KHỎE THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC
TIỄN THỰC HIỆN............................................................................ 37
2.1.

Sơ lƣợc lịch sử về pháp luật bảo đảm quyền đƣợc chăm sóc

sức khỏe ............................................................................................. 37

2.2.

Thực trạng quy định pháp luật về bảo đảm quyền đƣợc
chăm sóc sức khỏe ............................................................................ 40

2.2.1. Bảo đảm quyền khám chữa bệnh và lựa chọn nơi khám, chữa bệnh........ 41
2.2.2. Bảo đảm quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử trong khám
chữa bệnh............................................................................................ 44
2.2.3. Bảo đảm quyền bí mật về sức khỏe ................................................... 45
2.2.4. Bảo đảm quyền được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ y tế, kỹ thuật,
phương pháp mới................................................................................ 46
2.2.5. Bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe được thực thi trên thực tế .... 47
2.3.

Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền đƣợc chăm
sóc sức khỏe ....................................................................................... 49

2.3.1. Ưu điểm .............................................................................................. 49
2.3.2. Hạn chế ............................................................................................... 52
Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 61
CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƢỢC CHĂM SÓC SỨC KHỎE TẠI
VIỆT NAM ........................................................................................ 63
3.1.

Một số định hƣớng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền đƣợc chăm sóc sức khỏe

tại Việt Nam....................................................................................... 63

3.1.1. Định hướng bảo vệ chăm sóc sức khỏe cho người dân...................... 63


3.1.2. Định hướng nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh................... 64
3.1.3. Định hướng nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh........................... 64
3.1.4. Định hướng đổi mới hệ thống quản lý và cung cấp dịch vụ y tế ....... 65
3.1.5. Định hướng đổi mới tài chính y tế ..................................................... 66
3.2.

Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền đƣợc chăm sóc sức
khỏe tại Việt Nam ............................................................................. 67

3.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về
bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe ........................................... 67
3.2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo
đảm quyền được chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam ............................ 70
Kết luận Chƣơng 3 ........................................................................................ 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHXH

Bảo hiểm xã hội


BHYT

Bảo hiểm y tế

BN

Bệnh nhân

CSSK

Chăm sóc sức khỏe

HSSV

Học sinh sinh viên

ICESCR

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế,
xã hội và văn hóa

KCB

Khám chữa bệnh

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ


Người sử dụng lao động

NSNN

Ngân sách Nhà nước

UDHR

Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quyền được chăm sóc sức khỏe là một quyền cơ bản trong pháp luật.
Việc đảm bảo sức khỏe cho mọi người đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc
ghi nhận và nhấn mạnh trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948):
Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống thích đáng,
đủ để đảm bảo sức khoẻ và phúc lợi của bản thân và gia đình, về
các khía cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần
thiết, cũng như có quyền được bảo hiểm trong trường hợp thất
nghiệp, đau ốm, tàn phế, góa bụa, già nua hoặc thiếu phương tiện
sinh sống do những hoàn cảnh khách quan vượt quá khả năng đối
phó của họ (Điều 25).
Tại Việt Nam, quyền được chăm sóc sức khỏe đã được Nhà nước ghi
nhận từ khi mới thành lập nước trong Hiến pháp năm 1946, tiếp tục dần được
hoàn thiện thông qua Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và được mở
rộng và nghi nhận đầy đủ, toàn diện hơn trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm
quyền được chăm sóc sức khỏe cho người dân cũng là bảo đảm quyền con
người tạo ra sự cơng bằng, bình đẳng, trợ giúp những người yếu thế hơn trong

xã hội bởi đây là một quyền căn bản, không thể thiếu và có quan hệ mật thiết
với các quyền khác.
Để đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe cho người dân trong thực
tế, địi hỏi Nhà nước phải có nghĩa vụ tơn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền đó
cho người dân trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu, phịng chống, điều trị
và kiểm soát bệnh; sử dụng các cơ sở hàng hóa và dịch vụ chăm sóc sức khỏe,
… Tuy nhiên, trong Luận văn này, tác giả xin nghiên cứu chuyên sâu về việc

1


bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe cho người dân trong trường hợp
người dân có bệnh và cần tiếp cận các dịch vụ y tế để được điều trị bệnh.
Để đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe bằng việc thực hiện các
biện pháp hiệu quả Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách lớn
đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của người dân, trong đó phải kể đến
Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 và đặc biệt là Luật bảo hiểm y tế,
Luật khám bệnh, chữa bệnh. Luật bảo hiểm y tế ra đời đã thể hiện được đúng
đắn tinh thần của Nhà nước ta trong việc hướng tới bảo đảm an sinh xã hội
sức khỏe cho người dân. Ngoài ra, cùng với sự ra đời của Luật Bảo hiểm y tế,
Luật Khám chữa bệnh ra đời đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động cấp
chứng chỉ hành nghề, giấy phép hoạt động nhằm tăng cường số lượng nhân
viên y tế đảm bảo được cơng tác chăm sóc sức khỏe cho người dân, đồng thời
đưa người dân tiếp cận gần hơn với các dịch vụ y tế, khám chữa bệnh. Bên
cạnh đó, Luật Khám bệnh, chữa bệnh cũng góp phần quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh, đổi mới kỹ thuật, tiếp
cận được các phương pháp y học hiện đại hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc đảm bảo quyền
được chăm sóc sức khỏe con người ở nước ta vẫn còn tồn tại nhiều bất cập
cần được hoàn thiện, bổ sung. Đặc biệt, trong bối cảnh nước ta đang chú trọng

