ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN NGỌC KHÁNH
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THÔNG QUA NGƯỜI THỨ BA
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN NGỌC KHÁNH
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THÔNG QUA NGƯỜI THỨ BA
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ GIANG NAM
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất
cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Ngọc Khánh
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, ngoài
nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự hướng dẫn, giúp đỡ, động
viên của các thầy cơ giáo, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Với sự kính trọng sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn tới TS. Đỗ Giang Nam, giảng
viên Bộ môn Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội đã tận
tình, nhiệt huyết hướng dẫn để tơi hồn thành luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo và cán bộ, nhân viên của
Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội đã giảng dạy, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất để tơi
hồn thành luận văn này.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã hỗ trợ,
động viên, tạo điều kiện để tơi có thể hoàn thành luận văn này.
Trân trọng!
Hà Nội, ngày __ tháng 09 năm 2020
Học viên
Nguyễn Ngọc Khánh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
THÔNG QUA NGƯỜI THỨ BA
7
1.1.
Tổng quan về nghĩa vụ
1.2.
Khái niệm và đặc điểm của thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba
7
19
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của quy định thực hiện nghĩa vụ thông qua
người thứ ba trong pháp luật Việt Nam
29
Thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba trong thông lệ quốc tế
33
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THÔNG QUA NGƯỜI THỨ BA
44
1.4.
2.1. Quy định chung về thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba trong Bộ luật
dân sự 2015
44
2.2. Một số mơ hình thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba được điều chỉnh
bởi pháp luật chuyên ngành
53
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỰC HIỆN
NGHĨA VỤ THÔNG QUA NGƯỜI THỨ BA
86
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thực hiện nghĩa vụ thông qua người
thứ ba
86
3.2.
Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
100
KẾT LUẬN
107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
109
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện nghĩa vụ là việc người có nghĩa vụ đáp ứng đúng và đầy đủ yêu cầu
của người có quyền: chuyển quyền sở hữu, giao tài sản, trả nợ, thực hiện hoặc không
thực hiện một công việc…Thông qua thực hiện nghĩa vụ, nghĩa vụ giữa các chủ thể
mới được hoàn thành, đây cũng là cách thức mà qua đó nghĩa vụ chấm dứt sau khi đã
được thực hiện đúng và đầy đủ. Tuy nhiên, con người thực tế vẫn chỉ là một thực thể
hữu hạn, bị giới hạn, tác động bởi tuổi tác, hồn cảnh và thời gian nên đối với người
có nghĩa vụ, trong một số trường hợp, không phải lúc nào cũng có thể đủ khả năng tự
mình đáp ứng và hồn thành nghĩa vụ với bên có quyền. Điều này khiến việc hồn
thành nghĩa vụ trở lên rất khó khăn và là trở ngại cho việc chấm dứt nghĩa vụ.
Để khuyến khích việc nghĩa vụ được hồn thành đúng và đầy đủ, phương thức
thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba ra đời, thúc đẩy các nghĩa vụ có thể được
hồn thành khơng chỉ bởi bên có nghĩa vụ mà cịn bởi người thứ ba khơng liên quan
tới mối quan hệ nghĩa vụ ban đầu này.
Có thể nói, thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba ra đời không chỉ mang ý
nghĩa là một phương thức để hồn thành nghĩa vụ linh động hơn, mà cịn thể hiện sự
sáng tạo của con người trong việc tận dụng mối liên kết, tương trợ và các quan hệ
giữa người với người, tập thể với tập thể trong một xã hội văn minh nhằm để một
người thứ ba có thể giúp bên có nghĩa vụ đáp ứng các yêu cầu, công việc cần phải
thực hiện trong nội dung nghĩa vụ.
Với những ưu điểm như linh động hơn, giúp nghĩa vụ được hồn thành ngay cả
khi Bên có nghĩa khơng thể có mặt đúng lúc, đúng nơi, khơng trực tiếp thực hiện
nghĩa vụ…việc thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba đã được thừa nhận tại các
quy định của các văn bản luật xa xưa nhất của xã hội loài người. Theo PGS, TS
Nguyễn Ngọc Điện từng viết: “Luật học La Mã thừa nhận khả năng người có nghĩa
vụ nhờ người khác thực hiện nghĩa vụ thay cho mình” [15, tr.84].
