Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.73 KB, 20 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Lớp Du lịch k29 Page 1 12/2010
<b>Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh </b>
<b>Trường ĐH KH Xã hội & Nhân văn </b>
<b>Khoa Địa lý - Bộ môn Du lịch </b>
A. <b>ĐIỀU TRA </b>
<b>TÀI NGUYÊN DU LỊCH TỰ NHIÊN </b>
1. <b>Vị trí địa lý và cảnh quan địa hình </b>
Thành phố Hồ Chí Minh có tọa ñộ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54' Đơng,
phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh
Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và
Tiền Giang. Nằm ở miền Nam Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km
theo đường bộ, trung tâm thành phố cách cách bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay.
Với vị trí tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối
giao thơng quan trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường khơng, nối liền các tỉnh trong
vùng và còn là một cửa ngõ quốc tế.
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sơng Cửu
Long, địa hình thành phố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đơng sang Tây. Vùng cao nằm
ở phía Bắc - Đơng Bắc và một phần Tây Bắc, trung bình 10 đến 25 mét. Xen kẽ có một số
gị đồi, cao nhất lên tới 32 mét như đồi Long Bình ở quận 9. Ngược lại, vùng trũng nằm ở
phía Nam - Tây Nam và Ðơng Nam thành phố, có ñộ cao trung bình trên dưới 1 mét, nơi
thấp nhất 0,5 mét. Các khu vực trung tâm, một phần các quận Thủ Đức, quận 2, tồn bộ
huyện Hóc Mơn và quận 12 có độ cao trung bình, khoảng 5 tới 10 mét.
2. <b>Khí hậu </b>
cao nhất 2.718 mm, thấp nhất xuống 1.392 mm vào năm 1958. Một năm, ở thành phố có
Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa Tây –
Tây Nam và Bắc – Ðơng Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương, tốc độ trung bình 3,6
m/s, vào mùa mưa. Gió Gió Bắc – Ðơng Bắc từ biển Đơng, tốc độ trung bình 2,4 m/s, vào
mùa khơ. Ngồi ra cịn có gió tín phong theo hướng Nam – Đông Nam vào khoảng tháng 3
tới tháng 5, trung bình 3,7 m/s. Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng khơng có
gió bão. Cũng như lượng mưa, độ ẩm khơng khí ở thành phố lên cao vào mùa mưa, 80%,
và xuống thấp vào mùa không, 74,5%. Trung bình, độ ẩm khơng khí ñạt bình quân/năm
79,5%
<b>3. Sơng ngịi: </b>
Thành Phố Hồ Chí Minh nằm ở hạ lưu sơng Đồng Nai và sơng Sài Gịn. Một câu ca
dao nói lên sự hội ngộ này:
<i>Nhà Bè nước chảy chia hai, </i>
<i>Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về. </i>
Hai sông lớn nhất là sông Đồng Nai và sơng Sài Gịn.
a. <i>Sơng Đồng Nai: </i>
Dài khoảng 586 km, bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên ở ñộ cao khoảng 1770 m
do sông Đa Nhim và sông Đa Dung hợp thành. Sau khi tiếp nhận nguồn nước của sông La
Ngà ở tả ngạn và sông ở hữu ngạn, sông Đồng Nai vượt qua ghềnh thác Trị An uốn khúc
Dài 210 km, bắt nguồn từ cao nguyên Hớn quản chảy qua tỉnh Tây Ninh, Sông
Bé ñổ vào thành phố ở Củ Chi và xuyên qua thành phố trên chiều dài 106 km. Có độ dốc
trung bình 45 cm/km, lịng sơng khá rộng từ 225à370 km và sâu tới 20 m, có nhiều nhánh
phụ (Láng The, Rạch Tra…) nên có tác dụng điều hồ lũ lụt và nguồn nước tưới quan
trọng hiện nay cho phía bắc thành phố. Mùa lũ lưu lượng trung bình 171 m3/s nhưng mùa
cạn chỉ cịn 15, 20 m3/s nên khơng đủ đáp ứng số lượng nước tưới trong mùa khô. Sông
Sài Gịn được nối với sơng Vàm Cỏ Đơng (Long An) ở phía Tây nhờ một hệ thống kênh
rạch dài khoảng 27 km.
c. <i>Sông Nhà Bè: </i>
Lại phân ra nhiều chi lưu bao quanh huyện Cần Giờ ñể ñổ ra biển. Về phía trái ñổ ra
cửa Sồi Rạp dài 59 km, lịng sơng cạn, nước chảy chậm. về phía phải theo sơng Lịng Tàu
đổ ra vịnh Gành Rái, sông dài 56 km, bề rộng trung bình 0,5 km, lịng sơng sâu, là đường
thuỷ chính cho tàu bè ra vào cảng Sài Gịn. Ngồi các sơng chính, trên thành phố Hồ Chí
Minh cịn có nhiều kênh rạch chằng chịch nhất là ở huyện Cần Giờ.