phát triển an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe là nội dung quan trọng cần được
chú ý. Điển hình như trong những năm gần đây, người tham gia bảo hiểm y tế
đã tăng lên cả về diện và lượng, tuy nhiên, so với mục tiêu đề ra nhằm thực
hiện bảo hiểm y tế tồn dân thì tỷ lệ này vẫn còn chưa thật sự được như kỳ
vọng. Bên cạnh đó, chất lượng khám chữa bệnh tại nhiều nơi vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu của người dân, trang thiết bị vẫn cịn thiếu, chun mơn và
năng lực của người khám chữa bệnh vẫn còn nhiều hạn chế. Đồng thời, bên
cạnh những kết quả, thành tựu đạt được, Luật khám bệnh, chữa bệnh hiện nay

2


vẫn còn tồn tại một số bất cập về các quy định liên quan đến việc cấp chứng
chỉ hành nghề; các quyền của người bệnh chưa được quy định rõ ràng; hệ
thống tổ chức cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cịn nhiều mâu thuẫn. Như vậy,
qua đây có thể thấy, cần phải có một sự nghiên cứu, đánh giá khách quan và
toàn diện về việc thực hiện bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe theo
pháp luật Việt Nam để từ đó đưa ra các giải pháp hạn chế những khó khăn,
bất cập nói trên nhằm nâng cao hệ thống an sinh xã hội của nước ta, đặc biệt
là trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Từ những vấn đề nêu trên, tác giả chọn đề tài “Bảo đảm quyền được
chăm sóc sức khỏe theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài Luận văn thạc sĩ với
mong muốn đưa ra cái nhìn đầy đủ về cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc
bảo đảm thực thi quyền con người hay chính là bảo đảm thực thi quyền được
chăm sóc sức khỏe tại nước ta. Thơng qua đó, Luận văn đưa ra những đánh
giá, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về chăm sóc sức khỏe
nhân dân, pháp luật về bảo hiểm y tế, luật khám bệnh, chữa bệnh; nâng cao ý
thức, trách nhiệm của mỗi cá nhân và cộng đồng trong việc bảo vệ và chăm
sóc sức khỏe.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Tính đến nay, vấn đề bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe con
người theo pháp luật Việt Nam đã được đề cập trong các cơng trình nghiên
cứu khoa học. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này tại nước ta vẫn chưa có nhiều
cơng trình nghiên cứu về tiếp cận quyền mà chỉ có những cơng trình nghiên
cứu về nội dung. Trong số đó, tác giả nhận thấy một số cơng trình nổi bật sau:
- Sách chuyên khảo “Pháp luật về an sinh xã hội – kinh nghiệm của
một số nước đối với Việt Nam”, TS Trần Hoàng Hải, TS Nguyễn Thị Thúy
Hương, xuất bản năm 2011.

3


- Sách chuyên khảo “Pháp luật an sinh xã hội-Những vấn đề lý luận và
thực tiễn”, TS Nguyễn Hiền Phương, xuất bản năm 2010.
- Sách chuyên khảo “Quyền an sinh xã hội và đảm bảo thực hiện trong
pháp luật Việt Nam” do PGS. TS Lê Thị Hoài Thu chủ biên, xuất bản năm 2014.
- Sách chuyên khảo “Pháp luật bảo hiểm y tế một số quốc gia trên thế
giới và những kinh nghiệm cho Việt Nam”, TS Nguyễn Hiền Phương, xuất
bản năm 2014.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn được tác giả nghiên cứu nhằm đưa ra cái nhìn đầy đủ về cơ
sở lý luận và thực tiễn trong việc bảo đảm thực thi quyền con người hay chính
là bảo đảm thực thi quyền được chăm sóc sức khỏe tại nước ta.
Thơng qua đó, Luận văn đưa ra những nhiệm vụ nghiên cứu đó là có
những đánh giá, định hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp
luật về chăm sóc sức khỏe nhân dân, pháp luật về bảo hiểm y tế, luật khám
bệnh, chữa bệnh; nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi cá nhân và cộng đồng
trong việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quy định của pháp luật về
việc chăm sóc sức khỏe con người, cụ thể là Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân,
Luật bảo hiểm y tế, Luật khám bệnh chữa bệnh và một số văn bản quy phạm
pháp luật khác có liên quan. Từ đó, tác giả đưa ra được những thực trạng,
thực tiễn pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền được chăm sóc sức khỏe
tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Nghiên cứu quy định pháp luật về bảo đảm quyền

