Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tạp chí Quy hoạch xây dựng – Số 95+96 - Trường Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 20 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

95+96



Số 95+96 Năm thứ mười lăm - Urban and Rural Planning Journal



Sˇ 95+96 n®m 2018



Chuyên đề:


<b>ĐĐđô thị vệ t</b>


<b>IN</b>


<b>h</b>


<b>Ảnh bìa: </b>


<b>New Clark City - mô hình thành phố </b>
<b>vệ tinh điển hình của Phillipine</b>


Bài học kinh nghiệm quy hoạch phát triển đô thị vệ tinh


trong quy hoạch chung xây dựng thủ đô hà nội



xây dựng đơ thị vệ tinh - nhìn từ thực tiễn tp.hcm


kinh nghiệm quốc tế



để phát triển các đô thị vệ tinh


Lesson Learned for sateLLite city deveLopment pLanning



in the generaL construction pLanning of hanoi capitaL


sateLLite city construction - viewed from


practicaLity in ho chi minh city




internationaL experience


to deveLop sateLLite cities


sateLLite city and the deveLopment


strategies of traffic - urBan integration



<b>đô thị vệ tINh </b>



đơ thị vệ tinh và các chiến Lược phát triển


tích hợp giao thông - đô thị



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

T

π

p ch›



T

π

p ch›



Quy ho

π

ch x©y d˘ng



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Bạn đọc thân mến!


Năm 2018 đã khép lại, nhân dịp năm mới, Quy hoạch xây dựng trân trọng gửi đến các
cộng tác viên và bạn đọc những tình cảm tri ân sâu sắc nhất. Chúc quý vị một năm
mới An lành, Thịnh vượng và Thành cơng!


Phát triển đơ thị đang là bài tốn hóc búa với các thành phố lớn tại Việt Nam, đặc
biệt ở Hà Nội, TP.HCM. Bắt đầu từ 2005, TP.HCM tìm kiếm kiểu phát triển mới là
“đa cực, phi tập trung hố” với các đơ thị vệ tinh; thành phố Hà Nội đã xác định năm
đô thị vệ tinh của mình vào năm 2008. “Đơ thị vệ tinh” được nhận định là chìa khóa
để hạn chế sự quá tải của các đô thị lớn. Tuy nhiên, làm thế nào để biến quy hoạch
các đô thị vệ tinh thành thực tế không phải là điều đơn giản bởi những hạn chế về
nguồn lực, về đầu tư phát triển hạ tầng kết nối, về quản lý xây dựng tại khu vực vành


đai xanh, hay việc xác định mơ hình quản lý phát triển cũng như kinh nghiệm triển
khai dự án...


Thực tế phát triển đô thị trên thế giới cho thấy, khơng có một mơ hình nào hồn hảo
cả. Chỉ thơng qua những nghiên cứu cụ thể chúng ta mới có thể đưa ra một mơ hình
phù hợp cho từng thành phố. Bởi vậy, Quy hoạch xây dựng kỳ này phối hợp cùng các
chuyên gia tìm hiểu, tổng kết, đánh giá và đưa ra những giải pháp, những bài học cụ
thể cho mơ hình đơ thị vệ tinh ở 2 thành phố Hà Nội và TP.HCM. Hy vọng với chủ
trương thu hút đầu tư đúng đắn của Nhà nước, cùng những kinh nghiệm quý báu, giải
pháp cụ thể, trong thời gian tới, các đô thị vệ tinh của Hà Nội và TP.HCM sẽ sớm
hoàn chỉnh và thúc đẩy q trình phát triển đơ thị Việt Nam ngày càng bền vững hơn.
Giải thưởng cho các đồ án của thế hệ kiến trúc sư trẻ và các dự án mới đang góp
phần vào việc thay đổi diện mạo đơ thị sẽ là nội dung khép lại chuyên đề cuối năm.
Trân trọng mời q độc giả đón đọc.


ThS.KTS. NGUYỄN THÀNH HƯNG
Tổng biên tập/ Editor in Chief


Ảnh bìa: G-net


NGUYỄN MINH TÚ


16/GP-BTTTT cấp ngày 10/1/2014
Tài khoản: Viện Quy hoạch đơ thị


và nông thôn quốc gia
113 00000 1023 tại Ngân hàng


TMCP Công thương Việt Nam
Chi nhánh Hai Bà Trưng - Hà Nội



NGUYỄN THÀNH HƯNG - PHẠM HOÀNG TÚ
BÙI CHUNG HẬU - NGUYỄN THUỲ ANH


NGUYỄN HỒNG CHI - VŨ TUẤN VINH
BÙI CHUNG HẬU
NGUYỄN THỊ MINH ĐỨC
ThS.NB. PHẠM HOAØNG TÚ


Thiết kế mỹ thuật/ Designer
Thư ký tòa soạn/ Sub Editor
P. Tổng biên tập/ Deputy Editor in Chief


Ban cố vấn/ Advisory board


Ban biên tập/ Editorial board
Hội đồng khoa học/ Editorial Adviser Council


Liên hệ Quảng cáo - Phát hành
<b></b>


Tel: (024) 3.9741942


Website:<b> www.viup.vn</b>


CTY TNHH TM IN VIỆT ANH
Trị sự, phát hành:


PGS.TS.KTS. LƯU ĐỨC CƯỜNG (Chủ tịch)
PGS.TS.KTS. NGUYỄN QUỐC THƠNG



KTS. TRẦN NGỌC CHÍNH
PGS.TS. LƯU ĐỨC HẢI
PGS.TS.KTS. TRẦN TRỌNG HANH


GS.TS.KTS. LÊ HỒNG KẾ
GS.TS.KTS. NGÔ THẾ THI
TS.KTS. NGUYỄN TRUNG DŨNG
NGÔ TRUNG HẢI


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>





12


96


]


CON

t

e

n

t

s



Đồ án tốt nghiệp xuất sắc năm 2018
Xu hướng quản lý không gian đô thị vệ tinh
qua các dự án phát triển đô thị tại VN


VIUP ký kết hợp với Viện Quy hoạch vật thể CUBA


24


88



<b>Topic:</b>


SATELLITE CITY
Events


■ “Viup signed a cooperation agreement with
the Cuba Institute of Physical Planning”
Concept


■ Concept of Satellite City


■ Overview of satellite city planning model


Forum


■ Satellite city in Vietnam


■ The trend of satellite urban space management through urban
development projects in Vietnam


■ International experience in building the frame infrastructure
to develop satellite cities


■ Satellite City and the development strategies of
traffic - urban integration


■ Transfer development rights within urban areas
■ Lesson learned for Satellite City development planning
in the general construction planning of Hanoi capital
■ Develop the center and Satellite City - Link


between urban areas - Case study of Hanoi


■ Reorganize urban space for the establishment
and operation of satellite cities in Ho Chi Minh City
■ Satellite City construction - Viewed from practicality
in Ho Chi Minh City


Planning and worldwide architecture


■ Restructuring of regional relationship and shaping of attraction
understanding two clues of beijing ‘s sub-center plan


■ Linking a Satellite City region and global value chains:
empirical lessons from incheon, south korea


■ Huge urban planning - Some lessons from the experience
of Bangkok - Thailand city


■ MANILA - ancient and modern urban
■ Asian cities are ready for the future


Plans and authors


■ Current situation of social housing development for rent
in Hanoi city


■ Challenges of Affordable Housing Development
in Developing Countries: Cases of Vietnam and India
■ Current situation and some innovation requirements applied
in urban planning in Vietnam


■ Impacts of climate change on the network of urban southwestern


provincial roads in the Mekong Delta


For students


■ Excellent graduation project 2018


Multi-sectors


■ Integrated development of underground space in megacities
■ Planning orientation and urban center of Da Nang City
■ “Current situation and proposing the solutions
to develop urban greenery in Can Tho City”


■ Proposing the integration of climate change adaptation strategy
to reduce disaster risk into urban development management
of Vinh Yen City.


Information


■ International information
■ In-country information
■ VIUP information
Hoang Tu


Nguyen Trung Dung
Nguyen Dang Son
Ngo Minh Hung
Vu Thi Vinh
Nguyen Mai Anh
Nguyen Cam Van


Ngo Dinh Thuc Tran
Luu Đuc Cuong
Le Hoang Phuong
Nguyen Hong Sơn
Nguyen Diem Hang
Nguyen Ngoc Tiep
Nguyen Minh Hoa
Pham Ngoc Hoa


Kai He,
Yoon Suk-jin,
Hoang Ngoc Lan,
Le Thi Bich Ngoc
Thuy Anh
Thanh Bich
Le Thi Bich Thuan
Nguyen Trung Dung
Authors
Nguyen Hoang Long
Ho Van Dang


Chung Hau
Nguyen Trong Tam


Trinh Van Chinh
Luu Ñuc Cuong
Ng. Ngoc Le Quynh
Luu Ñuc Cuong
Nguyen Huy Quang



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

MÙc lÙc



Sự kiện



■ VIUP ký kết hợp với Viện Quy hoạch
vật thể CUBA


Khái Niệm



■ Khái niệm đô thị vệ tinh


■ Tổng quan về mơ hình quy hoạch
đơ thị vệ tinh


Diễn đàn



■ Đô thị vệ tinh ở Việt Nam


■ Xu hướng quản lý không gian đô thị vệ tinh
qua các dự án phát triển đô thị tại VN
■ Kinh nghiệm quốc tế xây dựng hạ tầng
khung để phát triển các đô thị vệ tinh
■ Đô thị vệ tinh và các chiến lược phát triển
tích hợp giao thơng - đơ thị


■ Chuyển dịch quyền phát triển
trong phạm vi vùng đô thị


■ Bài học kinh nghiệm quy hoạch phát
triển đô thị vệ tinh trong QHC xây dựng


thủ đô Hà Nội


■ Phát triển đô thị trung tâm và vệ tinh,
mối liên kết giữa các đô thị - Nghiên cứu
trường hợp Hà Nội


■ Tổ chức lại không gian đô thị cho sự ra
đời và vận hành của các thành phố
vệ tinh ở TP.HCM


■ Xây dựng đô thị vệ tinh
nhìn từ thực tiễn TP.HCM


Quy hoạch & Kiến trúc thế giới


■ Tái cơ cấu mối quan hệ vùng và hình thành
sự hấp dẫn - tìm hiểu về hai ví dụ của việc
QH các trung tâm phụ cận Bắc Kinh
■ Liên kết các vùng đô thị vệ tinh và
chuỗi giá trị toàn cầu: bài học thực tiễn từ
Incheon, Hàn Quốc


■ Quy hoạch đô thị cực lớn - Một số bài học
từ kinh nghiệm của TP.Bangkok - Thái Lan
■ MANILA - đô thị cổ kính và hiện đại


■ Những thành phố châu Á đã sẵn sàng
cho tương lai


Quy hoạch và tác giả




■ Thực trạng phát triển nhà ở xã hội
cho thuê tại thành phố Hà Nội
■ Những thách thức về phát triển nhà ở
giá rẻ tại các quốc gia đang phát triển -
trường hợp của Việt Nam và Ấn Độ
■ Thực trạng và một số yêu cầu đổi mới
ứng dụng trong công tác quy hoạch đô thị
ở Việt Nam


■ Tác động của biến đổi khí hậu tới


mạng lưới đường các đô thị tỉnh lị ven biển
Tây Nam vùng Đồng bằng SCL


Daønh cho sinh vieân



■ Đồ án tốt nghiệp xuất sắc năm 2018


Đa Ngành



■ Tích hợp phát triển không gian ngầm
trong siêu đô thị


■ Định hướng quy hoạch và các trung tâm
đô thị thành phố Đà Nẵng


■ Đề xuất lồng ghép chiến lược thích ứng với
biến đổi khí hậu giảm nhẹ rủi ro thiên tai
vào quản lý PTĐT TP.Vĩnh Yên.



■ Thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển
cây xanh đơ thị TP. Cần Thơ


Thông tin



■ Tin QT
■ Tin trong nước
■ Tin viup


<i>Hồng Tú</i>


<i>Nguyễn Trung Dũng</i>


<i>Nguyễn Đăng Sơn</i>
<i>Ngô Minh Hùng</i>
<i>Vũ Thị Vinh</i>
<i>Nguyễn Mai Anh </i>
<i>Nguyễn Thị Cẩm Vân</i>


<i>Ngơ Đình Thục Trân</i>
<i>Lưu Đức Cường</i>
<i>Lê Hoàng Phương</i>
<i>Nguyễn Hồng Sơn</i>
<i>Nguyễn Thị Diễm Hằng</i>
<i>Nguyễn Ngọc Tiệp</i>
<i>Nguyễn Minh Hòa</i>
<i>Phạm Ngọc Hòa</i>


<i>Kai He, </i>
<i>Yoon Suk-jin, </i>


<i>Hồng Ngọc Lan,</i>
<i> Lê Thị Bích Ngọc</i>
<i>Thùy Anh</i>


<i>Thanh Bích</i>


<i>Lê Thị Bích Thuận</i>
<i>Nguyễn Trung Dũng</i>
<i>Nhóm tác giả</i>
<i>Nguyễn Hồng Long</i>
<i>Hồ Văn Đáng</i>


<i>Chung Hậu</i>
<i>Nguyễn Trọng Tâm</i>
<i>Trịnh Văn Chính</i>
<i>Lưu Đức Cường</i>
<i>Ng. Ngọc Lệ Quỳnh</i>
<i>Nguyễn Huy Quang </i>


<i>Lưu Đức Cường</i>


<i>Huy Minh</i>
<i>Minh Anh</i>
<i>Quỳnh Lan</i>


<b>Chun đề:</b>
ĐƠ THỊ VỆ TINH
Trong SỐ NAØY


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

T

ừ khi Đề án Quy hoạch các Khu kinh tế ven biển (KKTVB)

Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định
1353/QĐ-TTg, tháng 9/2008 đến nay, trên toàn quốc đã có
15 KKTVB được thành lập và sẽ cịn nhiều KKTVB khác dự kiến hình
thành. Các KKTVB đã và đang phát huy vai trị quan trọng, góp phần
tạo ra động lực phát triển kinh tế-xã hội cho các địa phương ven biển.
Tại các KKTVB đã có 147 dự án đầu tư với số vốn 38,4 tỉ USD, tạo ra
công ăn việc làm cho trên 10.000 người.


Bên cạnh các thành tựu đạt được, việc quy hoạch các KKTVB cịn
tồn tại nhiều khó khăn thách thức, trong đó nổi cộm nhất là vấn đề
khai thác sử dụng chưa hiệu quả. Hiện tại, tỉ lệ lấp đầy tại các KKTVB
mới đạt dưới 40% diện tích. Theo các quyết định thành lập ban đầu,
cả nước có 15 KKTVB được thành lập với tổng diện tích 662.249ha.
Theo quy hoạch chung xây dựng các KKTVB, có khoảng 54.300ha
đất trong KKTVB dành cho mục đích sản xuất kinh doanh, du lịch, dịch
vụ (chiếm 8% tổng diện tích đất các KKTVB); khoảng 12.100ha đất
khu phi thuế quan (2%); đất nông lâm ngư nghiệp 71.100ha (11%);
đất khu dân cư khoảng 36.800ha (6%); đất cơng trình cơng cộng, khu


hành chính khoảng 25.200ha (4%) và đất mặt nước, sơng ngịi, đồi núi
khoảng 318.800ha (48%). Như vậy, trong các KKTVB chỉ có khoảng
10% diện tích đất phục vụ trực tiếp cho sản xuất công nghiệp, du lịch,
dịch vụ, thương mại là các ngành tạo ra giá trị sản xuất cho KKTVB.


NHẰM TRIỂN KHAI NGHỊ ĐỊNH THƯ VỀ “GIẢI PHÁP QUY HOẠCH


XÂY DỰNG VAØ QUẢN LÝ QUY HOẠCH NHẰM KHAI THÁC



HIỆU QUẢ CÁC NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN KHU KINH TẾ VEN BIỂN”



THOẢ THUẬN HỢP TÁC GIỮA VIUP



VAØ VIỆN QUY HOẠCH VẬT THỂ CUBA



SỰ KIỆN


Thực hiện: HOAØNG TÚ


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Đất hành chính, cơng cộng, phục vụ dân sinh và đất mặt nước, đồi
núi chiếm phần diện tích chủ yếu trong các KKTVB. Sau Quyết định
1353/QĐ-TTg, năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý bổ sung
thêm 03 KKTVB vào Quy hoạch là: KKTVB Đông Nam, tỉnh Quảng
Trị (quy mơ 23.460ha); KKTVB Thái Bình, tỉnh Thái Bình (quy mơ
30.583ha) và KKTVB Ninh Cơ, tỉnh Nam Định (quy mơ 13.950ha).
Như vậy, có 18 KKTVB được phê duyệt trong Quy hoạch phát triển
KKTVB của cả nước đến năm 2020 với tổng diện tích mặt đất và mặt
nước 730.553ha, bằng khoảng 2,2% tổng diện tích của cả nước. Tuy
nhiên, 3 khu kinh tế này đều chưa đi vào hoạt động.


Bên cạnh đó, cơng tác đầu tư còn dàn trải, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý,
nguồn lực đầu tư cho kết cấu hạ tầng phụ thuộc vào nguồn ngân sách
Trung ương. Thực tế, trong 18 KKTVB đã được phê duyệt, có 14 khu
được thành lập ở những tỉnh có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cịn
nhiều khó khăn. Do đó, việc phát triển kết cấu hạ tầng chủ yếu phải
dựa vào nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, đóng góp của
nhiều khu kinh tế ven biển vào cơ cấu kinh tế chung tại các địa phương
chưa thực sự rõ nét.


Ngoài một số KKTVB được thành lập sớm, có đầu tư trọng điểm như
Dung Quất, Vũng Áng, Nghi Sơn, Chu Lai được quy hoạch hệ thống
giao thông kết nối, nằm trong hành lang vành đai kinh tế ven biển
thuận lợi, còn lại phần lớn các KKTVB vẫn đang trong giai đoạn đầu


tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, kỹ thuật.


Bên cạnh vấn đề về liên kết vùng, bảo vệ mơi trường và ứng phó với
Biến đổi khí hậu (BĐKH) cũng là thách thức lớn trong quá trình phát
triển các KKTVB. Mặc dù đã có Đề án quy hoạch phát triển tổng thể,
nhưng vẫn xảy ra tình trạng cạnh tranh giữa các địa phương ven biển
khi có xu hướng phát triển KKTVB của riêng mình với quy mơ lớn và
hạ tầng (cảng biển, sân bay…) đầy đủ nhất có thể. Các chính sách ưu
đãi nhằm cạnh tranh thu hút đầu tư có phần nào làm giảm nhẹ các yêu
cầu về tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường và ứng phó với BĐKH
và NBD. Sự cố mơi trường trầm trọng do công ty Formosa thuộc khu
Kinh tế Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh xảy ra năm 2016 vừa qua là lời cảnh
tỉnh cho các vấn đề trên.


Cuba là một quốc gia biển đảo giống với Việt Nam và đang trong giai
đoạn đầu phát triển các KKTVB để thu hút đầu tư nước ngoài, những
bài học kinh nghiệm trong phát triển các KKTVB của Việt Nam là rất
hữu ích cho Cuba. Mặt khác, Cuba có thế mạnh trong công tác quản
lý tổng hợp không gian ven biển, đặc biệt là quản lý các hoạt động quy
hoạch, xây dựng và khai thác với khung thể chế đồng bộ và bộ máy


triển khai ở các cấp từ trung ương đến địa phương khá hiệu quả có thể
chia sẻ với Việt Nam.


Vì vậy, việc phối hợp nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm từ thực tế và
kinh nghiệm quốc tế để đưa ra giải pháp quy hoạch hợp lý, đem lại
hiệu quả cho việc đầu tư, khai thác và phát triển hiệu quả khu kinh tế
ven biển áp dụng cho cả hai nước Việt Nam và Cuba là rất cần thiết.
Mục tiêu của dự án nhằm điều tra, rà soát và đánh giá hiệu quả của
quy hoạch chung xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu, khu kinh tế


ven biển; để làm cơ sở kiến nghị điều chỉnh các chiến lược, chính
sách cũng như các văn bản pháp quy về quy hoạch xây dựng, quy
hoạch phát triển các khu kinh tế cho phù hợp với tình hình và xu
hướng hiện nay.


Đề xuất các biện pháp nhằm tăng cường tính pháp lý, tính khả thi, đồng
thời tháo gỡ các vướng mắc còn tồn tại đối với các quy hoạch chung
Khu kinh tế ven biển, Khu kinh tế cửa khẩu từ khâu lập đồ án đến khâu
tổ chức thực hiện, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu phát triển trước mắt
cũng như lâu dài.