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường của Việt Nam đang ngày càng mở cửa, kéo
theo đó là những nguồn đầu tư mới, những ngành nghề mới được phát triển, những
1
mơ hình kinh doanh đang tồn tại được mở rộng về quy mô, các công ty được thành
lập ngày một nhiều hơn…việc thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba trở lên phổ
biến trong bối cảnh mà nền kinh tế đang cần tối đa hóa các bước của hoạt động kinh
doanh, tiết kiệm thời gian của các công đoạn, từ đó, thực hiện nghĩa vụ thơng qua
người thứ ba đi vào đời sống thông qua những dạng hoạt động, dịch vụ phổ biến và
những cá nhân, công ty thực hiện thay nghĩa vụ trở thành những mối nối của một hệ
sinh thái kinh doanh mở. Một số hoạt động kinh doanh mới ra đời dựa trên cơ sở
người thứ ba thực hiện thay nghĩa vụ, ví dụ như: ví điện tử, thu hộ, chi hộ, công việc
của nhà thầu phụ, thực hiện khuyến mại thay… Nhìn một cách bao quát, hệ thống các
văn bản pháp luật chuyên ngành, các quy định điều chỉnh các dạng của phương pháp
thực hiện nghĩa vụ này trong các văn bản đơi khi cịn chưa thống nhất, chưa rõ hoặc
thậm chí khá e dè trong thể hiện các quy định thừa nhận trực tiếp. Điều này gây khó
khăn cho các chủ thể trong việc áp dụng, tuân thủ pháp luật cho đúng, đầy đủ và đảm
bảo được quyền lợi cho mình. Do vậy, việc nghiên cứu phương pháp ghi nhận chế
định thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba tại Bộ Luật Dân sự sao cho đầy đủ,
hợp lý và bao quát, đồng thời tìm ra cách để triển khai các quy định của pháp luật
chuyên ngành phù hợp với định hướng chung của Bộ Luật Dân sự là hết sức cần thiết.
Với suy nghĩ làm phong phú thêm hệ thống lý luận và thực tiễn về thực hiện nghĩa
vụ nói chung, thực hiện nghĩa vụ thơng qua người thứ ba nói riêng, tôi lựa chọn đề
tài: "Thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba theo pháp luật Việt Nam ". Với đề
tài này, tơi mong muốn sẽ tìm hiểu sâu hơn về nguồn gốc, bản chất pháp lý của thực
hiện nghĩa vụ thơng qua người thứ ba, tìm hiểu các dạng cụ thể của phương pháp thực
hiện nghĩa vụ này tại các văn bản pháp luật chuyên ngành của Việt Nam, từ đó xem
xét thực tế áp dụng và hạn chế còn tồn tại để đưa ra đề xuất một số ý kiến nhằm hồn
thiện chế định này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhìn vào thực tiễn pháp lý của Việt Nam, hiện ta thấy, chế định thực hiện nghĩa
vụ thông qua người thứ ba đã có mặt tại các Bộ Luật Dân sự của Việt Nam từ rất sớm
(trước 8/1945, tại các Bộ luật dân sự trong thời kỳ Pháp thuộc) và hiện nay, đồng
2
hành cùng Bộ luật dân sự Việt Nam cịn có rất nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành
điều chỉnh như: Luật Đấu Thầu (cụ thể là về nhà thầu phụ), Nghị định 101/2012/NĐCP (về thanh tốn khơng dùng tiền mặt của Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán),
các văn bản hướng dẫn của Luật thuế Giá trị Gia tăng (về thu hộ, chi hộ trong hoạt
động của doanh nghiệp), Thơng tư 39/2014/TT-NHNN (về trung gian thanh
tốn)…tuy nhiên, các quy định này trong một số trường hợp còn thiếu thống nhất,
quy định còn e dè trong việc thừa nhận hoặc chưa rõ ràng và có những hạn chế về
cách hiểu trong thực tiễn, việc áp dụng và giải quyết tranh chấp trong thực hiện nghĩa
vụ thông qua người thứ ba. Vì thế, việc nghiên cứu một cách hệ thống, khoa học về
chế định thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba là vô cùng cần thiết.