4


được chăm sóc sức khỏe khi người dân phát sinh bệnh và có nhu cầu khám
bệnh tại các cơ sở y tế.
Phạm vi thời gian: Trong giới hạn của Luận văn, phạm vi nghiên cứu
đề cập đến các quy định pháp luật về bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe
khi người dân phát sinh bệnh và có nhu cầu khám bệnh tại các cơ sở y tế chủ
yếu trong pháp luật Việt Nam hiện hành.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của
Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội trong thời đại hiện nay ở lĩnh
vực quyền con người nói chung và quyền an sinh xã hội nói riêng, cụ thể là
quyền được chăm sóc sức khỏe. Để làm rõ các quy định của pháp luật bảo vệ
sức khỏe nhân dân, pháp luật khám bệnh chữa bệnh và pháp luật bảo hiểm y
tế nhằm đảm bảo thực hiện quyền con người trong việc chăm sóc sức khỏe,
Luận văn sẽ vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử để phân tích làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu. Bên cạnh đó,
trong q trình nghiên cứu, Luận văn cũng phân tích, đánh giá pháp luật theo
phương pháp tiếp cận quyền để làm nổi bật hơn các luận điểm, luận cứ cần

được chứng minh.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn gồm
có: phân tích, tổng hợp, mơ tả, giải thích, liệt kê và phương pháp so sánh để
giải quyết vấn đề.
6. Những đóng góp mới của Luận văn
6.1. Tính mới
Tính đến nay, vấn đề bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe con
người theo pháp luật Việt Nam đã được đề cập trong các cơng trình nghiên

5


cứu khoa học về an sinh xã hội. Tuy nhiên, Luận văn được viết trong thời
điểm Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới
liên quan đến bảo hiểm y tế và luật khám bệnh chữa bệnh nhằm cải thiện tốt
hơn chất lượng phục vụ, chăm sóc sức khỏe người dân. Vì thế, trong q trình
nghiên cứu, phân tích, giải quyết vấn đề, Luận văn sẽ có những cách tiếp cận
khác, mới và phù hợp hơn với tình hình của đất nước.
6.2. Những đóng góp của đề tài
Trong Luận văn, tác giả xin được đưa ra những đóng góp của mình
trong việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá pháp luật và thực trạng bảo đảm
quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhằm đưa ra các giải pháp, kiến nghị,
hoàn thiện pháp luật để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở
nước ta hiện nay và theo kịp xu thế phát triển chung trên toàn thế giới.
7. Bố cục của Luận văn
Luận văn có kết cấu gồm 3 chương chính:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền được chăm sóc sức khỏe
và bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe.
- Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe theo
pháp luật Việt Nam và thực tiễn thực hiện.

- Chương 3: Một số định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam.

6


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƢỢC CHĂM SÓC
SỨC KHỎE VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƢỢC CHĂM SÓC SỨC KHỎE
1.1. Một số vấn đề lý luận về quyền đƣợc chăm sóc sức khỏe
1.1.1. Khái niệm quyền được chăm sóc sức khỏe
Quyền con người là một quyền cơ bản nhất của mỗi cá nhân, đó là
quyền tư nhiên mà khi sinh ra vốn dĩ ai cũng đã có. Hệ thống về các quyền
con người có ba nhóm quyền cơ bản bao gồm Quyền dân sự, Quyền chính trị
và Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa. Trong đó, các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa là một trong những quyền chính cấu thành nên các quyền và tự do cá
nhân cơ bản của con người. Các quyền này bao gồm: Quyền được hưởng và
duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng; Quyền lao động; Quyền được hưởng an
sinh xã hội; Quyền được hỗ trợ về gia đình; Quyền được hưởng sức khỏe về
thể chất và tinh thần; Quyền giáo dục; Quyền được tham gia vào đời sống văn
hóa và được hưởng các thành tựu của khoa học. Mỗi quyền trong nhóm quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa đều là quyền cơ bản mà mỗi người đều được
hưởng. Tuy nhiên, trong số các quyền con người nói chung, quyền về sức
khỏe có lẽ là quyền đặc biệt hơn cả. Quyền này được coi là quyền cơ bản nhất
của con người. Bởi một khi quyền về sức khỏe bị vi phạm thì nó sẽ kéo theo
sự vi phạm các quyền khác. Vì sức khỏe là vốn quý nhất của con người nên
nếu quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe khơng được đảm bảo trong thực
tiễn thì các nhóm quyền khác trong hệ thống quyền con người cũng rất khó
được bảo đảm thực thi một cách tồn diện. Do đó, có thể thấy chăm sóc sức
khỏe là một quyền căn bản của con người, quyền này không thể thiếu trên