<i><b>d. H</b>ệ thống kênh rạch ở thành phố</i>: khá chằng chịt, tập trung nhiều ở Nhà Bè, Bình
Chánh, Hóc Mơn, Nam Thủ Đức, Cần Giờ vừa nối với hệ thống sông rạch Thành phố vừa
nối với hệ thống sơng rạch Cửu Long nên giữ vai trị quan trọng trong việc tiêu thoát nước,
vận chuyển hàng hoá, thuỷ lợi. Một số kênh rạch chính như: rạch Bến Nghé, rạch Thị
Nghè, Lò Gốm, kinh Tẻ, kinh Tham Lương, kinh Thầy Cai, kinh Thái Mỹ, kinh An Hạ…
- Hệ thống sông rạch thành phố chịu ảnh hưởng của thuỷ triều (bán nhật triều) xâm
nhập vào, sâu nhất vào tháng 4 và tuỳ theo mùa, tuỳ theo con nước, tuỳ theo khối lượng
nước ñổ xuống từ thượng nguồn, nước mặn (khoảng 4%o) từ biển Đơng nên hình thành 3
vùng:
<i><b>*Vùng n</b><b>ướ</b><b>c ng</b><b>ọ</b><b>t: G</b></i>ồm phía Bắc nội thành, phía Bắc Thủ Đức, Quận 9, Hóc Mơn,
Bình Chánh, Bình Tân, Củ Chi.
<i><b>*Vùng n</b><b>ướ</b><b>c m</b><b>ặ</b><b>n: M</b></i>ột số xã ở Cần Giờ ra ñến biển. Mực nước triều trung bình là
0,17m, cao nhất vào các tháng 10, 11 khoảng 1,10m và thấp nhất vào tháng 6,7 khoảng
1,07m so với mực nước biển.
<i><b> e. Ngu</b>ồn nước ngầm thành phố</i>: Tập trung ở phía bắc củ chi, hóc mơn, nơi có tầng
nước ngầm dồi dào nhất, phẩm chất cũng tốt nhất, ở ñộ sâu 60à90 m. Ngồi ra cịn có ở các
quận: 3, 5, 11, Bình Thạnh, Tân Bình, Tân Phú, Gị Vấp nhưng phẩm chất khơng tốt bằng.
Càng về phía Nam (nhà bè, bình chánh cần giờ nguồn nước ngầm thường bị nhiễm mặn
nặng.
3. <b>Tài nguyên sinh vật: </b>
a. <i>Thành Phố Hồ Chí Minh có 3 kiểu rừng: </i>
Rừng mưa nhiệt ñới xanh quanh năm: Gồm nhiều tầng rậm rạp, dây leo chằng
chịt, thường phát triển trên các vùng ñất cao. Hiện nay mật ñộ che phủ rừng thấp, nay chỉ
còn ñồi trọc, cỏ tranh, cây bụi che phủ.
Rừng Sác: Phát triển trên những vùng ñất thấp ngập mặn ở cửa sông, rất rậm rạp
với 50 lồi cây đặc trưng: ñước, bần, mấm, dừa nước… hiện ñang ñược trồng nhiều trên
20.000 ha ở Cần Giờ, vốn là rừng nguyên sinh, trong thời Pháp thuộc còn là rừng cấm,
nhưng trong thời gian chống Mĩ rừng này ñã bị bom ñạn Mĩ và chất ñộc màu da cam tàn
phá năng nề.
Từ năm 1978, thành phố Hồ Chí Minh đã đầu tư phục hồi hàng chục ngàn ha
rừng đước. Ngồi ra ở phía Bắc huyện Cần Giờ ñang trồng thêm dừa nước, tràm, bạch
ñàn…
Rừng ngập mặn Cần Giờ khoảng 25000 ha, đã được UNESCO cơng nhận là khu
dự trữ sinh quyển ở Việt Nam. Ngoài hệ thống rừng, vùng biển Cần Giờ có nhiều tơm, cá
là nguồn lợi của thành phố Hồ Chí Minh về biển.
<b> b. </b><i>Động vật: Tr</i>ước ñây ña dạng, phong phú nhưng nay bị huỷ diệt do con người
phá rừng. - Trên c<i>ạn: c</i>ọp, nai, gấu, heo rừng, khỉ, vượn, các loại bị sát như trăn, rắn, rùa,
kỳ đà. - D<i>ưới nước: rái cá, cá s</i>ấu, cá tôm, cua, sò…các loại chim lele, vịt trời, cị,
vạc…các loại dơi… Các loại động thực vật sống thành quần thể theo môi trường sinh sống
tạo nên những hệ sinh thái cân bằng hoàn chỉnh của rừng Sác, ñồng bưng, ñồng lúa, miệt
vườn…
<b>5.1 Quận 9: </b>
<b>Vườn cò Thủ</b> <b>Đức: Ấp Gò Công, phường Long Thạnh Mỹ, quận 9, cách trung tâm </b>
thành phố Hồ Chí Minh khoảng 20km.