Hiện tại, Cuba đang trong quá trình cập nhật nền kinh tế theo mơ hình
kinh tế thị trường. Mơ hình các KKTVB đang được Chính phủ Cuba
hết sức quan tâm như một công cụ quan trọng để thu hút đầu tư phát
triển kinh tế đất nước. Đặc khu kinh tế ven biển Mariel, Khu chế xuất
thương mại tự do đầu tiên của Cuba đã được thành lập gần thủ đô
Habana nằm thu hút các nguồn lực đầu tư nước ngồi, trong đó có các
tập đồn Việt Nam cũng đã quan tâm và đầu tư tại đây.


Viện Quy hoạch Vật thể Cuba (IPF) là cơ quan trực thuộc Chính phủ,
có chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực Quy hoạch lãnh thổ
và quản lý phát triển đơ thị trên phạm vi tồn quốc. IPF đã triển khai
hầu hết các đồ án quy hoạch của Cuba trên nhiều cấp độ từ Quy
hoạch lãnh thổ, quy hoạch đô thị và quy hoạch chi tiết, thiết kế đơ thị,
bảo tồn di sản… Viện có đội ngũ cán bộ chuyên môn được đào tạo
bài bản tại trong nước và quốc tế, có tạp chí khoa học chuyên ngành
riêng. Viện có quan hệ hợp tác nghiên cứu với nhiều đối tác quốc tế,
đặc biệt với Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia Việt Nam
thông qua nhiều dự án cụ thể như Quy hoạch bảo tồn đô thị Hội An
(1998), Đề tài Nghị định thư về Giải pháp thiết kế quy hoạch không


gian công cộng ven biển cho các đô thị du lịch Việt Nam nhằm tăng
cường khả năng tiếp cận và thích ứng với BĐKH (2016). Bề dày hợp
tác qua nhiều năm này sẽ đảm bảo cho Hợp tác nghiên cứu mới có
nhiều cơ hội thành công tốt đẹp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

TS.KTS. NguyễN TruNg DũNg
<i>Giám đốc TT Thông tin, Đào tạo & HTQT</i>


Đô thị vệ tinh hoặc thị trấn vệ tinh của thành phố là một khái niệm trong


quy hoạch đô thị mà đề cập chủ yếu đến các khu vực đô thị nhỏ hơn, được


đặt khá gần và tương đối độc lập với khu vực đô thị trung tâm lớn


(Metro-politan).



Mô hình phát triển đơ thị vệ tinh được hiểu trong học thuật về đô thị của


phương Tây là việc phát triển các thành phố nhỏ và trung bình xung quanh


một thành phố trung tâm và chúng được liên kết với thành phố trung tâm


này bằng một hệ thống giao thơng cơng cộng hồn thiện. Hệ thống giao


thông này sẽ cho phép nhiều người dân sống tại các đơ thị vệ tinh có thể di


chuyển vào đô thị trung tâm hằng ngày dễ dàng. Giữa thành phố trung tâm


và các đô thị vệ tinh thường là các vành đai xanh. Các thành phố trung tâm


theo mơ hình đơ thị vệ tinh thường bị giới hạn khu vực phát triển (không


thể mở rộng hơn) để không biến thành một đại đô thị khổng lồ. Ví dụ điển


hình nhất ở châu Á mà tơi biết là hệ thống đô thị mới quy mô trung bình


xung quanh thành phố Tokyo (mặc dù Tokyo bản thân đã là một đại đô thị


rồi) tại Nhật Bản.



NguyễN Đỗ DũNg


KHÁI NI



M


Khái niệm



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Mơ hình quy hoạch đơ thị vệ tinh (ĐTVT)
đã có bề dày lịch sử hơn một thế kỷ và
được áp dụng tại rất nhiều các vùng đô thị
lớn trên thế giới. Tại mỗi quốc gia, việc áp
dụng mô hình quy hoạch này lại có những
sáng tạo riêng phù hợp với bối cảnh phát
triển đô thị mỗi nước nhưng tựu chung lại
đều cho thấy sức sống mạnh mẽ của mơ
hình này. Đặc biệt, trong bối cảnh đơ thị
hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước
đang phát triển thì mơ hình này nếu được
áp dụng đúng vẫn là câu trả lời hiệu quả
trong vấn đề quy hoạch và quản lý phát
triển các vùng đô thị lớn với xu thế đang
ngày càng gia tăng về số lượng và quy mô.
Tại nước ta, xu thế hình thành các vùng
đô thị lớn cũng đang định hình rõ ràng,
minh chứng qua sự lớn mạnh không ngừng
của các vùng đô thị lớn truyền thống như
thành phố Hà Nội, TP.HCM rồi mở rộng
trên phạm vi liên tỉnh như Vùng thủ đơ hay
xu hướng hình thành các vùng đơ thị cấp
tỉnh mới như: Bắc Ninh, Thừa Thiên-Huế…
Xu thế này một lần nữa lại đặt ra bài toán
áp dụng mơ hình quy hoạch đơ thị vệ tinh
tại Việt Nam mà thành phố Hà Nội là địa


phương đi đầu. Tuy nhiên, sau 8 năm triển
khai QHCXD thủ đơ, việc hình thành các
ĐTVT theo định hướng vẫn tỏ ra lúng túng
và chưa có nhiều kết quả cụ thể; việc áp
dụng mơ hình này cũng đặt ra nhiều vấn đề
phát sinh mà chưa có bài toán giải quyết
cụ thể, đặc biệt là về đầu tư phát triển hạ
tầng kết nối, quản lý xây dựng tại khu vực
vành đai xanh, xác định mơ hình quản lý
phát triển đặc biệt là mơ hình quản lý hành
chính đối với các đơ thị vệ tinh.


Phát triển ĐTVT trên thế giới


<i><b>Mơ hình ĐTVT đầu tiên tại London-Vương </b></i>
<i><b>quốc Anh</b></i>


Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết
thúc, nhu cầu nhà ở tại Anh trở nên hết
sức nóng bỏng. Sức ép lớn giải quyết nhu
cầu đó khiến Chính phủ liên hiệp tại Anh
lúc bấy giờ cho ra đời Đạo luật về nhà ở
năm 1919. Đạo luật này được xem là tạo
ra cơ hội để biến mơ hình lý thuyết về
thành phố vườn thành thực tế. Tuy nhiên,
nó đã không tạo ra một thành phố nào,
thay vào đó Chính phủ chỉ mong muốn tạo
ra một cách nhanh nhất số lượng nhà ở
có thể. Những khu nhà ở được xây dựng


V mƠ hÌnh QUY hOCh



ĐƠ ThỊ Vệ Tinh



KHÁI NIM


TS.KTS. NguyễN TruNg DũNg


<i>Giám đốc TT Thơng tin, Đào tạo & HTQT</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

phân tán và khơng có kế hoạch tại các
địa phương.


Sau thành công của dự án thành phố
Letchworth, thành phố vườn đầu tiên tại
Anh, Hiệp hội Quy hoạch thành phố vườn
tại Anh đã có nhiều nỗ lực để đưa mơ hình
thành phố vườn vào trong Luật nhà ở, tuy
nhiên những cố gắng này đã không đem
lại kết quả.


Cùng với sự quyết tâm của Mr. Ebenezer
Howard, một cơng ty có tên gọi “Cơng ty
trách nhiệm hữu hạn Thành phố vườn thứ


2” đã được thành lập mà khơng cần đến sự
hỗ trợ của Chính phủ. Công ty này đã mua
lại 1458ha đất trang trại tại Hertfordshire
và 230 mẫu Anh của chủ đất Desborough
và 689ha từ chủ đất Salisbury để tiến hành
xây dựng thành phố vườn thứ 2 với tên gọi
Welwyn theo mơ hình một thành phố vệ


tinh cách London 21 dặm (tương đương
khoảng 32km). Thành phố này được tạo
ra trên sự kết hợp giữa chức năng nhà ở
và công nghiệp, với dân số 40.000-50.000
người. Sở hữu về bất động sản của toàn
thành phố thuộc về Công ty trách nhiệm
hữu hạn Thành phố vườn thứ 2. Mục đích
là tạo dựng ra một thành phố khép kín, tiện
nghi và tương đối độc lập với London, việc
gìn giữ vẻ đẹp thiên nhiên và tạo ra sự hài
hòa giữa kiến trúc nhà ở và môi trường là
yếu tố được chú trọng nhất. Mật độ xây
dựng được giới hạn cho 20 ngôi nhà trên
một mẫu Anh. Sau 5 năm xây dựng, dân
số của thành phố Welwyn đã là 2584 người
(năm 1924).


❑ Mô hình quy hoạch thành phố vệ tinh đầu
tiên tại Anh nhằm đáp ứng các yêu cầu
phát triển mới của đô thị trong thời đại bùng
nổ cơng nghiệp. Mơ hình ĐTVT có nguồn
gốc bắt nguồn từ “Đơ thị vườn” nhằm đáp
ứng nhu cầu của người dân được hưởng


thụ một môi trường đơ thị, khơng gian sống
mới có chất lượng cao hơn so với những gì
các đơ thị lịch sử khơng cịn đáp ứng được.
❑ Các nghiên cứu mơ hình lý thuyết về mơ
hình quy hoạch ĐTVT đóng vai trò tiền đề
cho sự ra đời của các ĐTVT sau này.


❑ Vai trò quyết định của các tổ chức và
công ty tư nhân trong đầu tư xây dựng
ĐTVT đầu tiên.


<i><b>Quy hoạch và quản lý các ĐTVT tại Cộng </b></i>
<i><b>hịa Pháp</b></i>


Chính sách phát triển các thành phố mới
“ville nouvelle” ra đời tại Cộng hòa Pháp từ
những năm 1960 và vẫn đang được triển
khai cho tới nay. Mục tiêu của chính sách
này là cho ra đời 9 thành phố mới trên toàn
nước Pháp, nhằm giảm tải cho các vùng
đô thị lớn mà chủ yếu là cho vùng
Ile-de-France (5/9 thành phố).


Mơ hình thành phố mới tại Pháp có thể coi
là một phiên bản của thành phố vệ tinh.
Mơ hình thành phố mới áp dụng chủ yếu
tại vùng Ille de France là giải pháp nhằm
chống lại việc mở rộng không giới hạn và
hỗn loạn của các khu vực ngoại ô xung
quanh thành phố Paris và là giải pháp khắc
phục cho những nhược điểm về quy hoạch
của các khu nhà ở xã hội được xây dựng ồ
ạt theo quy mô lớn (grand ensemble) được
phát triển tràn lan tại vùng ngoại ô.
Để có thể triển khai được các thành phố
mới này, Chính phủ đã cho áp dụng các
cơng cụ pháp lý mới. Toàn bộ chương


trình quy hoạch xây dựng các thành phố
này được đặt trong khn khổ chính sách
có tên gọi “Các dự án lợi ích quốc gia”
(Opérations d’intérêt nationals-OIN) cho
phép Chính phủ có tồn quyền trong lĩnh
vực quy hoạch liên quan đến các thành
phố mới. Ở cấp độ địa phương, thành lập
tại mỗi thành phố mới một “Cơ quan quy
hoạch công cộng” (Establissement Public
d’Aménagement-EPA) chịu trách nhiệm
tồn bộ cơng việc quy hoạch và xây dựng.
EPA áp dụng các cơng cụ quy hoạch sẵn
có như ZAD (khu quy hoạch phối hợp);
ZUP (Khu quy hoạch ưu tiên), ZAC (Khu
quy hoạch có tham vấn) để tiến hành
quản lý toàn bộ các biến động về đô thị
và quy hoạch tại các khu vực thành phố
mới tương lai.