thực tế để thực hiện các quyền con người khác. Tất cả mọi người đều có cơ

7


hội được hưởng tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe cao nhất mà khơng có sự phân
biệt đối xử, phù hợp với các nguyên tắc của quyền con người. Vì thế, ngay từ
khi được thành lập vào năm 1946, thông qua Bản Hiến chương của mình, Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO) đã nhấn mạnh:
Health is a state of complete physical, mental and social well-being
and not merely the absence of disease or infirmity. The enjoyment of
the highest attainable standard of health is one of the fundamental
rights of every human being without distinction of race, religion,
political belief, economic or social condition [28], tạm dịch: Sức
khỏe là một trạng thái hoàn toàn khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và
xã hội và không chỉ đơn thuần là khơng có triệu chứng bệnh lý hay
có bệnh. Việc hưởng thụ tiêu chuẩn sức khỏe cao nhất là một trong
những quyền cơ bản của mỗi con người mà khơng có sự phân biệt
chủng tộc, tơn giáo, niềm tin chính trị, điều kiện kinh tế hay xã hội.
Từ nhận định này có thể nhận thấy rằng quyền được chăm sóc sức khỏe
khơng đơn thuần chỉ là việc một người được tiếp cận các dịch vụ y tế tốt,
được khám và điều trị bởi các bác sĩ có tay nghề trình độ cao hay được cung
cấp cơ sở vật chất hiện đại từ các cơ sở khám chữa bệnh nếu như số tiền họ
chi trả tương ứng với dịch vụ chăm sóc sức khỏe mà họ nhận được. Mà trên
hết, cần phải hiểu rằng quyền được chăm sóc sức khỏe là một trong những
quyền căn bản nhất của mỗi cá nhân được nằm trong hệ thống của các quyền
con người. Do đó, đây là quyền mà tất cả mọi người ở các tầng lớp xã hội
khác nhau không kể giàu có, bần cùng hay nghèo khó đều nhận được dịch vụ
chăm sóc sức khỏe như nhau theo nhu cầu và theo đặc điểm, điều kiện của
mỗi quốc gia. Đặc biệt, quyền được chăm sóc sức khỏe mà mỗi cá nhân được

hưởng còn thể hiện nguyên tắc cốt lõi của quyền con người là bình đẳng,

8


không phân biệt đối xử; những người nghèo hơn, sống ở vùng khó khăn hơn
thì nhận được sự hỗ trợ từ Nhà nước nhiều hơn.
Bên cạnh nhận định trên, trong Bản Hiến chương năm 1946, Tổ chức Y
tế Thế giới (WHO) cũng tiếp tục khẳng định “The extension to all peoples of
the benefits of medical, psychological and related knowledge is essential to
the fullest attainment of health” [29], tạm dịch “Sự mở rộng về lợi ích của y
tế, tâm lý và những kiến thức có liên quan cho tất cả mọi người là rất cần thiết
để đạt được sức khỏe đầy đủ nhất”. Điều này cho thấy vấn đề liên quan đến
việc chăm sóc sức khỏe cho con người đối với mỗi quốc gia không chỉ dừng
lại ở việc chú trọng đến tính phổ thơng, phổ qt cho mọi đối tượng, khơng có
sự phân biệt dựa trên chủng tộc, màu da, giới tính, ngơn ngữ, tơn giáo, chính
trị, nguồn gốc xuất thân hoặc địa vị xã hội, tài sản, hoặc tình trạng khác như
khuyết tật, tuổi tác, khuynh hướng tình dục và bản dạng giới, tình trạng sức
khỏe, nơi cư trú, tình hình kinh tế và xã hội... Mà quan trọng hơn, quyền được
chăm sóc sức khỏe cịn được hiểu rằng đó là quyền được cung cấp đầy đủ cơ
sở, hàng hóa, dịch vụ y tế thiết yếu; được tiếp cận với thơng tin y tế, tình hình
dịch bệnh; được đảm bảo kịp thời, an toàn, hiệu quả, tiết kiệm trong khám và
điều trị. Như vậy, trong hoạt động chăm sóc sức khỏe, người dân được coi là
trung tâm, có quyền được hưởng và tiếp cận các chương trình chăm sóc sức
khỏe phù hợp với nhu cầu cụ thể của từng đối tượng khác nhau và phù hợp
với các tiêu chuẩn, điều kiện kinh tế, xã hơi, văn hóa của mỗi quốc gia.
Trong hệ thống các quyền con người, quyền được chăm sóc sức khỏe là
một trong những quyền căn bản và phổ biến nhất bởi ngoài việc thể hiện bản
chất của quyền là việc người dân được chăm lo, quan tâm, chú trọng về sức
khỏe thì đây cịn là quyền có liên quan mật thiết đến các quyền con người

khác. Chỉ khi quyền được chăm sóc sức khỏe được đảm bảo, con người mới
có thể thụ hưởng và thực hiện được các quyền cơ bản khác như quyền có