<b>Ðặc điểm: Từ ngã tư Thủ </b>Đức ñi về phía Tăng Nhơn Phú, rẽ phải theo ñường
Nguyễn Văn Tăng đến ngã ba Gị Cơng, tiếp tục rẽ phải, băng qua cầu, cặp theo con ñường
ñất nhỏ khoảng 800m sẽ đến vườn cị của bác Tư Đê. Vườn cị của bác Tư Đê cách ngã tư
Thủ Đức chừng 7km bằng ñường bộ. Điều kỳ lạ là bên cạnh phố thị luôn nhộn nhịp, sầm
uất như vậy lại có một điểm du lịch sinh thái rất n tĩnh, trong lành.
<b> Công viên Phú Lâm. </b>
Cơng viên trên đường Hùng Vương, ở phường 13, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh,
mới mở rộng thành 7ha, có nhiều khu vui chơi, giải trí. Tên cơng viên, do tên vùng mà ra.
<b>5.2 Huyện Bình Chánh: </b>
<b>Rạ</b><i><b>ch Cùng ở xã Tân Qúy Tây, huyện Bình Chánh, từ sơng Chợ Đệm chảy vào cánh </b></i>
ñồng của xã, dài khoảng 2.800m. Phía tả ngạn rạch Cùng tiếp nhận nước của rạch Lồng
Đèn. Gọi là rạch Cùng vì rạch khơng thơng ra một sơng rạch khác mà chỉ chảy vào ruộng.
<i><b>Sơng C</b><b>ầ</b><b>n Giu</b><b>ộ</b><b>c b</b></i>ắt đầu từ sơng Chợ Đệm đến sơng Nhà Bè, chảy qua huyện Bình
Chánh, quận 8 và huyện Cần Giuộc (tỉnh Long An). Đoạn chảy qua ñịa bàn thành phố dài
11.275m. Sơng cịn có tên là rạch Cát. Cần Giuộc do tiếng Khmer là Kantuôt (cây chum
ruột) mà ra. Địa danh này đã có từ thế kỷ 17. Có thể xưa ở vùng đất này có nhiều cây chum
ruột.
<i><b> R</b><b>ừ</b><b>ng ng</b><b>ậ</b><b>p m</b><b>ặ</b><b>n C</b><b>ầ</b><b>n Gi</b><b>ờ</b>: Khu dự trữ sinh quyển thế giới (UNESCO công nhận </i>
<i>vào năm 2000). </i>
Khu Dự trữ Sinh quyển Cần Giờ nằm ở vùng ven biển vịnh Gềnh Rái và cửa sông
Đồng Nai với hệ sinh thái rừng ngập mặn (RNM) điển hình có diện tích gần 4000ha. RNM
được xem là hệ sinh thái quan trọng, điển hình ở vùng ven biển nhiệt đới khơng chỉ cung
cấp lâm sản có giá trị mà cịn là nơi cư trú (habitats) của nhiều loài hải sản, chim nước,
chim di cư và một số lồi động vật lưỡng cư, trên cạn.
RNM Cần Giờ là một trong những khu rừng ngập mặn ở Việt Nam mang tính chất
rừng nhiệt đới cổ và phong phú về số loài thực vật di cư. Theo số liệu điều tra, RNM Cần
Giờ có khoảng 35 lồi thực vật, phổ biến là Đước đơi (Rhizophora apiculata), Đước bộp
<i>(Rhizophora micronata), M</i>ấm quăn (Avicennia lanata), Mấm trắng (Avicennia alba), Bần
<i>(Sonneratia evata), Chà là (Phoenix paludosa), D</i>ừa nước (Nipa fruticans)…
Cùng với sự phục hồi về thảm thực vật rừng, nhiều lồi động vật tưởng chừng ñã biến
mất cùng với sự tàn phá của chiến tranh ñã hồi sinh và phát triển lại nhanh chóng ở RNM
Cần Giờ như khỉ, lợn rừng, chồn, trăn, rái cá…trong đó có nhiều lồi được ghi trong Sách
Đỏ Việt Nam như Cá sấu hoa cà, Rắn hổ mang chúa, … Đặc biệt, nhờ có sinh cảnh thuận
lợi, các sân chim tự nhiên ñã và đang hình thành trở lại với số lồi ñã chiếm tới 34% tổng
số loài chim nước ở Việt Nam, trong đó có tới 9 lồi q hiếm ñược ghi trong Sách Đỏ Thế
giới.
Bên cạnh những giá trị về ña dạng sinh học, Cần Giờ còn là nơi lần ñầu tiên ở Việt
Nam và khu vực Đông Nam Á phát hiện khu mộ cổ chum (trên 300 ngôi), di chỉ có giá
trị về nền văn hố Ĩc Eo.