Hình 1: Quy hoạch Thành phố vườn
Welwyn-Thành phố vệ tinh đầu tiên của London


<i>(Nguoàn: C.B Purdom, The Building </i>
<i>of Satellite towns)</i>


Hình 2: Quy hoạch các khu nhà ở tại thành phố
vệ tinh Welwyn


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Chính sách phát triển các thành phố mới
ra đời thể hiện quyết tâm của Chính phủ


Pháp nhằm giải quyết tình trạng phát triển
mất cân bằng giữa Paris và các tỉnh khác
cũng như hạn chế việc mở rộng đô thị lan
tỏa theo dạng “vệt dầu loang” tại các đại đô
thị như: Paris, Marseille, Lyon, Lille.
■ 5 thành phố mới được quy hoạch và xây
dựng tại ngoại vi Paris bao gồm:


❑ Cergy Pointoise nằm phía Tây


❑ Marne-la-Vallée nằm phía Đông


❑ Evry và Sénart nằm phía Đông Nam


❑ Saint-Quetin-en-Yvelines phía Tây Nam


■ 04 thành phố mới được quy hoạch tại các
tỉnh bao gồm:


❑ Villeneuve d’ascq nằm phía Đông thành


phố Lille


❑ L’Isle d’Abeau nằm phía Đông thành phố


Lyon


❑ Val-de-Reuil nằm giữa Paris và Rouen


❑ Rives de l’Etang de Berre gần thành phố



Marseille


Sơ đồ Quy hoạch và đơ thị hóa vùng Paris
(SDAURP) phê duyệt năm 1965 đã xác
định 8 thành phố mới được quy hoạch
xung quanh Paris với khoảng cách từ 15
đến 50km. Con số cuối cùng được rút
xuống còn 5 thành phố: Marne la Vallée,
Cergy-Pontoise, Saint Quentin en Yveline,


Sesnar, Evry. Các thành phố mới này có
nhiệm vụ tạo ra các trung tâm đô thị mới
thu hút việc làm và cư dân đến từ các khu
vực ngoại thành xung quanh và có liên
hệ khăng khít với thành phố Paris nhờ hệ
thống giao thông cơ giới.


Thành phố vệ tinh Évry: Thành phố vệ tinh
đầu tiên của Paris được nghiên cứu quy
hoạch vào năm 1967. Ngày 12/4/1968, một
Cơ quan quy hoạch công với tên viết tắt
là “EPEVRY” được thành lập để tiến hành
công tác quy hoạch và phát triển Évry.
Phạm vi lập quy hoạch thành phố Évry bao
gồm các xã Bondoufle, Courcouronnes,
Évry, và một phần của Ris-Orangis.
Năm 1983, Nghiệp đoàn cộng đồng đô
thị mới (SAN) được thành lập bao gồm
các xã Bondoufle, Courcouronnes, Évry


và Lisses. Năm 2000, EPEVRY giải thể
và SAN trở thành Cộng đồng đô thị Evry
Centre Essone ngày nay.


Thành phố vệ tinh Cergy-Pontoise: Được
quy hoạch vào năm 1969. Cơ quan quy
hoạch công chịu trách nhiệm tổ chức
quy hoạch và xây dựng Cergy-Pontoise
(EPACERGY) được thành lập vào ngày
16/4/1969. Phạm vi quy hoạch của
Cergy-Pontoise bao gồm 15 xã của Tỉnh
Val-d’Oise et des Yvelines, sau đó giảm xuống
cịn 11 xã vào năm 1984. Không gian đô


thị của Cergy-Pontoise được tổ chức
xung quanh tòa nhà trụ sở mới của Tỉnh
Cergy-Pontoise và một trục trung tâm
đô thị chính. Ngày 31/12/2002,
Cergy-Pontoise rời khỏi Chương trình phát triển
các thành phố mới và trở thành một cộng
đồng đô thị.


Thành phố Saint-Quentin-en-Yvelines:
Ngày 21/9/1970, Cơ quan quy hoạch
phát triển Saint-Quentin-en-Yvelines
(EPASQY) được thành lập. Phạm vi
quy hoạch thành phố
Saint-Quentin-en-Yvelines bao gồm 11 xã sau đó giảm xuống
7 xã năm 1984 bao gồm:
Saint-Quentin-en-Yvelines: Élancourt, Guyancourt, La


Verrière, Magny-les-Hameaux,


Montigny-le-Bretonneux, Trappes,


Voisins-le-Bretonneux. Đến 2002, quy hoạch
Saint-Quentin-en-Yvelines được coi như hoàn
thành, EPASQY giải thể ngày 31/12/2002
và Nghiệp đoàn cộng đồng đô thị
Saint-Quentin-en-Yvelines trở thành Cộng đồng
đô thị vào năm 2003.


Thành phố Marne-la-Vallée: Cơ quan quy
hoạch Marne-la-Vallée (EPAMARNE)
được thành lập ngày 17/8/1972.
Marne-la-Vallée là thành phố vệ tinh có quy mô lớn
nhất của Paris. Phạm vi quy hoạch thành
phố là 15.000ha trải trên địa bàn 26 xã và
03 tỉnh (Seine-Saint-Denis, Val-de-Marne
et Seine-et-Marne).


Hình 3: Quy hoạch 05 thành phố vệ tinh của Paris
Nguồn: Quy hoạch thủ đơ Paris đến 2020


Hình 4: Thành phố vệ tinh Cergy-Pontoise
cách nội đô Paris 40 phút di chuyển bằng


phương tiện công cộng


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Liên minh phát triển thành phố (SCA) được
thành lập vào năm 1973 sau trở thành


Nghiệp đồn Cộng đồng đơ thị năm 1983
và Cộng đồng đô thị năm 2003.


Năm 1987, với sự xuất hiện của dự án
Disney Land, một cơ quan Quy hoạch mới
ra đời gọi tắt là EPAFRANCE. Quá trình
quy hoạch và xây dựng của
Marne-la-Vallée vẫn còn đang tiếp diễn.


Thành phố Sénart: Thành phố vệ tinh
được quy hoạch cuối cùng của Paris trên
địa bàn của 18 xã của Essonne và
Seine-et-Marne. Cơ quan quy hoạch phát triển
Sénart (EPASENART) được thành lập
ngày 15/10/1973. Mục tiêu của dự án là
hình thành một trung tâm đô thị đa cực
nhằm hạn chế quá trình lan tỏa quần thể
đô thị Évry. Năm 1983, 8 xã rời khỏi dự án
Sénart, mục tiêu của dự án buộc phải giới
hạn bởi việc hình thành ra một trung tâm
đô thị mới gọi là Carré Senart.


Sau 50 năm hình thành và phát triển, phần
lớn các thành phố này đã khơng cịn giữ
được thể chế mong muốn ban đầu là đô thị
độc lập mà trở thành các Cộng đồng đô thị
(Communauté urbaine). Điều đó đánh dấu
sự chuyển đổi thẩm quyền trực tiếp của
Chính phủ đối với các thành phố mới về
cho chính quyền địa phương. Tuy nhiên, 3


trong số 9 thành phố đó vẫn giữ được tính
chất ban đầu.


Sự tăng trưởng dân số của các thành phố
vệ tinh tại Pháp chậm hơn theo dự kiến quy
hoạch. 5 thành phố vệ tinh đã xây dựng có
mức tăng dân số lớn trong khoảng từ năm
1970 đến 1990.


Với các chức năng hoạt động đa dạng về
thương mại, giải trí, giáo dục, công nghiệp,


các thành phố mới của Paris đã đóng vai
trị là những cực đô thị quan trọng của
khu vực ngoại ô hay như thành phố mới
Villeneuve d’Ascp trở thành một trung tâm
đô thị quan trọng của thành phố Lille nhờ
vào sự hình thành một khu trung tâm đại
học và nghiên cứu, công nghệ lớn.
Một số thành phố mới chỉ trở thành các
khu vực ngoại ô của các thành phố lớn như
trường hợp của L’Isle d’Abeau do khoảng
cách quá xa thành phố Lyon hay không
được ra đời như Le Vaudreuil và Rives de
l’Etang de Berre. Thành phố mới Rives
de l’Etang de Berre hiện nay chỉ là sự đặt
cạnh nhau của 3 điểm đô thị nhỏ, rất khác
biệt về mặt quy hoạch đô thị và thiếu một
trung tâm chính. Những chức năng đơ thị
chính tập trung hết tại thành phố Marseille


và Aix-en-Provence, trong khi Rives de
l’Etang de Berre lại khơng có sự kết nối
không gian đô thị liên tục với các thành
phố đó.


Tổng kết lại thì các thành phố mới được
hình thành cho đến nay đã trở thành các
cực đô thị quan trọng của các đô thị lớn
như Paris, Lille, đáp ứng được mục tiêu quy
hoạch ban đầu.


❑ Các thành phố vệ tinh của Paris đã đáp
ứng được yêu cầu đặt ra trong việc góp
phần kiểm sốt sự mở rộng khơng gian
đơ thị cho thành phố Paris cũng như tồn
vùng Ile-de-France


❑ Việc phát triển các ĐTVT phải dựa trên
việc phát triển một mạng lưới giao thông
công cộng tốc độ nhanh (Metro, đường sắt
đơ thị, bus nhanh...) địi hỏi phải đầu tư ban
đầu lớn.