9


lương thực, nhà ở, việc làm, giáo dục, nhân phẩm, có cuộc sống riêng tư, tiếp
cận thơng tin, các quyền tự do lập hội, họp và di chuyển… Vì vậy, do nhận
thức được tầm quan trọng của quyền này, nhiều văn kiện quốc tế khi ra đời đã
ghi nhận như sau: Điều 25.1 của Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người
(UDHR) khẳng định “Everyone has the right to a standard of living adequate
for the health and well-being of himself and of his family, including food,
clothing, housing and medical care and necessary social services” [10], tạm
dịch “Mọi người đều có quyền được hưởng mức sống đủ để đảm bảo sức
khoẻ và phúc lợi của bản thân và gia đình, về các mặt ăn, mặc, ở, y tế và các
dịch vụ xã hội cần thiết khác”. Mặc dù trong Tuyên ngôn Thế giới về quyền
con người (UDHR) quyền được chăm sóc sức khỏe chưa được quy định như
một điều khoản độc lập mà chỉ nằm trong nội hàm của quyền được có mức
sống thích đáng nhưng Điều 25.1 của Tun ngơn này cũng có thể được coi
như một tiền đề vơ cùng quan trọng để cho ra đời hàng loạt các công ước
quốc tế, Nghị định thư, Hiến chương ghi nhận về quyền được chăm sóc sức
khỏe, ví dụ như tại Điều 7, 11, 12 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa (ICESCR) năm 1966 [12], tại Điều 5(e)(iv) Cơng ước quốc tế
về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CEDR) năm 1965 [11], tại
Điều 11.1(f) và Điều 10, 12,14 của Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979 [13], tại Điều 24 của Cơng ước
về Quyền trẻ em (CRC) năm 1989 [14]. Ngồi ra, quyền được chăm sóc sức
khỏe cịn được đề cập tại một số văn kiện khu vực về quyền con người, chẳng
hạn như Điều 11 của Hiến chương xã hội châu Âu năm 1961 sửa đổi [33], tại
Điều 16 của Hiến chương châu Phi về Quyền con người và Quyền của các

dân tộc năm 1981 [17], tại Điều 10 của Nghị định thư Bổ sung của công ước
châu Mỹ về quyền con người trong lĩnh vực các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa năm 1988 [32], Tuyên bố Viên và Chương trình Hành động thơng qua tại

10


Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai năm 1993 [30] và nhiều văn
kiện quốc tế khác.
Đặc biệt, trong số đó phải kể đến Điều 12.1 của Công ước quốc tế về
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) năm 1966 [12], đây được coi
là điều khoản tồn diện nhất về quyền được chăm sóc sức khỏe vì đã khẳng
định “The States Parties to the present Covenant recognize the right of
everyone to the enjoyment of the highest attainable standard of physical and
mental health”, tạm dịch “Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền
của mọi người được hưởng một tiêu chuẩn sức khoẻ về thể chất và tinh thần ở
mức cao nhất có thể được”. Theo Bình luận chung số 14 thơng qua tại phiên
họp lần thứ 22 năm 2000 của Ủy ban về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, định
nghĩa về quyền chăm sóc sức khỏe được mở rộng hơn nhiều so với định nghĩa
về sức khỏe được nêu ra trong lời nói đầu của Bản Hiến chương của Tổ chức
Y tế Thế giới (WHO) năm 1946, đồng thời định nghĩa này cịn vượt ra ngồi
phạm vi về quyền nói chung khi chỉ ra rằng quyền được chăm sóc sức khỏe
khơng chỉ là quyền của con người được khỏe mạnh mà còn bao hàm ý nghĩa
(1) tự do về thân thể lẫn sức khỏe, (2) quyền được hưởng tiêu chuẩn sức khỏe
cao nhất có thể được dựa trên sự bình đẳng, khơng phân biệt đối xử giữa tất
cả các tầng lớp khác nhau trong xã hội [34, tr.142].
Bên cạnh ý nghĩa nêu trên, định nghĩa về quyền được chăm sóc sức
khỏe cịn đem đến thách thức cho các Quốc gia để duy trì và đảm bảo thực
hiện quyền một cách kịp thời, đầy đủ và tồn diện nhất có thể. Tùy vào điều
kiện kinh tế, xã hội, văn khóa khác nhau, mỗi Quốc gia sẽ xây dựng một hệ

thống sức khỏe khác nhau phù hợp với tiềm lực của Quốc gia đó. Tuy nhiên,
ngoài những yếu tố như cơ sở vật chất, hàng hóa, dịch vụ và các điều kiện y tế
đáp ứng nhu cầu về việc được chăm sóc sức khỏe được cung cấp, hỗ trợ từ
Nhà nước thì tình trạng thể chất của con người, khả năng chống chọi với bệnh

11


tật cũng như nhận thức, hiểu biết của người dân về kiến thức sức khỏe bao
gồm bệnh tật, sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, các bệnh truyền nhiễm…
cũng tác động đến việc đảm bảo nghĩa vụ chăm sóc sức khỏe cho con người
của các Quốc gia. Một khi Nhà nước không đảm bảo tốt các quyền như được
tiếp cận nước sạch, nước uống, vệ sinh đủ tiêu chuẩn, điều kiện làm việc an
tồn và lành mạnh, mơi trường sống an tồn và trong lành, … thì rất có thể
điều đó sẽ tác động xấu đến sức khỏe con người, nhìn rộng hơn là ảnh hưởng
lớn đến việc đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe. Vì khi các tiêu chuẩn
chất lượng về môi trường, nước, lương thực, nhà ở, dinh dưỡng không được
chú trọng, con người sống tại những nơi có điều kiện khơng tốt có thể gặp
những vấn đề về sức khỏe từ nhẹ đến vô cùng nghiêm trọng. Vì trên hết,
quyền được chăm sóc sức khỏe có quan hệ mật thiết với các quyền cơ bản
khác. Do đó, quyền được chăm sóc sức khỏe cịn được hiểu là quyền được thụ
hưởng các quyền con người cơ bản khác mà những quyền này có tác động
qua lại lẫn nhau nhằm đảm bảo tiêu chuẩn sức khỏe cao nhất có thể đạt được.
Như vậy, theo những phân tích tại Bình luận chung số 14 về định nghĩa
quyền được chăm sóc sức khỏe được nêu ra trong Điều 12.1 (ICESCR, 1966)
[34, tr.142], có thể nhận thấy rằng quyền được chăm sóc sức khỏe là (1)
quyền được làm chủ về thân thể và sức khỏe, không bị can thiệp nếu như chưa
được sự đồng ý, (2) quyền được bình đẳng về cơ hội trong việc hưởng sự
chăm sóc, khám, điều trị, sử dụng các dịch vụ y tế như tất cả mọi người trong
xã hội, khơng có sự phân biệt đối xử, (3) địi hỏi cần phải có một sự kết hợp