<i><b> Khu du l</b><b>ị</b><b>ch sinh thái Vàm Sát </b></i>
<b>B. TÀI NGUYÊN DU LỊCH NHÂN VĂN </b>
<b>DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HĨA </b>
1. <b>Quận 1 </b>
Dinh ñược xây dựng trên diện tích 4.500 m², diện tích sử dụng 20.000 m², gồm 3
tầng chính, 1 sân thượng, 2 gác lửng, tầng nền, 2 tầng hầm và một sân thượng cho máy bay
trực thăng ñáp xuống. Hơn 100 căn phòng của Dinh ñược trang trí theo phong cách khác
nhau tùy theo mục đích sử dụng bao gồm các phịng khánh tiết, phịng họp hội đồng nội
các, phịng làm việc của Tổng Thống và của Phó Tổng Thống, phịng trình ủy nhiệm thư,
phịng đại yến, v.v... chưa kể các phần khác như hồ sen bán nguyệt hai bên thềm ñi vào
chánh ñiện, bao lơn, hành lan...
Dinh cao 26m, tọa lạc trong khn viên rộng 12 ha rợp bóng cây. Bên ngồi hàng rào
phía trước và phía sau Dinh là 2 công viên cây xanh. Giữa những năm 1960, đây là cơng
trình có quy mơ lớn nhất miền Nam và có chi phí xây dựng cao nhất (150.000 lượng vàng).
Các hệ thống phụ trợ bên trong Dinh hiện đại: điều hịa khơng khí, phịng chống cháy,
thông tin liên lạc, nhà kho. Tầng hầm chịu được oanh kích của bom lớn và pháo. Mặt tiền
của Dinh được trang trí cách điệu các ñốt mành trúc phỏng theo phong cách các bức mành
tại các ngôi nhà Việt và họa tiết các ngơi chùa cổ tại Việt Nam. Các phịng của Dinh được
trang trí nhiều tác phẩm non sơng cẩm tú, tranh sơn mài, tranh sơn dầu.
Cơ quan hiện quản lý di tích văn hố Dinh Thống Nhất có tên là H<b>ội trường Thống </b>
<b>Nhất thuộc Cục Hành chính Quản trị II - Văn phịng Chính Phủ. Đây là di tích lịch sử văn </b>
hố nổi tiếng được đơng ñảo du khách trong nước và nước ngoài ñến tham quan.
b. <b>Trụ sởỦy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh </b>
Một tịa nhà được xây dựng từ năm 1898 ñến 1909 do kiến trúc sư Gardès thiết
kế mô phỏng theo kiểu những lầu chuông ở miền Bắc nước Pháp. Thời Pháp thuộc, tịa
<b>nhà này có tên là Dinh Xã Tây, trước năm 1975 gọi là Tịa Đơ chánh, hiện nay nó là nơi </b>
làm việc của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, nằm ngay ở đầu đại lộ Nguyễn
Huệ, Quận 1. Đây có thể coi là một trong những cơng trình kiến trúc đẹp nhất của thành
phố này.
c. <b>Nhà hát lớn Thành Phố</b>
là nhà hát thuộc loại lâu ñời theo kiến trúc Đế Quốc và ñược xem như một ñịa ñiểm du lịch
của thành phố này
Nhà hát lớn Sài Gịn là một đối trọng về mặt kiến trúc với Nhà hát lớn Hà Nội (cất
năm 1911, kiến trúc theo mẫu Opéra Garnier tại Paris, 900 chỗ ngồi, kiến trúc sư Broger et
Harloy). Nhà hát Sài Gịn giữ riêng nét đặc thù có một khơng hai. Tác giả của tịa kiến trúc
d. <b>Bưu ñiện trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh </b>
Địa chỉ số 2, đường Cơng Xã Paris, là tòa nhà bưu ñiện tại trung tâm Quận 1,
TPHCM. Đây là tòa nhà ñược người Pháp xây dựng với phong cách chiết trung trong
khoảng 1886–1891 theo ñồ án thiết kế của kiến trúc sư Villedieu.
Bên ngồi, phía trước ngơi nhà trang trí theo từng ơ hình chữ nhật, trên đó ghi danh
những nhà phát minh ra ngành điện tín và ngành điện. Trên các ơ có đắp hình các nam nữ
đội vịng nguyệt quế, trên vịng cung ngơi nhà có chiếc đồng hồ lớn.
Vào phía trên trong, hai bên tường cao là hai bản ñồ lịch sử mang tên: Saigon et ses
<i>environs, 1892 và Lignes télégraphiques du Sud Vietnam et du Cambodge, 1936. </i>
Tòa nhà nằm cạnh Nhà thờ Đức Bà, và gần trung tâm mua sắm Diamond Plaza, cơng
trình kiến trúc tương tác sinh ñộng ñẹp mắt cho tâm ñiểm của Sài Gòn ngày nay.
vào phía trên trong, khách thấy hai bên tường cao là hai bản ñồ lịch sử: Saigon et ses
environs, 1892 và Lignes télégraphiques du Sud Vietnam et du Cambodge, 1936.