❑ Các thành phố vệ tinh phát triển thành
công là những đô thị có mạng hệ thống


dịch vụ cơng cộng hồn chỉnh và có khả
năng tạo ra việc làm. Các chức năng quan
trọng là động lực cho phát triển ĐTVT bao
gồm: Thương mại, công nghiệp, đào tạo


đại học, nghiên cứu cơng nghệ cao, giải trí.
+ Khoảng cách đến đô thị trung tâm và quy
mô dân số hợp lý cũng là điều kiện quan
trọng cho việc hình thành và phát triển bền
vững của ĐTVT. Khoảng cách tối ưu của
một ĐTVT với đô thị trung tâm (ĐTTT) là
từ 30-40km (30-40 phút di chuyển phương
tiện công cộng). Nếu khoảng cách ngắn
hơn, các ĐTVT sẽ có nguy cơ bị bành
trướng bởi sự mở rộng không gian của đô
thị trung tâm dẫn tới việc cả chùm ĐTVT sẽ
biến thành một đại đô thị. Các ĐTVT không
được hình thành do khoảng cách quá xa,
thiếu kết nối về mặt đô thị với các đô thị
trung tâm như các trường hợp: Rives de
l’Etang de Berre (quy hoạch là vệ tinh của
thành phố Marseille), L’Isle d’Abeau (quy
hoạch là vệ tinh của thành phố Lyon). Để
đảm bảo duy trì khoảng cách tối ưu trên thì
cần kiểm sốt được q trình mở rộng của
đơ thị trung tâm và ĐTVT, trong đó việc
kiểm sốt và duy trì hành lang xanh cách ly
có tính chất sống cịn.


❑ Mô hình quản lý ĐTVT của Paris theo


các mơ hình đơn vị hành chính độc lập
là một thành phố (ville) tương đương cấp
xã hoặc gồm nhiều xã liên kết lại dưới
dạng một Cộng đồng đơ thị (communauté


urbaine). Mơ hình Cộng đồng đô thị là một
cơ chế đặc thù trong quản lý phát triển đô
thị tại Pháp cho phép liên kết nhiều đơn
vị đô thị từ nhỏ đến lớn vì một mục đích
chung là quy hoạch và phát triển đô thị,
kinh tế.


Một số đúc kết cho công tác


quy hoạch và quản lý phát triển


ĐTVT



<i><b>Xây dựng thể chế cho phát triển ĐTVT: Từ </b></i>
các kinh nghiệm thành công phát triển các
thành phố vệ tinh đầu tiên tại Vương quốc
Anh và Cộng hòa Pháp cho thấy vai trò
quan trọng về hoạch định chính sách của
nhà nước. Việc quy hoạch phát triển các
ĐTVT khơng chỉ bó hẹp trong trách nhiệm
của chính quyền thành phố (hoặc Vùng)
mà được xem như các dự án lợi ích quốc
gia từ đó tạo ra điều kiện cho tập trung các
nguồn lực phát triển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i><b>Lộ trình thực hiện: </b></i>Quá trình quy hoạch phát triển các ĐTVT được
thực hiện theo lộ trình hợp lý. Nhà nước tham gia trong giai đoạn
quy hoạch, đầu tư xây dựng sau đó chuyển giao cho chính quyền
địa phương trong giai đoạn quản lý vận hành. Sự chuyển giao từ
mơ hình trực tiếp của nhà nước (các Cơ quan quy hoạch phát triển)
sang cho chính quyền địa phương theo mơ hình cộng đồng đơ thị
tại Pháp là ví dụ điển hình.



<i><b>Mơ hình đầu tư xây dựng: </b></i>Q trình xây dựng các ĐTVT đầu tiên
tại London-Vương quốc Anh cho thấy vai trò của các cá nhân, các
doanh nghiệp BĐS, trong đầu tư xây dựng và tổ chức quản lý khai
thác, nhận thức của người dân về những ưu điểm của mơ hình đơ
thị mới đã tạo nên sự thành cơng của các ĐTVT.


<i><b>Mơ hình quản lý vận hành: </b></i>Các ĐTVT tại thành phố Paris đều
được quy hoạch xây dựng trên địa bàn nhiều xã (đơn vị hành chính
tương đương cấp thành phố tại đô thị, cấp xã tại nông thôn). Trong
giai đoạn đầu tư xây dựng, các ĐTVT được quản lý bởi các Cơ
quan đầu tư phát triển cơng do Chính phủ lập ra bao gồm các đại
diện của Chính phủ và chính quyền các địa phương liên quan. Quá
trình quản lý vận hành các ĐTVT sau khi xây dựng xong được áp
dụng theo mơ hình thành phố độc lập hoặc “Cộng đồng đô thị”
bao gồm đại diện của tất các các đơn vị hành chính (xã) liên quan.
Cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Cộng đồng đô thị được
pháp luật quy định rõ trong Luật với 06 nhóm chức năng cụ thể,
bao gồm:


❑ Phát triển quy hoạch kinh tế-văn hóa-xã hội
❑ Quy hoạch không gian cộng đồng


❑ Cân bằng xã hội về nhà ở


❑ Chính sách với các khu phố nhạy cảm
❑ Quản lý các dịch vụ cơng ích


❑ Chính sách về khơng gian mơi trường sống.



Việc tạo ra mơ hình Cộng đồng đơ thị (nằm trong Mơ hình liên xã,
trong đó Cộng đồng đơ thị áp dụng cho khu vực đô thị và Cộng
đồng liên xã áp dụng cho khu vực nông thôn) cùng với việc quy
định rõ các chức năng nhiệm vụ cho phép tạo ra cơ chế phối hợp
nhiều địa phương (nằm trong địa giới của ĐTVT) trong công tác
điều hành và quản lý phát triển các ĐTVT tại Pháp.


Các bài học kinh nghiệm về quy hoạch phát triển và quản lý ĐTVT
tại các nước sẽ góp phần định hướng cho việc nghiên cứu tìm ra
mơ hình quản lý phát triển phù hợp cho các đơ thị Hà Nội có tính
đến các đặc thù phát triển của từng đô thị, phân biệt rõ giữa quản
lý đô thị và nông thơn, tăng cường phân cấp cho chính quyền đơ
thị, huy động và phát huy vai trò của nhiều thành phần kinh tế, xã
hội tham gia đầu tư và quản lý phát triển các ĐTVT.


<i><b>Các yếu tố sống cịn để phát triển bền vững mơ hình ĐTVT: </b></i>


❑ Hệ thống giao thông kết nối: Các ĐTVT phải được kết nối với
ĐTTT bằng hệ thống giao thông cơ giới cao tốc, giao thông công
cộng như: Đường bộ cao tốc, Bus nhanh, đường sắt đô thị để đảm


bảo thời gian di chuyển trong giới hạn hiệu quả 30�45 phút sử


dụng phương tiện cơ giới. Tuy nhiên, việc đầu tư hệ thống giao
thơng này địi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn trong khi hiệu suất sử


dụng khá hạn chế do phải đi qua các khu vực hành lang cách ly
phát triển đô thị (vành đai xanh).


❑ Khu vực cách ly (Vành đai xanh, nêm xanh): Nhằm đảm bảo sự


phát triển ổn định cho cả hệ thống, việc phá vỡ hệ thống vành đai
xanh sẽ dẫn tới sự đổ vỡ của hệ thống ĐTVT, mơ hình ĐTVT sẽ
trở thành 1 đại đơ thị phát triển lan tỏa. Việc duy trì vành đai xanh
là thách thức lớn nhất đối với mô hình quy hoạch ĐTVT. Trên thực
tiễn nhiều mơ hình ĐTVT trên thế giới đã bị thất bại do không kiểm
sốt được khu vực vành đai xanh, điển hình như Tokyo và Paris.
❑ Quy mô phát triển: Việc kiểm sốt quy mơ phát triển của ĐTTT
với các ĐTVT là yếu tố đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững
của tồn bộ hệ thống đơ thị thành phố. Các ĐTVT cần có ngưỡng
phát triển để không cạnh tranh lẫn nhau và cạnh tranh với ĐTTT.
Việc chia sẻ chức năng đô thị giữa ĐTTT và các ĐTVT cũng là yếu
tố bắt buộc trong mô hình quy hoạch này.


Quy hoạch phát triển ĐTVT tại Việt Nam



Trước khi Quy hoạch chung xây dựng thủ đô đến 2030, tầm nhìn
2050 được phê duyệt năm 2011, trên thực tế chưa có ĐTVT nào
được quy hoạch và xây dựng tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong một
số đồ án quy hoạch và nghiên cứu liên quan đến quy hoạch mạng
lưới các đô thị trong vùng Hà Nội, các đơ thị mang dáng dấp của
mơ hình quy hoạch ĐTVT đã được nghiên cứu đề xuất.


Hình 6: Quy hoạch thành phố mới Vĩnh Yên trong Quy hoạch chung
thủ đô Hà Nội thời kỳ 1968-1974


<i>(Nguồn: Viện Quy hoạch xây dựng Hà Nội (HUPI))</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i><b>Đồ án Quy hoạch mở rộng thủ đô Hà Nội năm 1974: </b></i>


Trong giai đoạn từ 1968-1974, nhu cầu phát triển mở rộng thủ


đô Hà Nội được đặt ra. Được sự giúp đỡ của các chuyên gia quy
hoạch Liên Xô, đồ án Quy hoạch mở rộng thủ đô Hà Nội lên phía
Bắc sơng Hồng được nghiên cứu triển khai. Theo định hướng của
bản quy hoạch này, thủ đơ Hà Nội sẽ được phát triển lên phía Bắc
Sông Hồng thông qua việc quy hoạch thị trấn Xuân Hòa thuộc địa
phận tỉnh Vĩnh Phú phát triển trở thành thành phố mới Vĩnh Yên và
được kết nối với thành phố trung tâm Hà Nội qua cầu Thăng Long
được xây dựng mới. Quy mô dân số thành phố mới Vĩnh Yên và
thành phố trung tâm Hà Nội được đề xuất theo 2 phương án:


❑ Phương án 1: Hà Nội: 1.000.000 người; Vĩnh Yên 700.000


❑ Phương án 2: Hà Nội 700.000 người; Vĩnh Yên 300.000.


<i><b>Dự án Phát triển chuỗi đơ thị khu vực Hịa Lạc và Xuân Mai (Giai </b></i>
<i><b>đoạn I) do Bộ Kế hoạch và đầu tư thực hiện năm 1999.</b></i>


Khu vực Hòa Lạc và Xuân Mai nằm dọc theo Quốc lộ 21A đi qua
các khu vực Sơn Tây - Hòa Lạc - Xuân Mai - Miếu Môn. Dự án đề
xuất việc quy hoạch một “Chuỗi đô thị nghiên cứu mới và đào tạo”
với quy mô dân số khoảng 500.000 người, nhằm xây dựng một
trung tâm mang tầm quốc gia về phát triển nguồn nhân lực và thúc
đẩy khoa học. Trong dự án này Khu CNC Hịa Lạc đóng vai trị là
hạt nhân chính cùng với việc di dời Đại học quốc gia. Một trung
tâm nghiên cứu và đào tạo công nghệ cao cấp quốc gia được đề
xuất thành lập tại Khu CNC Hòa Lạc. Dự án này cùng với Quy


hoạch chung xây dựng khu CNC Hịa Lạc được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt năm 1998 là những cơ sở đầu tiên hình thành nên
khu CNC Hòa Lạc cũng như là ý tưởng ban đầu cho ĐTVT Hòa


Lạc ngày nay.