Liên quan tới nghĩa vụ và thực hiện nghĩa vụ nói chung đã có nhiều tài liệu, cơng
trình của các nhà khoa học nghiên cứu, giáo trình, sách tham khảo như: “Nguồn gốc
của nghĩa vụ và phân loại nghĩa vụ” của Tác giả Ngô Huy Cương đăng trên Tạp chí
nghiên cứu lập pháp số 8(2008), “Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự - Bản án và Bình luận Bản án” của Tác giả Đỗ Văn Đại, “Giáo trình Luật Dân sự
tập 2 – Nghĩa vụ” của nhóm Tác giả Nguyễn Ngọc Điện, Đoàn Thị Phương Điệp, Lê
Nguyễn Gia Thiện, “Giáo trình luật Hợp đồng phần chung” của tác giả Ngơ Huy
Cương…Tuy nhiên, hiện chưa có cơng trình, tài liệu nào đi sâu vào việc phân tích
chế định thực hiện nghĩa vụ thơng qua người thứ ba.
Tại nước ngồi, tuy khơng được tập trung nghiên cứu nhiều như: nguyên tắc Hợp
đồng, vấn đề vi phạm và bồi thường thiệt hại, nhưng vẫn tồn tại những bài báo được
một số học giả nghiên cứu và thực hiện liên quan tới thực hiện nghĩa vụ thông qua
người thứ ba, đơn cử như: “Rights and Obligations of Third Parties” của Học giả
Aristides N.Hatzis (Đại học Luật Chicago), “Performance of an Obligation by a
Third Party” của học giả Sonja Meier (Đại học Oxford) hay một số bài viết mang
tính chất chuyên ngành như “Performance of obligations by third parties: Comments
and recommendations” của Ngân hàng quốc gia Vương quốc Bỉ.
Các tài liệu, cơng trình nêu trên đã cho thấy các chế định về nghĩa vụ, thực hiện
nghĩa vụ được các nhà nghiên cứu Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung quan
3
tâm. Các cơng trình, tài liệu, sách chun khảo nêu trên đã làm sáng tỏ bản chất pháp
lý của các chế định về nghĩa vụ. Tại Việt Nam các tài liệu, cơng trình nghiên cứu về
chế định thực hiện nghĩa vụ thơng qua người thứ ba ít khi xuất hiện hoặc được nhắc
tới như một trong các hình thức thực hiện nghĩa vụ với một thời lượng khiêm tốn
trong các cuốn Bình luận khoa học Bộ luật dân sự. Điều này dẫn tới việc khi nghiên
cứu về thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba, chúng ta vẫn chưa có đủ các tài
liệu hoặc tài liệu tham khảo chưa đủ chi tiết, cụ thể để tạo cơ sở, nền tảng cho việc
nghiên cứu, áp dụng và hoàn thiện chế định này trong Bộ Luật Dân sự nói chung và
quy định về các dạng cụ thể của thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba trong
pháp luật chuyên ngành nói riêng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về nghĩa vụ, thực hiện nghĩa vụ nói chung và thực hiện nghĩa vụ thơng
qua người thứ ba nói riêng là một lĩnh vực rộng, được điều chỉnh bởi nhiều ngành
luật khác nhau. Theo đó, phạm vi nghiên cứu của Luận văn thạc sĩ được giới hạn
trong các văn bản pháp luật về thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba và các dạng
cụ thể của nó, quy định tại: Bộ Luật Dân sự năm 2015, Luật đấu thầu 2013, Luật thuế
GTGT, Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật như: Nghị định
101/2012/NĐ-CP, thông tư 46/2014/TT-NHNN, Thông tư 219/2013/TT-BTC... Luận
văn cũng tiến hành khảo sát các số liệu liên quan tới các dạng thực hiện nghĩa vụ
thông qua người thứ ba trong các lĩnh vực chuyên ngành.
Đặc biệt, liên quan tới việc áp dụng và giải quyết tranh chấp, Luận văn tiến hành
khảo sát một số vụ án thực tế trong đó có nội dung liên quan tới thực hiện nghĩa vụ
thông qua người thứ ba mà tôi đã tham gia.
Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu trên, tác giả Luận văn mong muốn cung cấp những
vấn đề lý luận về thực hiện nghĩa vụ, thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba, đối
chiếu với luật thực định và thực tiễn áp dụng tại một số lĩnh vực của luật chuyên
ngành trong thực tế để làm rõ những vướng mắc, khó khăn khi áp dụng hoặc tranh
chấp liên quan, từ đó, đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
4
luật về thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba tại Việt Nam nói chung và pháp
luật điều chỉnh các dạng cụ thể của phương thức thực hiện nghĩa vụ này nói riêng.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ Luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu và làm rõ một số vấn
đề sau:
Thứ nhất, đề cập khái quát nội dung về nghĩa vụ dân sự, thực hiện nghĩa vụ thơng
qua người thứ ba, phân tích các đặc điểm và phân biệt với các dạng thực hiện nghĩa
vụ khác, chuyển giao nghĩa vụ. Kèm theo đó, Luận văn trình bày tổng quát việc hình
thành chế định này trong các giai đoạn lịch sử của Bộ Luật Dân sự Việt Nam cho tới
nay, đồng thời, liên hệ với các thơng lệ của pháp luật quốc tế có đề cập tới việc thực
hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba như: PICC, PECL, DCFR…
Thứ hai, phân tích, đánh giá, các quy định về hoạt động thực hiện nghĩa vụ thông
qua người thứ ba trong Bộ Luật Dân sự 2015 và trong một số luật chuyên ngành đối
với các dạng cụ thể của thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba được điều chỉnh.
Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng của hoạt động thực hiện nghĩa vụ thơng
qua người thứ ba, từ đó, đề xuất những giải pháp để hoàn thiện pháp luật về thực hiện
nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba tại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng của chủ nghĩa MácLê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là phương pháp nghiên cứu khoa học dựa trên việc
đặt các vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau.
Phương pháp khảo sát, phân tích, đánh giá: là phương pháp được sử dụng chủ yếu
nhằm tìm hiểu, nhận xét đánh giá thực tiễn pháp luật Việt Nam
Phương pháp so sánh: là phương pháp nhằm cung cấp cho chúng ta một cái nhìn
bao quát hơn trong việc liên hệ, so sánh với các hệ thống Luật chuyên ngành cũng
như pháp luật trên thế giới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
5
Kết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luận trong
khoa học pháp lý của vấn đề thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba. Cụ thể: phân
tích nguồn gốc, đặc điểm của nghĩa vụ, của thực hiện nghĩa vụ, của thực hiện nghĩa
vụ thông qua người thứ ba, liên hệ các dạng thực hiện nghĩa vụ thứ ba trong góc nhìn
của Luật chuyên ngành. Đề tài không chỉ cung cấp những vấn đề mang tính lý luận
mà cịn chỉ ra những mâu thuẫn, vướng mắc từ thực tiễn pháp lý Việt Nam, qua đó
góp phần khắc phục, tiến tới hồn thiện chế định thực hiện nghĩa vụ thông qua người
thứ ba và thúc đấy sự phát triển của xã hội.
Đặc biệt, đề tài khơng chỉ tập trung phân tích quy định của Luật chuyên ngành đối
với các dạng cụ thể của thực hiện nghĩa vụ thơng qua người thứ ba mà cịn phân tích
các số liệu thực tế, bản án có nội dung liên quan tới thực hiện nghĩa vụ thông qua
người thứ ba. Đề tài có thể trở thành tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm, nghiên
cứu hoặc vướng mắc trong các giao dịch về hoạt động chi hộ trong Cơng ty.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về thực hiện nghĩa vụ thông
qua người thứ ba
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định
pháp luật Việt Nam về thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba
6
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THÔNG
QUA NGƯỜI THỨ BA
1.1.
Tổng quan về nghĩa vụ
1.1.1.
1.1.1.1.
Khái niệm nghĩa vụ
Định nghĩa nghĩa vụ
Thuật ngữ nghĩa vụ (obligation) hay “obligation” theo tiếng Latin có rất nhiều
nghĩa khác nhau. Theo tra cứu tại từ điển Tiếng Anh Cambrigde thì “Obligation” theo
định nghĩa ngắn gọn được hiểu là điều mà bạn phải làm (something that you must do)
[51]. Tuy nhiên, cho dù ở góc độ nào, khi nói đến nghĩa vụ, chúng ta thường hiểu đó
là những gì mà một người phải làm hoặc không được làm đối với người khác.