Hiện bưu ñiện có 35 quầy phục vụ khách hàng với những thiết bị viễn thơng tối tân, hiện
2. <b> Quận 4 </b>
<b> Bến Nhà Rồng </b>
Bến Nhà Rồng cũ. Nay là Bảo tàng Hồ Chí Minh.Bến Nhà Rồng khởi đầu là một
thương cảng lớn của Sài Gòn. Thương cảng này nằm trên sơng Sài Gịn và được xây dựng
từ 1864, trên khu vực gần cầu Khánh Hội, nay thuộc quận 4. Tại nơi ñây, vào ngày 5 tháng
6 năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (sau này lây tên là Hồ Chí Minh) đã
xuống con tàu Amiral Latouche Tréville làm phụ bếp để có điều kiện sang châu Âu. Do đó,
từ 1975 tồ trụ sở xưa của thương cảng Nhà Rồng đã được chính quyền Việt Nam xây
dựng lại thành khu lưu niệm Hồ Chí Minh.
<b> Cảng Sài Gòn </b>
Lịch sử thành lập:Cảng Sài Gịn được thành lập vào ngày 22 tháng 2 năm 1860 dưới
thời thuộc ñịa Pháp với tên gọi Thương Cảng Sài GịnCảng nằm dọc theo sơng Sài Gòn,
cách biển 45 dặm (83 km) với tổng diện tích 3.860.000 m2<sub> vào gồm 5 khu vực. </sub>
3. <b>Quận 5 </b>
<b> Khu phố cổ 41-67 </b>
Trên nền tảng hiện hữu của các khu phố thuộc phường 7, 10, 11 và 14, tập trung
nhiều di tích lịch sử - văn hóa, đã được Nhà nước xếp hạng, quận 5 sẽ xây dựng khu
phố liên hoàn vừa bảo tồn các khu phố cổ, vừa kết hợp phát triển thương mại dịch vụ, trung
tâm giải trí, mua sắm, tham quan…
Khu vực 41-67 Hải Thượng Lãn Ơng vẫn cịn giữ nhiều dáng vẻ cổ kính, được
4. <b>Quận 8 </b>
a. <b>Di tích lị gốm Hưng Lợi </b>
Di tích lị gốm Hưng Lợi hiện nay thuộc phường 16 quận 8, nằm trong ñịa phận làng
Hòa Lục. Đây là một làng cổ nằm ven kênh Ruột Ngựa và kênh Lò Gốm. Theo sách "Gia
Định thành thơng chí" của Trịnh Hoài Đức, kênh Ruột Ngựa ñược ñào vào năm 1772 ñể
nối liền từ Sơng Cát (Sa Giang) ra phía Bắc ñến Lò Gốm. Con kênh Lò Gốm ñược nạo vét
mở rộng để nối liền với sơng Cần Giuộc. Bản ñồ phủ Gia Định của Trần Văn Học (vẽ cuối
năm 1815) có ghi địa danh "xóm Lò Gốm" một trong những làng nghề nổi tiếng của Sài
Gịn xưa. Dựa vào bản đồ này và qua điều tra thực địa, có thể hình dung xóm Lị Gốm xưa
bao gồm các làng cổ Hòa Lục (quận 8) và Phú Định, Phú Lâm (quận 6) và vùng Phú Giáo -
Gò Cây Mai (quận 11).
liệu dày ñặc hai bên sườn gị. Đợt khảo sát vào tháng 4/1997 đã cho biết ñây là di tích khá
lớn và khá nguyên vẹn, diện phân bố của nó lên đến 10.000m2. Chưa kể những ao nhỏ -
dấu tích của việc khai thác nguyên liệu làm gốm - phân bố rải rác khắp làng Hòa Lục và cả
làng Phú Định bên kia kênh Ruột Ngựa
Ngày nay ở khu vực này cịn lưu lại một số địa danh có liên quan ñến nghề làm gốm
như Kênh- Rạch - Bến Lị Gốm, đường Lị Siêu, đường Xóm Đất ... thuộc vùng Chợ Lớn
ngày nay.
b. <b>Chùa Pháp Quang: </b>
Chùa Pháp Quang tọa lạc tại số 71 ñường Quốc lộ 50, phường 5, quận 8, thành phố
Hồ Chí Minh, là cơ sở cách mạng của liên quận 7, 8 trong giai ñoạn 1963 - 1975.
Chùa Pháp Quang do sư bà Đạt Đạo xây dựng năm 1948. Sư cơ Thích Đạt Đạo thế
danh là Lê Thị Tịnh, quê ở ấp Giồng Cám, xã Đức Hòa Thượng, Long An. Sinh ra là lớn
lên trong gia đình có truyền thống u nước, được cách mạng tun truyền vận động, sư cơ
sớm giác ngộ ñi theo cách mạng. Từ năm 1963, chùa Pháp Quang trở thành cơ sở cách
mạng, có nhiều cống hiến cho công cuộc kháng chiến chống ñế quốc Mỹ. Chùa Pháp
Quang là một di tích mang giá trị lịch sử
5. <b>Quận 10 </b>
a. <b>Đình chí hịa </b>
Đình Chí Hịa toạ lạc tại số 475/77 đường Cách Mạng Tháng Tám, phường 13, quận
10, thành phố Hồ Chí Minh(trước kia có tên gọi là đình Hịa Hưng).