<i><b>Điều chỉnh Quy hoạch chung thủ đô Hà Nội đến năm 2020 </b></i>
Được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 108/1998/
QĐ-TTg ngày 20/6/1998. Trong đó xác định:


❑ Cơ cấu quy hoạch không gian bao gồm thành phố trung tâm Hà


Nội và các đô thị thuộc tỉnh Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Hưng
Yên trong bán kính từ 30-50km.


❑ Hướng phát triển lâu dài của TP.Hà Nội chủ yếu về phía Tây,


hình thành chuỗi đơ thị Miếu Mơn - Xn Mai - Hịa Lạc - Sơn Tây
(tỉnh Hà Tây), phía Bắc là cụm đơ thị Sóc Sơn (Hà Nội) - Xuân
Hòa - Đại Lải - Phúc Yên (tỉnh Vĩnh Phúc) nhằm khai thác các lợi
thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng...


❑ Đến 2020: Dân số thành phố trung tâm Hà Nội là 2,5 triệu người;


<i>Dân số các đô thị xung quanh khoảng 2-2,5 triệu người. </i>


<i><b>Chương trình phát triển tổng thể đơ thị thủ đơ Hà Nội đến năm </b></i>
<i><b>2020 do tổ chức JICA - Nhật Bản tài trợ (HAIDEP) năm 2007: </b></i>
Trong khuôn khổ nghiên cứu của dự án này, lần đầu tiên ý tưởng
về việc quy hoạch các đô thị cấp trung tâm vùng xung quanh Hà
Nội, bao gồm: Đô thị Mê Linh, Bắc Ninh, Phủ Lý và chuỗi đơ thị
phía Tây bao gồm: Sơn Tây, Hòa Lạc, Xuân Mai, mang tính chất
như các ĐTVT của Hà Nội đã được đề xuất.



Nghiên cứu nêu rõ nếu cứ tập trung phát triển vào Hà Nội sẽ dẫn
đến tình trạng quá tải về hạ tầng, ùn tắc giao thông đồng thời
không phát triển được các khu vực phụ cận, dẫn đến tình trạng
quá chênh lệch về kinh tế-xã hội. Do đó việc phát triển các ĐTVT
là giải pháp cần thiết.


<i>Định hướng hình thành các ĐTVT của thành phố Hà Nội có các liên </i>
<i>kết và hội nhập với đô thị trung tâm Hà Nội về các vấn đề:</i>


❑ Hội nhập về chức năng: Các ĐTVT có các chức năng chiến lược


rõ ràng bổ sung cho Hà Nội cần được phát triển một cách hiệu quả


Hình 7: Quy hoạch chung phát triển đơ thị Hòa Lạc - Xuân Mai
Nguồn: Báo cáo cuối kỳ Dự án Phát triển đơ thị Hịa Lạc - Xn Mai


<i>(Bộ KH&ĐT, 1999)</i>


Hình 8: Chuỗi đơ thị Sơn Tây - Hịa Lạc - Xn Mai - Miếu Mơn
trong đồ án Điều chỉnh QHCXD Hà Nội đến năm 2020


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

trong phạm vi bán kính 30-50km từ Hà Nội.


❑ Hội nhập về không gian: Các ĐTVT cần được kết nối với Hà Nội


bởi mạng lưới giao thơng và hệ thống tín hiệu hiệu quả.


❑ Hội nhập kinh tế-xã hội: Hà Nội và các ĐTVT cần đảm bảo duy


trì phát triển nơng nghiệp, tính bền vững về môi trường, tăng cường


phối hợp với nhau về các vấn đề kinh tế-xã hội như cấp nước, quản
lý chất thải, giao thông vận tải, giáo dục, lao động, việc làm.
Do tại thời điểm nghiên cứu, thành phố Hà Nội chưa được mở
rộng nên các đô thị phía Tây bao gồm: Sơn Tây, Hịa Lạc, Xn
Mai chỉ đóng vai trị là các ĐTVT cấp Vùng. Tuy không được phê
duyệt, nhưng bản Quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Hà Nội
là những nghiên cứu khoa học đầu tiên tạo cơ sở cho việc quy
hoạch các ĐTVT của thành phố Hà Nội tại Quy hoạch chung
thành phố sau đó.


<i><b>Quy hoạch chung xây dựng thủ đơ Hà Nội đến 2030 và tầm nhìn </b></i>
<i><b>2050 </b></i>


QHCXD thủ đô đến 2030, tầm nhìn 2050 đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt ngày 29/7/2011 (Quyết định 1259 QĐ/TTg).
Trong đó đề ra định hướng cấu trúc đơ thị tồn thành phố theo mơ
hình chùm đô thị với 01 thành phố trung tâm (ĐTTT) và 05 ĐTVT
(ĐTVT) cùng các thị trấn sinh thái. Các ĐTVT bao gồm: Sóc Sơn,
Sơn Tây, Hịa Lạc, Xn Mai, Phú Xuyên.


Mục tiêu của việc quy hoạch các ĐTVT này là nhằm kiểm sốt q


trình phát triển lan tỏa của khơng gian đơ thị hóa và tạo ra các cực
phát triển đô thị đồng đều trên phạm vi tồn lãnh thổ thành phố.
Mơ hình ĐTVT khơng phải là một mơ hình quy hoạch mới mẻ trên
thế giới. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên mơ hình này được áp dụng
trên thực tế tại Việt Nam nên có nhiều thách thức phải giải quyết
trong quá trình triển khai đầu tư xây dựng và quản lý phát triển các
đô thị. Các thách thức phải kể đến bao gồm:



<i>1. Xây dựng kế hoạch phát triển các ĐTVT phù hợp với quy mơ, </i>
<i>tính chất đô thị</i>


Các ĐTVT của Hà Nội được quy hoạch trên cơ sở các trung tâm
đô thị hiện hữu hoặc đang hình thành có tính chất và quy mơ rất
khác nhau: ĐTVT Sơn Tây - được quy hoạch trên cơ sở thị xã Sơn
Tây (trước đây đã từng là thành phố Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây
cũ); ĐTVT Sóc Sơn - trên cơ sở thị trấn Sóc Sơn - huyện Sóc Sơn,
ĐTVT Xn Mai hình thành trên cơ sở thị trấn Xuân Mai - huyện
Chương Mỹ; ĐTVT Phú Xuyên trên cơ sở thị trấn Phú Xuyên -
huyện Phú Xuyên. ĐTVT Hòa Lạc còn đang trong quá trình đầu
tư xây dựng trên cơ sở Khu Cơng nghệ cao Hịa Lạc và Khu Đại
học quốc gia.


Sự khác biệt này địi hỏi phải có các mơ hình và lộ trình thực hiện
phù hợp với đặc thù và mức độ phát triển của từng đô thị cho quản
lý phát triển các ĐTVT trong tương lai.


<i>2. Quản lý địa giới hành chính </i>


Địa giới các ĐTVT theo quy hoạch có sự chồng lấn với địa giới các
đơn vị hành chính hiện hữu. Các ĐTVT Sóc Sơn, Xuân Mai nằm
lọt trong địa giới của các huyện ngoại thành: Sóc Sơn, Chương
Mỹ. Trường hợp ĐTVT Phú Xuyên nằm trên địa giới 02 huyện:
Hình 9: Hệ thống các đơ thị trong vùng Hà Nội theo cấu trúc ĐTVT trong


đề xuất của Chương trình phát triển tổng thể đơ thị Hà Nội (HAIDEP)
<i>(Nguồn: Báo cáo Chương trình HAIDEP, 2007)</i>


Hình 10: Quy hoạch cấu trúc hệ thống đô thị Thành phố Hà Nội


theo mơ hình ĐTVT.


<i>(Nguồn: QHC xây dựng thủ đơ Hà Nội đến 2030, tầm nhìn 2050)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Phú Xun và Thường Tín; ĐTVT Hịa Lạc nằm trên địa giới của 03 huyện: Thạch Thất,
Quốc Oai, Ba Vì.


Sự chồng lấn về địa giới hành chính này sẽ gây ra khơng ít khó khăn cho cơng tác phối
hợp giữa các đơn vị trong công tác triển khai thực hiện các quy hoạch và tổ chức quản lý
hành chính, phát triển đơ thị tại các ĐTVT trong thực tiễn.


<i>3. Mơ hình tổ chức quản lý</i>


Về mặt lý thuyết, mặc dù có sự phụ thuộc về chức năng với đô thị trung tâm nhưng các
ĐTVT vẫn là những đô thị đầy đủ về mặt cấu trúc đô thị. Trên thực tế, các ĐTVT trên
thế giới có địa giới hành chính, tổ chức chính quyền và hoạt động như những thành phố
độc lập có phân cấp hành chính ngang hàng với các thành phố trung tâm.


Tại Việt Nam, do cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền địa phương có sự phân biệt giữa đơ
thị và nông thôn nên việc các ĐTVT được quy hoạch trên địa bàn các huyện ngoại thành
sẽ tạo ra thách thức lớn cho việc tìm ra một mơ hình quản lý vừa phù hợp với khn khổ
pháp lý hiện hành vừa đáp ứng các yêu cầu đặc thù của công tác quản lý phát triển đô thị
phân biệt với quản lý nơng thơn.


Mơ hình “thành phố trong thành phố” đối với các thành phố trực thuộc TW đã được Luật
hóa nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể và tiền lệ áp dụng.


<i>4. Quản lý phát triển không gian đô thị tại khu vực Vành đai xanh</i>


Mơ hình ĐTVT chỉ phát huy được hiệu quả khi kiểm sốt được khoảng cách và quy mơ


phát triển của các ĐTVT và đô thị trung tâm.


Những yêu cầu phát triển trên thực tế tại các đô thị về phát triển kinh tế, xã hội dẫn đến
việc rất khó tuân thủ các nguyên tắc giới hạn về phát triển không gian của ĐTVT, đô thị
trung tâm, vành đai xanh cũng như các khu vực cách ly khác. Trên thực tế đô thị trung tâm
vẫn sẽ không ngừng mở rộng, các ĐTVT phát triển chậm chạp do thiếu lợi thế cạnh tranh,
các khu vực cách lý dần bị xóa mờ do việc mở rộng đơ thị hóa tại các đơ thị và vùng nơng
thơn và dẫn đến một đại đô thị sẽ ra đời.