đầy đủ và thích hợp giữa việc được chăm sóc sức khỏe với việc có cơ hội
được tiếp cận nước sạch, nước uống, điều kiện vệ sinh đủ tiêu chuẩn, cung
cấp đủ lương thực an toàn, dinh dưỡng và nhà ở, điều kiện môi trường và lao
động lành mạnh. Đây là những yếu tố cần thiết để đảm bảo quyền được chăm

12


sóc sức khỏe của con người tuy nhiên để đạt được điều đó cần có sự nỗ lực,
tham gia rất lớn từ phía cá nhân, cộng đồng, tổ chức, quốc gia, quốc tế.
Quyền được chăm sóc sức khỏe là một quyền căn bản nằm trong quyền
con người. Quyền này có phạm vi rộng và bao trùm trên nhiều lĩnh vực khác
nhau được thể hiện thơng qua các biện pháp phịng bệnh, chữa bệnh, giải
quyết những hậu quả của bệnh gây ra. Do đó, quyền này được ghi nhận và
quy định trong nhiều luật như an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ và chăm sóc
và giáo dục trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, lao động, phòng chống
các bệnh truyền nhiễm… Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn
này, tác giả chỉ đề cập đến quyền được chăm sóc sức khỏe của người dân khi
phát sinh bệnh và được Nhà nước đảm bảo thông qua các biện pháp pháp lý.
Vì vậy, các quy định pháp luật được nghiên cứu trong Luận văn chỉ xoay quanh
các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động khám chữa bệnh
bao gồm: Luật chăm sóc sức khỏe nhận dân năm 1989, Luật Bảo hiểm y tế
(BHYT) năm 2008 sửa đổi năm 2014, Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009.
1.1.2. Đặc điểm quyền được chăm sóc sức khỏe
Quyền được chăm sóc sức khỏe nằm trong quyền con người. Vì vậy nó
cũng có những đặc điểm của quyền con người nói chung.
Thứ nhất, quyền được chăm sóc sức khỏe là một quyền cơ bản của con
người. Đây là quyền không thể thiếu vì nó gián tiếp ảnh hưởng đến việc thực
thi các quyền khác trên thực tế. Cụ thể, quyền được chăm sóc sức khỏe có liên
quan đến quyền sống, quyền về lương thực, nhà ở, việc làm, giáo dục, nhân

phẩm, bình đẳng, khơng phân biệt đối xử, cấm tra tấn, bảo vệ đời tư, tiếp cận
thông tin, và các quyền tự do lập hội, hội họp, đi lại…Nếu trong trường hợp
quyền được chăm sóc sức khỏe bị vi phạm thì những quyền nêu trên cũng rất
dễ bị vi phạm trong những tình huống cụ thể.

13


Thứ hai, quyền được chăm sóc sức khỏe có đặc điểm là một quyền của
con người được hưởng điều kiện tốt về thể chất và tinh thần mà không chịu sự
chi phối, can thiệp hay ép buộc nào làm tổn hại đến trạng thái bình ổn tự
nhiên về thể chất và tinh thần đó dù trong hồn cảnh bệnh tật hay ổn định.
Thứ ba, quyền được chăm sóc sức khoẻ khơng chỉ như là quyền được
khoẻ mạnh mà nó cịn là quyền của mỗi cá nhân được bảo vệ và chăm sóc
một cách đương nhiên, vốn có về sức khỏe ngay từ khi sinh ra mà khơng cần
có sự đồng ý hay cho phép để được hưởng trọn vẹn quyền đó. Hay nói cách
khác, quyền được chăm sóc sức khỏe là con người có quyền được bình đẳng,
khơng bị phân biệt đối xử về cơ hội trong việc được chăm sóc sóc, bảo vệ sức
khỏe với các dịch vụ y tế cơ bản đồng thời được hưởng và tiếp cận các dịch
vụ đó một cách tự nguyện và đầy đủ.
Thứ tư, ngoài những yếu tố như cơ sở vật chất, hàng hóa, dịch vụ và các
điều kiện y tế đáp ứng nhu cầu về việc được chăm sóc sức khỏe được cung cấp,
hỗ trợ từ Nhà nước thì tình trạng thể chất của con người, khả năng chống chọi
với bệnh tật cũng như nhận thức, hiểu biết của người dân về kiến thức sức khỏe
bao gồm bệnh tật, sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, các bệnh truyền nhiễm
… cũng tác động đến việc đảm bảo nghĩa vụ chăm sóc sức khỏe cho con người
của các Quốc gia. Vì vây, quyền được chăm sóc sức khoẻ cịn được hiểu là
quyền được hưởng những tiện ích từ những cơ sở vật chất, được cung ứng hàng
hóa, dịch vụ trong lĩnh vực y tế cũng như được hưởng thụ những tiêu chuẩn và
điều kiện cơ bản cần thiết về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe.