trong chứa các nội dung văn tự qua bộ chữ Hán cẩn xà cừ rất quí, cộng thêm các bức hồnh
treo trước võ qui, đơng và tây lang đều có niên đại trên 100 năm…
Đình Chí Hịa tổ chức lễ Kỳ n vào ngày 16 và 17 tháng Hai âm lịch hàng năm. Là
một đình cổ, mọi nghi thức cúng bái ñược thực hiện nghiêm túc nên trong ngày ñại lễ,
khách thập phương kéo ñến cúng bái như trẩy hội.
b. <b>Cơ sở in ấn của Hội ủng hộ vệ quốc đồn 1954 </b>
Hầm bí mật của Hội Ủng hộ Vệ quốc đồn tại số 122/351 đường Ngơ Gia Tự,
phường 9, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh là một di tích lịch sử cách mạng thời chống
Pháp được đánh giá là căn hầm thiết kế tinh vi nhất trong nội thành.Nơi đây trong kháng
chiến chống Pháp đã được Hội ủng hộ vệ quốc đồn sử dụng làm nơi in ấn, tập hợp
c. <b>Hầm bí mật chứa vũ khí trong thời kì kháng chiến chống Mỹ(1965-1975) </b>
Di tích là căn nhà gạch, vách tường, lợp tôn, gác xép mang số 183/4 ñường 3 tháng
2, phường 11, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh, có kích thước: dài 12m, ngang 5m nằm
cách ñầu hẻm 7m, đối diện với rạp hát Hịa Bình.
6. <b>Quận 11 </b>
a. <b>Chùa Giác Viên </b>
Tọa lạc tại số 161/85/20 ñường Lạc Long Quân, Phường 3, Quận 11, Thành phố Hồ
Chí Minh thuộc về một trong những ngơi chùa cổ nhất của Thành phố Hồ Chí Minh. Chùa
<b>cịn có tên là chùa HốĐất (vì nơi </b>đây trước kia là cái bàu, sau phải lấp nhiều ñất mới có
được mặt bằng như ngày nay), cũng cịn ñược gọi là Tổ Đình.
b. <b>Chùa Phụng Sơn </b>
Chùa Phụng Sơn thường ñược gọi là chùa Gò, toạ lạc ở số 1408 ñường 3/ 2 quận
11,Tp Hồ Chí Minh.
Chùa được Thiền sư Liễu Thơng tạo lập vào đầu thế kỷ 19. Chùa ñã qua hai lần ñại
trùng tu. Lần thứ nhất do Thiền sư Tuệ Minh tổ chức từ năm 1904 ñến năm 1915. Nhiều
pho tượng ở chùa được nhóm thợ Sa Đéc tạo tác trong thời gian này. Lần thứ hai vào năm
1960, vẫn giữ kiểu kiến trúc cổ.
Điện Phật ñược bài trí tơn nghiêm. Chùa có khoảng 40 pho tượng thờ chủ yếu là
tượng gỗ sơn son thiếp vàng trong đó có một số pho tượng q như bộ tượng Di đà Tam
Tơn, bộ tượng Ngũ Hiền thượng kỳ thú, tượng Phật bằng ñá dát vàng, tượng ngài Tiêu
Vào các năm 1988 và 1991, các nhà khảo cổ học ñã tiến hành khai quật tại khu ñất
của chùa và phát hiện nhiều hiện vật như mặt người bằng ñất nung, đồ gốm... thuộc văn
hố Ĩc Eo. Trước đó, nơi đây cũng đã tìm thấy một pho tượng Phật bằng ñồng theo phong
cách Thái Lan.
7. <b>Quận 12 </b>
a. <b>Khu tưởng niệm Vườn Cau Đỏ</b>
Đường TX52- Khu phố 4, phường Thạnh Xuân, quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vườn cau đỏ là một ñịa danh lịch sử nổi tiếng nằm trên ñịa bàn phường Thạnh Xuân, quận
12. Địa danh này từng là căn cứ quan trọng của quân và dân ta trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ.
b. <b>Nhà tưởng niệm Nguyễn An Ninh </b>
Địa chỉ : KP7, phường Trung Mỹ Tây, Q12, TP HCM.
trong ñấu tranh nghị trường. Ơng cũng là người đưa ra ý tưởng tổ chức Đơng Dương đại
hội, tham gia các ủy ban hành ñộng và viết báo kêu gọi quần chúng tham gia.
Trong giai ñoạn từ 1922 ñến 1939, Nguyễn An Ninh bị thực dân Pháp bắt giam 5 lần.
Hơn 20 năm hoạt động thì q nửa thời gian ơng bị tù đày. Ơng bị bắt lần cuối cùng năm
1939, bị đày ra địa ngục Cơn Đảo năm 1940 và hy sinh tại ñây ngày 14/8/1943.