Các ĐTVT ln được hiểu là những đơ thị có quy mơ (dân số) nhỏ hoặc vừa, điều đó có
nghĩa là các ĐTVT không thể phát triển một cách tự do. Nếu các ĐTVT phát triển quá lớn
thì đồng nghĩa với việc nó phải đảm bảo có các chức năng đầy đủ như một đô thị độc lập
mà như vậy sự phụ thuộc cần thiết về mặt chức năng của ĐTVT với ĐTTT sẽ khơng cịn
và đồng nghĩa với việc mơ hình ĐTVT mất đi ý nghĩa. Do vậy việc xác định được quy mô
cũng như ngưỡng phát triển cho ĐTVT là một yêu cầu quan trọng để đảm bảo sự phát
triển ổn định của cả hệ thống đô thị thành phố.


<i>5. Quản lý phát triển đồng bộ trên tồn hệ thống đơ thị thành phố</i>


Để xây dựng thành cơng mơ hình ĐTVT thì cần có một khung pháp lý tồn diện trên quy
mơ tồn thành phố (cấp tỉnh) nhằm điều tiết việc phát triển các ĐTVT không mâu thuẫn
lẫn nhau cũng như mâu thuẫn với đô thị trung tâm về chức năng, quy mơ, lợi ích… Đơ
thị trung tâm thường ln có lợi thế phát triển do có lịch sử hình thành, vị trí, cơ sở hạ
tầng, nguồn lực tốt trong khi các đô thị hạt nhân bị hạn chế về chức năng và quy mơ, chỉ
mang tính bổ trợ và phụ thuộc vào đô thị trung tâm sẽ rất khó phát triển, chưa kể đến
sự cạnh tranh lẫn nhau giữa các ĐTVT. Việc kiểm soát phát triển các ĐTVT và ĐTTT
Hà Nội hiện nay chỉ dựa trên các quy hoạch xây dựng là chưa đủ, cần thiết phải có các
cơng cụ pháp lý mạnh mẽ cùng với các cơ chế chính sách thúc đẩy.


Kết luận




</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

1) Đáp ứng các yêu cầu về an ninh quốc phòng
(Quy hoạch chung trước 1975)


2) Giảm tải mật độ phát triển cho đô thị trung
tâm thành phố Hà Nội: Giảm mật độ dân cư, mật
độ xây dựng; Khắc phục tình trạng quá tải hạ
tầng đô thị, hạ tầng xã hội, xuống cấp về chất
lượng môi trường sống (Quy hoạch chung 1998)
3) Tạo ra khơng gian mới cho q trình mở rộng
đơ thị: Giải quyết vấn đề thiếu nhà ở, hạ tầng kỹ
thuật đầu mối: Các khu xử lý chất thải, nước thải;
Trạm đầu mối cấp nước, điện; Nghĩa trang cấp
thành phố...; Tạo thêm không gian xanh, không
gian mở cho thành phố (Quy hoạch chung
2011).


4) Kiểm sốt q trình đơ thị hóa tại các khu vực
ngoại vi thành phố: tình trạng xây dựng nhà ở,
nhà xưởng sản xuất bừa bãi, không phép, không
theo quy định, quy hoạch dẫn đến mất mỹ quan
chung, lấn chiếm đất nông nghiệp; nguy cơ hình
thành các khu nhà ở ổ chuột;


5) Tạo ra các cực tăng trưởng mới cho thủ đô:
Hình thành các khu cơng nghiệp, công nghệ
cao; Thu hút dự án đầu tư dự án BĐS, đầu tư
nước ngoài...


6) Khắc phục tình trạng phát triển chênh lệch


giữa khu vực nội đô và ngoại thành.


Sau 8 năm kể từ khi QHCXD thủ đô được phê
duyệt để đi vào triển khai, việc hình thành các
ĐTVT của TP. Hà Nội mới chỉ dừng lại ở mức
độ định hướng quy hoạch và chưa có các bước
triển khai cụ thể trên thực tế. Vấn đề vướng mắc
cơ bản về mơ hình quản lý đơn vị hành chính
đã được giải quyết với việc Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015 đã cho phép hình
thành các đơn vị hành chính cấp thành phố trực
thuộc Thành phố trực thuộc TW (mơ hình thành
phố trong thành phố), tuy nhiên những khó khăn
trong đầu tư hạ tầng kết nối và sự tăng trưởng
sụt giảm của thị trường BĐS, các dự án chiến
lược bị chậm tiến độ (Khu CNC Hòa Lạc, Đại
học Quốc gia Hà Nội) là nguyên nhân khiến cho
việc ra đời các ĐTVT đầu tiên tại Hà Nội và tại
nước ta nói chung cịn chưa có bước đột phá.


<i><b>Tài liệu Tham khảo:</b></i>


<i>1. Nguyễn Trung Dũng, Nghiên cứu mơ hình quản lý phát </i>
<i>triển ĐTVT TP.Hà Nội”, Đề tài cấp thành phố, 2016.</i>
<i>2. C.B Purdom, The Building of Satellite towns, London, 1949. </i>
<i>3. Quy hoạch vùng Ile-de-France-cộng hòa Pháp.</i>


<i>4. Hệ thống hành chính của Pháp trong quy hoạch đơ thị, Tài </i>
<i>liệu Dự án IMV</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<i><b>Đô thị vệ tinh và xu hướng thế giới</b></i>


Đô thị vệ tinh (tương tự như các vệ tinh nhân tạo xoay quanh một thiên thể), có nghĩa là một
đơ thị nào đó nằm vào quỹ đạo của một thành phố lớn trung tâm. Có lúc người ta hiểu như
đô thị ngoại thành hoặc đô thị mới (new town) (để ở, để sản xuất, để nghỉ ngơi).


Mơ hình đơ thị vệ tinh (satellite town) ra đời vào cuối thế kỷ 19 cùng với ý tưởng thành phố
vườn của Ebenser Howard (Anh) năm 1898. Theo Howard thì thành phố tuy có thể có tiện
nghi tốt và hoạt động văn hoá phong phú nhưng nơng thơn lại có ưu thế về đời sống lành
mạnh và n tĩnh. Vì vậy, chỉ có thành phố vườn của ơng mới có cả ưu điểm của đơ thị lớn
lẫn lợi thế của nông thôn, và thành phố vườn ra đời sẽ là đối tượng dung hoà được những
mâu thuẫn giữa đô thị và nông thôn, bảo đảm cho con người sống một cuộc sống hài hồ.
Mơ hình “thành phố vườn” của Howard đã có những ảnh hưởng đáng kể cho học thuyết
“đô thị vệ tinh” của Raymond Unwinn, người đã trực tiếp thiết kế tổng mặt bằng thành phố
Letchworth cho Howard. Cùng với những kinh nghiệm của mình trong khi xây dựng thành
phố vườn cho Howard, ông đã vận dụng thêm các quan niệm “lý luận về vùng đô thị” để
đưa ra học thuyết “đô thị vệ tinh”.


Năm 1922, Raymond Unwinn công bố cuốn sách “Thực tiễn quy hoạch đơ thị”, đặt cơ sở
nền móng cho lý thuyết thành phố vệ tinh. Lý luận này sẽ là cơ sở cho việc thiết lập một
mạng lưới, các thành phố nhỏ bao quanh một thành phố lớn, người ta có thể phân tán bớt
dân các đơ thị lớn và bảo đảm cho trung tâm đô thị phát triển tương đối độc lập, nhằm tạo
điều kiện sống có lợi hơn cho người dân đô thị.


Học thuyết “đô thị vệ tinh” đã trở thành cơ sở vận dụng cho công tác quy hoạch xây dựng cải
tạo và phát triển các thành phố lớn tại Anh, Mỹ, Pháp, Nga... sau chiến tranh thế giới thứ hai
trong việc giải quyết nạn “phình to” của đơ thị và đã đạt được thành cơng rực rỡ, trong đó có
Letchword, Welwyn (London) và những cơng trình tại nhiều nước khác trong đó có Radburn
(New York), Greenbelt (Washington), Cergy Pontoise, Saint-Quentin-en Yveline,
Marne-la-Valle, Melun-Senart, Evry (Paris), Misenko (Maskva), Kopatna (Saint Peterburg)...



Trong thế kỷ 20 có nhiều cuộc trao đổi tranh luận về khuynh hướng đơ thị hóa, song tựu
trung có 2 hình thái phát triển đơ thị chính là: tập trung và phân tán hoặc kết hợp tập trung
và phân tán.


DIỄN ĐÀN


NguyỄN ĐNg SơN
<i>Phó Viện trưởng</i>
<i>Viện Nghiên cứu đô thị & phát triển hạ tầng</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Đơ thị vệ tinh là một thành phần của hình thái đô thị phân tán, đa
cực, đa trung tâm. Đối với các thành phố cực lớn ngày nay thì “giải
pháp quy hoạch hàng đầu” đều hướng tới “mô hình đơ thị phân
tán”. Về phân tán đơ thị, phân tán dân cư là nét chung của quan
điểm phân tán đơ thị. Ngun nhân của phân tán có thể khác nhau,
nguyên nhân của trào lưu này có hàng loạt hướng:


1- Phân tán để cải thiện môi trường sinh học của thành phố và cải
thiện môi trường giao thông của thành phố.


2- Phân tán dựa vào nội dung quan hệ xã hội mới: thủ tiêu mâu
thuẫn giữa thành phố và nơng thơn. Có 2 hướng: Có quy định dân
cư tối đa của một thành phố và phủ nhận kiểu đô thị tập trung lớn.
3- Phân tán căn cứ vào tính ưu việt kinh tế của phân cấp sản xuất
công nghiệp. Theo Mumford “Tập trung không phải là dạng duy
nhất của mọi tiếp xúc mà nên tạo những khu tổng hợp không lớn
bao gồm: sản xuất, ở và dịch vụ”.


Mơ hình phát triển đô thị vệ tinh được hiểu trong học thuật về đô


thị của Phương Tây là phát triển các thành phố nhỏ và trung bình
xung quanh thành phố trung tâm và chúng được liên kết với thành
phố trung tâm bằng hệ thống giao thơng hồn thiện. Hệ thống giao
thông này cho phép nhiều người dân sống trong các đơ thị vệ tinh
có thể di chuyển vào đơ thị trung tâm dễ dàng, có thể đi làm và về
trong ngày. Giữa đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh thường là các
vành đai xanh. Các thành phố trung tâm theo mơ hình đơ thị vệ tinh
bị giới hạn bởi các khu vực phát triển (không thể mở rộng hơn), xem
như ranh giới phát triển (growth boundary), để không biến thành
một đô thị khổng lồ. Kinh nghiệm cho thấy: mỗi đô thị vệ tinh có
chức năng và đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau, có một động lực
rõ ràng và thực chất mỗi thành phố phải có chiến lược với những kế
hoạch khả thi về tài chính.