Thứ năm, việc đảm bảo quyền được chăm sóc sức khoẻ cịn dựa trên
trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi Quốc gia trong việc đảm bảo cung cấp đến
người dân các cơ sở vật chất y tế sẵn có, đi liền với đó là những dịch vụ hàng
hóa cùng các chương trình chăm sóc sức khỏe được xây dựng và lên kế hoạch
cụ thể cũng như được triển khai trên phạm vi sâu rộng.

14


Thứ sáu, với đặc điểm như các quyền con người nói chung, quyền được
chăm sóc sức khoẻ cũng đặt ra nghĩa vụ của các quốc gia thành viên đưa ra
các biện pháp trong việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền được chăm sóc
sức khỏe cho người dân trên thực tế.
1.1.3. Ý nghĩa của quyền được chăm sóc sức khỏe
Quyền được chăm sóc sức khỏe là một trong những cơ bản trong hệ
thống các quyền con người và không thể thiếu được để thực hiện các quyền
khác. Việc đảm bảo các quyền con người, đặc biệt là quyền được chăm sóc
sức khỏe trong phạm vi Luận văn đề cập đến là khi người dân có bệnh sẽ tạo
điều kiện cho người dân có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc y tế.
Quyền này được thực hiện dựa trên các biện pháp về tài chính, biện pháp về
xã hội, biện pháp về pháp lý được thực hiện bởi cộng đồng, xã hội, Nhà nước,
cá nhân, tổ chức, tập thể … nhằm bảo đảm quyền được thực thi trong thực tế.
Ngoài ra, với nghĩa vụ của Quốc gia trong đưa ra các biện pháp pháp lý nhằm
bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe, những người có hồn cảnh khó khăn
sẽ tránh khỏi những rủi ro về mặt tài chính khi gặp phải những rủi ro về ốm
đau, tai nạn thông qua bảo hiểm y tế.
Ý nghĩa của quyền được chăm sóc sức khỏe khi có bệnh cần tiếp cận
với các dịch vụ y tế đó là việc tất cả người dân ở mọi tầng lớp khác nhau
trong xã hội đều có cơ hội được hưởng quyền chăm sóc sức khỏe mà khơng
có bất kỳ một sự phân biệt đối xử nào về giới tính, tơn giáo, nguồn gốc xuất

thân hoặc địa vị xã hội, tài sản, hoặc tình trạng khác như khuyết tật, tuổi tác,
khuynh hướng tình dục và bản dạng giới, tình trạng sức khỏe, nơi cư trú, tình
hình kinh tế và xã hội, … đồng thời được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế
một cách cơng bằng và bình đẳng như nhau. Quyền được chăm sóc sức khỏe
nếu được đảm bảo sẽ đem đến sự cơng bằng về chế độ chăm sóc y tế cho mọi
người, cùng nhau chia sẻ rủi ro ốm đau, bệnh tật, đem lại điều kiện được

15


chăm sóc sức khỏe tốt hơn cho cộng đồng, đặc biệt là người nghèo, người cận
nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa.
Đối với mỗi người dân, quyền được chăm sóc sức khỏe cịn là quyền
nhận được sự bảo vệ của cộng đồng, xã hội, Nhà nước, cá nhân, tổ chức, tập
thể thông qua các biện pháp cụ thể theo từng cấp độ khác nhau trước những
rủi ro về ốm đau, bệnh tật, tai nạn làm giảm hoặc mất thu nhập ảnh hưởng đến
cuộc sống ổn định của họ [31, tr.41]
1.2. Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền đƣợc chăm sóc sức khỏe
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe
Bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe là một trong những nhiệm vụ
căn bản của Đảng, Nhà nước và Chính phủ trong công tác đảm bảo các quyền
con người trong việc chăm sóc y tế cho tất cả mọi người trong cộng đồng.
Quyền được chăm sóc sức khỏe là một quyền nằm trong các quyền kinh tế,
văn hóa, xã hội. Vì lẽ đó, đảm bảo quyền được thực thi một cách toàn diện và
đầy đủ trên thực tế, Liên Hợp quốc đã ghi nhận tại Khoản 1 Điều 2 trong
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 như sau:
1. Mỗi quốc gia thành viên Công ước này cam kết sẽ tiến hành các
biện pháp, một cách riêng rẽ và thông qua sự hợp tác giúp đỡ quốc
tế, đặc biệt là các biện pháp kinh tế và kỹ thuật, sử dụng tới mức tối
đa các tài ngun sẵn có của mình, nhằm đạt được việc bảo đảm

ngày càng đầy đủ các quyền được thừa nhận trong Cơng ước này
bằng mọi biện pháp thích hợp, đặc biệt kể cả việc thông qua những
biện pháp lập pháp [11].
Ngồi ra, dù quyền được chăm sóc sức khỏe được ghi nhận trong nhiều
văn kiện pháp lý khác nhau nhưng khơng có điều nào định nghĩa về bảo đảm
quyền được chăm sóc sức khỏe mà chỉ tồn tại các điều khoản quy định trách