Để tưởng nhớ những cống hiến to lớn của Nhà trí thức Nguyễn An Ninh đối với dân
tộc, Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết ñịnh xây dựng Nhà
tưởng niệm Nguyễn An Ninh trên ñịa bàn phường Trung Mỹ Tây, quận 12. Nhà tưởng
c. <b>Chùa Thiên Vân. </b>
Chùa tọa lạc tại số 1/135A phố Nguyễn Văn Quá, phường Đông Hưng Thuận, Quận
12, có tên gọi đầy đủ là Thiên Vân Cổ Tự . Tương truyền trước đây có vong linh ơng Tê
ngự tại đất này nên vào năm 1930, thượng tọa Thích Quyền Đăng cho dựng lên cái am
dùng ñể thờ cúng, và phát thuốc chữa bệnh nên ñặt tên là Thiên Vân tự.
d. <b> Chùa Quảng Đức </b>
<b> Chùa toạ lạc tại 193D quốc lộ 22, phường Trung Mỹ Tây, quận 12 </b>
8. <b>Quận Bình Tân </b>
<b>Chùa Long Thạnh </b>
Chùa tọa lạc ở xã Tân Tạo, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. Chùa do
thiền sư Trí Tâm khai sơn vào thế kỷ XVIII. Vào năm 1862, ngài Minh Hòa - Hoan Hỷ ñã
ñến chùa xin xuất gia học ñạo với thiền sư Tiên Cần - Từ Nhượng. Sau đó, ngài đã xây
dựng ngơi chùa trở thành Phật học, một trung tâm hoằnh pháp danh tiếng ở Nam Kỳ lục
tỉnh, thu hút ñược tăng sĩ khắp nơi ñến tu học. Ngài viên tịch năm 1916, trao quyền thừa kế
cho ngài Thiên Quang - Như Hào. Đến năm 1945, chùa bị hư hỏng hoàn toàn, sau ñó ñược
xây dựng ñơn sơ. Kiến trúc chùa ngày nay đã được hịa thượng Thích Bửu ý cho trùng tu
vào các năm 1959, 1984, 1992 và 1995. Chánh điện được bài trí đơn giản, trang nghiêm.
Chùa có nhiều pho tượng cổ và tháp cổ.
9. <b>Quận Tân Bình </b>
<b> chùa Giác Lâm: Kiến trúc chùa Giác Lâm ñược coi là tiêu biểu cho lối kiến trúc </b>
của các chùa Nam Bộ, với mặt bằng tổng thể theo kiểu chữ Tam, chính điện với kiểu nhà
dân gian truyền thống một gian hai chái, bốn cột chính hay cịn gọi là tứ trụ. Chùa ngun
thủy khơng có cổng tam quan (cổng tam quan chỉ mới ñược xây dựng vào năm 1955), mái
chùa gồm 4 vạt và các sống mái ñều thẳng. Chùa hình chữ nhật, gồm 3 lớp nhà chính:
chính điện, giảng đường và nhà trai, không kể các nhà phụ.
10. <b>Quận Tân Phú: </b>
a. <b>Đình Thần Tân Thới </b>
Tọa lạc trên khu đất cơng thuộc tổ 9 khu phố I, phường Tân Quý, quận Tân Phú,
khu phố 1 ñường Dương Văn Dương, phường Tân Quý, quận Tân Phú, phía đơng giáp
đường số 2, phía sau giáp đường Gị Dầu, phía trước và phía tây giáp nhà dân.
đình tuy khơng lớn như xưa nhưng niềm vinh dự của chúng ñặc biệt là nơi ñồng chí Võ
Thành Trang ñã từng ẩn náu và hoạt ñộng ở ñây.
b. <b>Cầu Tham Lương </b>
Cầu Tham Lương thuộc dạng di tích cách mạng, nơi ñây từng diễn ra trận ñánh
lịch sử giữa quân dân ta và binh lính Pháp.
Địa ñiểm: Từ thành phố theo quốc lộ 1, ñến khu vực Tân Trụ này là phường Tây
Thạnh, giáp Hóc Mơn. Đây là di tích cách mạng, nơi ñã ghi ñậm dấu ấn cuộc chiến dũng
cảm ngoan cường và mưu trí của các chiến sĩ cách mạng thời chống thực dân Pháp và Anh
– An. Với vũ khí thơ sơ nhưng các chiến sĩ cách mạng ta đã vì tiếng gọi hồn thiêng sơng
núi, đã xơng pha trận mạc bằng tất cả ý chí chiến thắng và thật sự cuộc chiến ñã nghiêng
hẳn về phía các chiến sĩ của ta, nhiều người lớn tuổi khi ñi qua cầu Tham Lương ñều nhớ
lại sự kiện hào hùng này.
c. <b>Địa ñạo Phú Thọ Hồ </b>
Địa đạo Phú Thọ Hồ: thuộc thơn Lộc Hoà, Phường Phú Thọ Hoà, xã Phú Thọ
Hoà. Sau cách mạng tháng 8 /1945, thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, chúng tổ
chức những cuộc càn quét vùng cơ sở cách mạng với chủ trương tiêu diệt hết lực lượng của
ta ở vùng vành ñai thành phố. Đảng bộ ñịa phương lãnh ñạo phát triển các hầm bí mật, ñào
công sự chữ L. Về sau, loại hầm chữ L này mất tác dụng vì chứa được ít người trong lúc
nhu cầu của ta là cần phải có vị trí để ém qn, để cán bộ và lực lượng vũ trang bám ñất,
bám dân, nắm vững ñịa bàn hoạt động và làm bàn đạp tiến cơng vào thành phố.