Nghĩa vụ thường được hình dung như một mối liên hệ pháp lý trong đó một người
có quyền địi hỏi một người có nghĩa vụ, chuyển giao một vật, thực hiện một việc
hoặc khơng làm một việc. Qua cách hình dung này, định nghĩa “nghĩa vụ” như trên
có tính bao quát chung và có thể bao gồm: (1) Nghĩa vụ tự nhiên hay nghĩa vụ thiên
nhiên và (2) Nghĩa vụ dân sự.
Theo cuốn “Danh - từ pháp – luật lược – giải” của Trần Thúc Linh trong có nêu:
“Nghĩa vụ thiên nhiên là một nghĩa vụ không do pháp luật bắt buộc thi hành mà vì lẽ
cơng bằng người mắc nợ phải trả. Nghĩa vụ dân sự là một nghĩa vụ mà pháp luật bắt
buộc phải thi hành” [20, tr.754]
Tuy nhiên, trong giới hạn nghiên cứu của Luận văn này, ta sẽ đi sâu để làm rõ
định nghĩa của nghĩa vụ dân sự.
Theo ý kiến học giả Nguyễn Ngọc Đào trích trong Cuốn “Luật La Mã” xuất bản
năm 1994 thì từ thời La Mã, nghĩa vụ đã được hiểu “như là những ràng buộc pháp lý
và theo đó, chúng ta buộc phải làm một việc gì đó phù hợp với nhà nước của chúng
ta”, “bản chất của nghĩa vụ không phải ở chỗ đem lại cho chúng ta một vật thể hay
một “servitus” nào đó mà là buộc một người nào đó phải đem lại hay làm một cái gì
đó cho chúng ta” (Bộ Degest, quyển 44 – Điều 73) [19, tr.73].
7
Theo học giả Conrinne Reault – Brahinsky, “Nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật
được xác lập giữa hai chủ thể theo đó một chủ thể (Chủ thể quyền – Người có quyền)
có quyền yêu cầu chủ thể kia (Chủ thể nghĩa vụ - Người có nghĩa vụ) phải hồn thành
một việc nhất định” [7, tr.11].
Đối với một số hệ thống pháp luật thực định, ví dụ như Bộ luật dân sự Đức 1900,
việc định nghĩa nghĩa vụ nhấn mạnh tới bản chất của nghĩa vụ là quyền yêu cầu, cụ
thể, Điều 241 Bộ Luật Dân sự Đức 1900 nêu: “Hiệu lực của nghĩa vụ là việc trái chủ
có quyền yêu cầu thực hiện từ người thụ trái. Sự thực hiện này có thể bao gồm việc
khơng hành động”
Pháp luật Việt Nam cũng thừa nhận các nội dung này tại Điều 274 Bộ Luật Dân
sự 2015 nhưng cụ thể hơn về đối tượng của nghĩa vụ, theo đó: “nghĩa vụ là việc mà
theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển
giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc
không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác
(sau đây gọi chung là bên có quyền)”[36]. Quy định này có những nét tương đồng
với các Bộ Luật Dân sự thời kỳ trước như Bộ Luật Dân sự 1995 hay xa hơn là Bộ
Luật Dân sự Trung kỳ 1936 hay Bộ Luật Dân sự Bắc Kỳ 1931. Theo các quan điểm
đã nêu ở trên, bản chất của nghĩa vụ dân sự là quyền yêu cầu và kèm theo là chủ thể
có quyền yêu cầu cùng những thiết chế, chế tài vi phạm mà Nhà nước đặt ra để đảm
bảo quyền yêu cầu này được thực thi. Có thể thấy định nghĩa mà Bộ Luật Dân sự
2015 nêu trên có thể dùng để nhận dạng tất cả các nghĩa vụ nói chung: bao gồm cả
nghĩa vụ pháp lý và các nghĩa vụ khác trong đạo đức, tôn giáo,… nhưng chỉ có nghĩa
vụ dân sự được pháp luật quy định mới được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực công
cộng Nhà nước.