Quy mô đô thị vệ tinh khoảng 10 ngàn người đến 400 ngàn người,
khoảng cách tối ưu giữa các đô thị vệ tinh với đô thị trung tâm giao
động khoảng 30-50km.


Trong hình thái đơ thị phân tán, đa trung tâm: Khu trung tâm thường
trở nên rộng lớn về diện tích đến mức chỉ có ít khả năng để xây dựng
những cơ sở phát triển mới, và trở nên không thể quản lý nổi về mặt
giao thông. Chất lượng môi trường suy giảm, ô nhiễm đô thị tăng lên,
thiếu cơ sở hạ tầng đầy đủ để đối phó với tăng dân số trong thành
phố. Khu trung tâm có thể phân bố lại dân cư cho các khu đô thị
mới, đô thị vệ tinh để giảm ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường.


Những khu đô thị vệ tinh mới ở các vùng phụ cận của khu trung tâm
được cách biệt bởi các vùng nông thôn với những con đường cao tốc
nối liền với các cụm đơ thị chính. Mỗi khu đô thị vệ tinh đều gồm khu
trung tâm với hàng loạt các hoạt động buôn bán và thương mại, các


dịch vụ y tế và giáo dục, các khu nhà ở tập trung, các ngành công
nghiệp phục vụ và kinh doanh, các khu vui chơi giải trí… Những đơ
thị vệ tinh này cũng đóng vai trị như các khu định cư mới cho những
người lao động, những người có thể hàng ngày đi làm trong trung tâm
thành phố bằng ô tô, xe bus hay tàu hỏa.


Có thể nói ngày nay ý tưởng về sự cân bằng, sự phát triển song
song nhà ở, việc làm và cơng trình cơng cộng càng trở nên quan
trọng, hy vọng có thể phân bố lại dân cư từ đô thị trung tâm.
Việc xây dựng các thành phố vệ tinh xung quanh các thành phố hiện
hữu ngày càng xa hơn so với thành phố mẹ hiện hữu. Bởi trình độ
khoa học, kỹ thuật ngày càng tiến bộ thì khoảng cách xa gần giờ đây
đã cải thiện rất nhiều bằng các phương tiện giao thông hiện đại như
đường sắt một ray, tàu điện ngầm… Mặt khác, sự phát triển vượt bậc
của công nghệ thông tin trong đời sống và sản xuất của cuộc cách
mạng 4.0 đã đưa con người trở nên “gần nhau hơn” dù đang ở rất
xa nhau hàng trăm kilomet. Các ngành cơng nghiệp được xét trên
bình diện rộng hơn với những ngành “cơng nghiệp khơng khói” mới
đã là tiền đề kinh tế cho việc xây dựng các khu làm việc với những
ngành nghề mới. Trong khi đó thành phố hiện hữu thì đang q tải,
bán kính phục vụ khơng cịn phù hợp với năng lực phục vụ. Mặt
khác, các vấn đề về “bảo tồn” ngày càng được quan tâm thì việc cải
tạo phát triển thành phố bằng cách tháo dỡ các khu cũ trong thành
phố, xây dựng các khu mới ngày càng được xem xét thận trọng hơn.
Vì thế, việc tiến hành xây dựng các thành phố mới trở thành một giải
pháp hợp lý cho việc cải tạo và phát triển thành phố hiện hữu.
Hiện nay, xu hướng phát triển đô thị vệ tinh là một xu hướng chung
của các thành phố lớn trên thế giới. Mơ hình đô thị vệ tinh trên thế giới
khá phổ biến: New York, Washington, Portland (Mỹ), Vancouver,
Ottawa (Canada), Paris, Lion, Nante (Pháp), Rotterdam (Hà Lan),


Matxcova, Saint Peterburg (Nga), Delhi, Bombay (Ấn Độ), Tokyo,
Osaka, Nagoya (Nhật Bản), Seoul (Hàn Quốc), Manila (Philippine),
Jakarta (Indonesia), Kulua Lumpur (Malaysia)...


<i><b>Các nguyên tắc quy hoạch các khu đô thị vệ tinh</b></i>


Theo kinh nghiệm của Pháp, mục tiêu của quy hoạch khu đô thị
mới bao gồm:


■ Ưu tiên, dành sự tự do lựa chọn cho các thị dân nhất là các thị
dân ngoại thành về các lĩnh vực: lựa chọn việc làm, lựa chọn loại và
khung cảnh sinh sống, lựa chọn nơi mua hàng, lựa chọn các hình
thức giải trí... do vậy quy hoạch cần có sự tham gia của cộng đồng.
■ Sau đó cho mọi người được tiếp cận các tài nguyên thiên nhiên
của các khu vực như cây xanh, mặt nước và tập trung được các
khuynh hướng tự nhiên về quy hoạch.


■ Áp dụng một sơ đồ duy ý chí (nếu khơng có đặc điểm này thì bản
đồ cùng sẽ trở nên vơ dụng), nhưng vẫn mang tính thực tế (nếu
khơng có tính chất này, rất khó có thể thực hiện bằng hành động),
và tập trung được các khuynh hướng tự nhiên vào quy hoạch đơ thị.
Hình 1: Mơ hình phát triển khơng gian đơ thị phân tán hoặc đa cực


(Nguồn: “Infrastructure Provision of Transitional Urban Villages of
Ahmedabad: an Evaluative Study” Dave Seema, 2000)


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

■ Cần có một khơng gian năng động, nghĩa là có thể đáp ứng được
sự tăng trưởng nhanh chóng hơn (điều mà người ta e ngại) hoặc
chậm hơn (điều này đã xảy ra) so với dự kiến…



<i><b>Các nguyên tắc lớn về quy hoạch khu đô thị mới:</b></i>


1- Việc ưu tiên hình thành các trung tâm của khu đô thị mới, cả tại
khu ngoại thành hiện hữu (để tái cơ cấu lại nơi này), lẫn cả khu mở
rộng không gian (các thành phố mới trong tương lai). Sự lựa chọn
này không phải tự thân mà có, nhất là vào trong giai đoạn mà cùng
với sự phát triển của cơ giới hóa đi lại, ta lại chứng kiến sự lụi tàn
của các trung tâm thành phố Mỹ, và ta lại dự đoán sự tiến triển
tương tự tại châu Âu. Các trung tâm đô thị mới được xem như là
phương tiện đặc biệt để khôi phục sự tự do lựa chọn (trong cơng
việc mua sắm giải trí...).


2- Việc tổ chức đơ thị hóa dọc theo các trục ưu tiên, tương ứng với
các mục tiêu về việc tiếp cận không gian thiên nhiên (thiên nhiên
được giữ lại tại các trục đường này), về tính hiện thực (giới hạn việc
đơ thị hóa trên các trục đường định sẵn), về tính năng động (các
trục có thể phát triển ít nhiều theo các nhu cầu hiện hữu).


3- Sự mở rộng không gian vùng đô thị để trực diện với yêu cầu thực.
4- Việc mở rộng các goạt động của trung tâm về khu ngoại vi để
góp phần giảm đi sự đi lại giữa nơi ở và nơi làm (sự đi lại luân
phiên), và tái lập sự tự do lựa chọn nơi làm.


5- Mạng lưới xa lộ và vận tải công cộng nhanh, một mạng lưới tốc
hành vùng, để tạo sự tự do lựa chọn (về hình thức vận tải, cả về nơi
làm việc, nơi ở, nơi mua sắm, nơi giải trí...). Và lần nữa sự lựa chọn
này không phải tự thân, nhất là vào thời điểm mà các “chuyên gia”
về vận tải (nhất là kỹ sư cầu đường) đánh giá là vận tải công cộng
đã cáo chung và mơ tưởng “tạo một thành phố phù hợp với xe hơi”.
Tuy nhiên, phát triển đô thị vệ tinh khơng cịn là một hướng mới bài


tốn quy hoạch trên thế giới, mà là vấn đề thực hiện vì vậy cần biết
những kinh nghiệm thất bại của các quốc gia đi trước như: chi phí
quá nhiều (Tokyo), bị đô thị trung tâm nuốt chửng do quá gần trung
tâm (Hong Kong, Singapore), không giảm được dân số từ đô thị
trung tâm do quá xa trung tâm (Seoul, Delhi)... là bài học cho các
quốc gia đi sau, phải tìm cách thốt khỏi tình trạng này.


Hướng phát triển đô thị vệ tinh ở Việt Nam



Hiện nay, phát triển đô thị vệ tinh cũng là một xu hướng chung của
các đô thị lớn ở nước ta như Hà Nội, TP.HCM.


■ Quy hoạch chung TP Hà Nội có 5 đơ thị vệ tinh: Hịa Lạc (hiện
mới chỉ đang phát triển khu công nghệ cao Hịa Lạc), Sơn Tây,
Xn Mai, Phú Xun và Sóc Sơn.


■ Quy hoạch chung TP.HCM có 2 đơ thị vệ tinh: đô thị Tây Bắc
Củ Chi (hiện nay đang triển khai nhưng cịn chậm) và đơ thị Cảng
Hiệp Phước Nhà Bè (hiện nay chỉ mới phát triển khu công nghiệp
và cảng Hiệp Phước).


Điều kiện tiên quyết để phát triển các đô thị vệ tinh


là đất đai



Vấn đề đất đai thường được xem như là viên đá cản trở mọi chính


sách quy hoạch đơ thị nhiều tham vọng. Kinh nghiệm của Pháp,
cho đến những năm 1960, cho thấy một quy hoạch đô thị tốt sẽ trở
nên vơ hiệu nếu khơng kiểm sốt được yếu tố đất đai.



<i><b>Kinh nghiệm về “tập trung và tái điều chỉnh đất đai” là có hiệu quả.</b></i>


Theo kinh nghiệm của Nhật Bản: Khái niệm cơ bản về điều chỉnh
đất đai, có nghĩa là chia sẻ lợi ích và chi phí phát triển một cách
cơng bằng giữa các bên có lợi ích liên quan bao gồm cà thành phần
công cộng là một phương pháp phát triển dân chủ và có thể phát
huy hiệu quả trong cơ chế thị trường.


Trong khi các thể chế quy hoạch không phát huy hiệu quả như
mong muốn của các nhà quy hoạch trong việc quản lý tăng trưởng


</div>

<!--links-->

×