Năm 1947, Chi bộ xã Phú Thọ Hồ có các đồng chí Nguyễn Văn Tiểng (Bí thư),
Lê Thanh, Lâm Quốc Đăng ñã bàn tính và chọn thơn Lộc Hồ để đào địa đạo vỉ tại đây
có những đặc điểm như sau: Mơ đất cao, cây cối rậm rạp, Địa hình địa chất phức tạp, nhân
dân có truyền thống cách mạng vững chắc.
Vị trí: Xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, cách trung tâm thành phố vào
khoảng 30km về phía tây nam.
Ðặc điểm: Phật đài được xây dựng năm 1959, hoàn thành năm 1961 trên một khu đất
rộng hơn 1.000 mét vng. Kiến trúc Phật đài hình bát giác, cao 3m.
Tầng trên tơn trí tượng Đức Phật Thích ca Mầu Ni cao 7m nặng khoảng 4 tấn, do ñiêu
khắc gia Nguyễn Thanh Thu tạc năm 1957.
Trải qua những năm tháng chiến tranh, cả vùng này bị bom ñạn tàn phá, chỉ có ngơi
Phật đài với kinh thân Phật tổ vẫn sừng sững nơi hoang vắng, nên người dân ñịa phương đã
gọi tồ di tích tơn nghiêm này là Phật cơ đơn.
Đến nay Bát Bửu Phật Đài được sửa sang và xây dựng thêm trong khuôn viên 5 ha.
12. <b>Huyện Cần Giờ</b>
<b> Di tích lịch sử cấp quốc gia “Căn cứ Rừng Sác” </b>
Ngày 15/12/2004, Bộ Văn hóa Thơng tin quyết định cơng nhận căn cứ Rừng Sác
thuộc xã Long Hịa, huyện Cần Giờ là Di tích lịch sử cấp Quốc gia.
13. <b>Huyện Củ Chi </b>
a. <b>ñịa ñạo củ chi </b>
<b> Địa ñạo Củ Chi cách Thành phố Hồ Chí Minh 70 km về phía Tây Bắc. Đây là nơi </b>
thu nhỏ trận ñồ biến hóa của quân và dân Củ Chi trong cuộc kháng chiến lâu dài ác liệt
suốt 30 năm chống kẻ thù xâm lược giành ñộc lập, tự do cho Tổ quốc, là một cơng trình
kiến trúc độc đáo, nằm sâu trong lịng đất, có nhiều tầng, nhiều ngõ ngách như màng nhện,
có nơi ăn ở, hội họp và chiến ñấu với tổng chiều dài hơn 200 km.
<b>Địa ñạo Bến Dược: căn cứ Khu ủy & Quân khu Sài Gòn – Gia Định ñược bảo tồn tại </b>
ấp Phú Hiệp, xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi Thành phố Hồ Chí Minh.
<b>Địa đạo Bến Đình: căn cứ Huyện ủy huyện Củ Chi được bảo tồn tại ấp Bến Đình, xã </b>
Nhuận Đức, huyện Củ Chi Thành phố Hồ Chí Minh.
Đến Thành phố Hồ Chí Minh, bạn hãy đến thăm Khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi,
để hiểu thế nào là cuộc chiến ñấu trường kỳ gian khổ, bạn sẽ ñược mắt thấy – tay sờ một
kỳ tích mà hơm nay là u hịa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc…
2. <b>CƠNG TRÌNH NỔI TIẾNG ĐỘC ĐÁO </b>
a. <b>Nhà thờĐức Bà Sài Gịn </b>
Tên chính thức là V<b>ương cung thánh ñường Chính tịa Đức Mẹ Vơ nhiễm </b>
<b>Nguyên tội (Immaculate Conception Cathedral Basilica), là nhà thờ lớn nhất và </b>ñặc sắc
nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh, với 2 tháp chng cao 60 m, tọa lạc tại trung tâm thành
phố (Số 1 Công trường Công xã Paris, Quận 1). Đây là một trong những cơng trình kiến
trúc tơn giáo đặc sắc thu hút nhiều khách tham quan nhất tại thành phố. Tòa nhà mang
phong cách kiến trúc của Pháp, với toàn bộ nguyên vật liệu xây dựng và thiết bị nội thất
ñược mang từ Pháp qua.
b. <b>Khách sạn Continental </b>
Một khách sạn lịch sử nổi tiếng ở Thành phố Hồ Chí Minh. Khách sạn bắt ñầu xây
vào năm 1878 dưới thời Pháp thuộc, do ông Pierre Cazeau, một nhà sản xuất vật liệu xây
cất và dụng cụ trong nhà. Ông Cazeau muốn mở một khách sạn sang trọng để tiếp đón các
du khách từ Pháp đến Sài Gịn sau một cuộc hải hành rất dài từ "mẫu quốc". Xây cất mất 2
năm, và Khách sạn Continental khánh thành năm 1880.