Theo quan điểm được ghi nhận tại Giáo trình Luận dân sự của Học viện tư pháp
Việt Nam có đề cập: “Nghĩa vụ dân sự được hiểu là quan hệ pháp luật về tài sản và
nhân thân của các chủ thể, theo đó chủ thể mang quyền có quyền yêu cầu chủ thể
mang nghĩa vụ phải chuyển giao một tài sản, thực hiện một việc hoặc không được
8
thực hiện một việc vì lợi ích của mình hay lợi ích của người thứ ba, phải bồi thường
một thiệt hại về tài sản hoặc nhân thân do có hành vi gây thiệt hại, vi phạm lợi ích
hợp pháp của bên có quyền. Chủ thể mang nghĩa vụ dân sự phải thực hiện quyền yêu
cầu của chủ thể mang quyền. Các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự của các bên chủ
thể trong quan hệ nghĩa vụ theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận của các
bên xác lập quan hệ nghĩa vụ dân sự” [17, tr.256]. Quan điểm này lại cho chúng ta
thấy một cách định nghĩa về nghĩa vụ tuy chi tiết hơn cách định nghĩa của Bộ luật
dân sự đã nêu, nhưng theo ý kiến của tôi, việc định nghĩa nghĩa vụ dân sự là quan hệ
pháp luật về tài sản và cả nhân thân của các chủ thể có phần chưa chính xác. Do vậy,
việc đưa ra cách định nghĩa nêu trên có phần khiên cưỡng.
Theo quan điểm nêu tại Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài Hợp đồng của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh có đề cập: “Khái
niệm nghĩa vụ theo nghĩa hẹp là những hành vi cụ thể mà một bên phải thực hiện vì
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể phía Bên kia”[14, tr.16].
Đối với các nước thuộc họ pháp lý Anh – Mỹ, theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện
thì khái niệm nghĩa vụ được xây dựng và hoàn thiện chủ yếu trong luật của các nước
chịu ảnh hưởng của văn hóa pháp lý Latinh. Ở các nước theo văn hóa pháp lý Anh –
Mỹ, quan hệ nghĩa vụ tổng quát được thay thế bằng những mối quan hệ cụ thể hơn,
như hợp đồng (contract), hành vi sai trái (tort),…[15, tr.1].
Tóm lại, có thể định nghĩa, Nghĩa vụ dân sự là quan hệ pháp lý được xác lập trong
đó một bên có quyền u cầu bên cịn lại phải hồn thành việc chuyển giao quyền, tài
sản vật chất, thực hiện hoặc kiềm chế không thực hiện một công việc nhất định.
1.1.1.2.
Đặc điểm của nghĩa vụ
Từ những ý kiến nêu trong phần trước, có thể thấy đa phần các quan điểm khi
định nghĩa về nghĩa vụ dân sự thường nhấn mạnh bản chất của nghĩa vụ dân sự là
quyền yêu cầu. Điều này giúp chúng ta có thể xác định ba đặc điểm quan trọng của
nghĩa vụ dân sự bao gồm: (i) nghĩa vụ là một quan hệ pháp lý, (ii) nghĩa vụ là một
9
quan hệ đối nhân và (iii) nghĩa vụ là một quyền tài sản. Ngồi ra, nghĩa vụ dân sự cịn
mang tính tương đối và tính thời hạn.
a.
Nghĩa vụ là một quan hệ pháp lý
Theo cách tiếp cận của Luật La Mã, quan hệ nghĩa vụ luôn bao gồm chế tài, tức
biện pháp để bảo vệ lợi ích của bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ, một khi Bên có
nghĩa vụ khơng tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình. Sở dĩ, nghĩa vụ dân sự luôn
được đảm bảo bởi chế tài, biện pháp cưỡng chế là bởi nghĩa vụ dân sự, với tư cách là
quan hệ xã hội đã được pháp luật thừa nhận và ghi nhận tại các văn bản pháp luật
thành văn của mỗi Nhà nước. Và để đảm bảo trật tự quản lý công cộng trong các lĩnh
vực dân sự, nghĩa vụ dân sự sẽ được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng quyền lực
công cộng và có giá trị cưỡng bức thi hành. Đặc điểm này cũng chính là tiêu chí để
phân biệt giữa nghĩa vụ dân sự và nghĩa vụ tự nhiên.