16


nhiệm của các quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp cần thiết để
đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe. Do đó, có thể hiểu rằng bảo đảm
quyền được chăm sóc sức khỏe là việc Nhà nước thông qua các biện pháp về
xã hội, kinh tế, pháp lý nhằm chắc chắn quyền đó được thực thi trong thực tế,
bảo vệ con người trước những rủi ro về ốm đau, bệnh tật. Tuy nhiên, trong
các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam cũng khơng có một văn bản pháp
lý nào đưa ra định nghĩa về bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe cũng như
khơng có bất kỳ điều khoản nào quy định về các biện pháp bảo đảm.
1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe
Quyền được chăm sóc sức khỏe có đặc điểm là một quyền của con
người được hưởng điều kiện tốt về thể chất và tinh thần. Vì thế, bất kể ai khi
có nhu cầu khám chữa bệnh đều có quyền được đi khám chữa bệnh mà khơng
có bất cứ sự ngăn cản hay cấm đoán nào khi mong muốn có được trang thái
tốt nhất cho bản than họ. Với mong muốn đó, quyền được chăm sóc sức khỏe
của người dân là quyền được khám bệnh một cách tự nhiên, tự giác khi có
nhu cầu giải quyết các vấn đề liên quan đến bệnh tật.
Quyền được chăm sóc sức khoẻ khơng chỉ như là quyền được khoẻ
mạnh mà nó cịn là quyền của mỗi cá nhân được bảo vệ và chăm sóc một cách
đương nhiên, vốn có về sức khỏe ngay từ khi sinh ra mà khơng cần có sự
đồng ý hay cho phép để được hưởng trọn vẹn quyền đó. Hay nói cách khác,

quyền được chăm sóc sức khỏe là con người có quyền được bình đẳng, khơng
bị phân biệt đối xử về cơ hội trong việc được chăm sóc sóc, bảo vệ sức khỏe
với các dịch vụ y tế cơ bản đồng thời được hưởng và tiếp cận các dịch vụ đó
một cách tự nguyện và đầy đủ.
Ngồi những yếu tố như cơ sở vật chất, hàng hóa, dịch vụ và các điều
kiện y tế đáp ứng nhu cầu về việc được chăm sóc sức khỏe được cung cấp,

17


hỗ trợ từ Nhà nước thì tình trạng thể chất của con người, khả năng chống
chọi với bệnh tật cũng như nhận thức, hiểu biết của người dân về kiến thức
sức khỏe bao gồm bệnh tật, sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, các bệnh
truyền nhiễm… cũng tác động đến việc đảm bảo nghĩa vụ chăm sóc sức
khỏe cho con người của các Quốc gia. Vì vậy, quyền được chăm sóc sức
khoẻ cịn được hiểu là quyền được hưởng và tiếp cận với những tiện ích từ
những cơ sở vật chất, được cung ứng hàng hóa, dịch vụ trong lĩnh vực y tế
cũng như được hưởng thụ những tiêu chuẩn và điều kiện cơ bản cần thiết về
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe.
Việc đảm bảo quyền được chăm sóc sức khoẻ còn dựa trên trách nhiệm
và nghĩa vụ của mỗi cá nhân, tổ chức và đặc biệt là các Quốc gia. Các cá nhân
cần phải thực hiện nghiêm các quy định về đảm bảo vệ sinh môi trường,
không xả rác và gây ô nhiễm đến môi trường và cũng cần phải có ý thức trong
việc khơng lây lan các bệnh truyền nhiễm đến cộng đồng. Các tổ chức phải có
trách nhiệm quản lý, nâng cao vai trị của mình trong việc thực hiện các quy
định về bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe. Đồng thời, tăng cường cơng
tác, kiểm tra, thanh tra để ngăn chặn các hành vi vi phạm làm ảnh hưởng đến
việc đảm bảo quyền chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng. Quốc gia có trách
nhiệm trong việc đảm bảo cung cấp đến người dân các cơ sở vật chất y tế sẵn
có, đi liền với đó là những dịch vụ hàng hóa cùng các chương trình chăm sóc

sức khỏe được xây dựng và lên kế hoạch cụ thể cũng như được triển khai trên
phạm vi sâu rộng. Đồng thời, quyền này còn đặt ra nghĩa vụ của các quốc gia
thành viên đưa ra các biện pháp trong việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện
quyền được chăm sóc sức khỏe cho người dân trên thực tế.
Các nội dung bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe trong pháp luật
Việt Nam được thể hiện thông qua các quy định pháp luật trong hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật quốc gia; quy định nội dung quyền được chăm sóc

18


×