Nghĩa vụ với tư cách là một quan hệ pháp lý sẽ có những đặc điểm về chủ thể,
khách thể, đối tượng khác biệt với nghĩa vụ tự nhiên, cụ thể:
Về chủ thể, trong một mối quan hệ nghĩa vụ dân sự sẽ có ít nhất hai bên, một bên
là chủ thể có quyền và một bên là chủ thể có nghĩa vụ. Ngồi ra, ta có thể thấy chủ
thể trong quan hệ nghĩa vụ dân sự bao gồm cá nhân và pháp nhân, thậm chí là cả Nhà
nước, cụ thể, theo ý kiến nêu tại Giáo trình Pháp luật về Hợp đồng và Bồi thường
thiệt hại ngoài Hợp đồng của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thì “trong
một số trường hợp do pháp luật quy định, Nhà nước CHXHCN Việt Nam cũng tham
gia vào một số quan hệ dân sự nói chung và quan hệ nghĩa vụ nói riêng với tư cách
là chủ thể đặc biệt của các quan hệ đó.”[14, tr.24].
Về Khách thể, trong quan hệ nghĩa vụ, khách thể của quan hệ này là thứ mà chủ
thể hướng tới, tác động vào và mong muốn đạt được. Lợi ích của chủ thể có quyền
có được đáp ứng hay không, cần phải thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ, do vậy,
bên có quyền sẽ ln quan tâm đến quyền yêu cầu của mình và hành vi thực hiện
nghĩa vụ của Bên có nghĩa vụ, nội dung nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ sẽ nhằm vào
một số hành vi nhất định. Hành vi thực hiện nghĩa vụ chính là phương tiện mà thơng
10
qua đó quyền lợi của các chủ thể có quyền được đáp ứng. Vì vậy, trong các quan hệ
về nghĩa vụ thì hành vi là khách thể mà quyền yêu cầu và nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ nghĩa vụ đều nhắm vào, hướng tới, mong muốn đạt được.
Về đối tượng, quyền đối nhân có các loại đối tượng là chuyển giao tài sản và thực
hiện một hành vi nhất định (làm hoặc kiềm chế không làm một việc nào đó). Trong
mối quan hệ về nghĩa vụ dân sự, đối tượng của quyền yêu cầu có thể là (1) việc yêu
cầu Bên có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu tài sản - các của cải vật chất, tinh thần
có giá trị mà thơng thơng thường được chia làm bốn nhóm: Vật, tiền, giấy tờ có giá
và quyền tài sản; (2) hoặc cũng có thể là thực hiện một công việc hay (3) kiềm chế
không thực hiện một công việc (công việc không được thực hiện) nhằm mang lại lợi
ích cho bên có quyền.
Theo quan điểm của Bộ luật dân sự Việt Nam, để trở thành đối tượng trong quan
hệ nghĩa vụ thì tài sản, cơng việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện phải đáp
ứng các điều kiện do pháp luật quy định, theo đó, bao gồm: (1) Đối tượng của nghĩa
vụ phải được xác định; (2) Đối tượng của nghĩa vụ dù là tài sản hay công việc được
làm/không được làm không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội. Rõ ràng, chúng ta có thể thấy, tài sản chỉ có thể trở thành đối tượng của nghĩa vụ
khi tài sản đó được phép giao dịch (ví dụ: ma túy, vũ khí qn dụng, chất phóng
xạ…), khơng bị cấm lưu thơng hoặc bị hạn chế lưu thông khi chưa đáp ứng các điều
kiện nhất định (pháo hoa, chất nổ, độc dược trong y tế). Đối với các công việc vi
phạm các điều cấm của pháp luật hay đạo đức xã hội cũng không thể trở thành đối
tượng của nghĩa vụ dân sự, ví dụ: dịch vụ địi nợ th, dịch vụ mại dâm…
Từ đặc điểm nghĩa vụ là một quan hệ pháp lý, chúng ta có thể thấy tính ràng buộc
pháp lý của nghĩa vụ, theo đó, các bên trong quan hệ nghĩa vụ được ràng buộc bởi
các nghĩa vụ và những hậu quả pháp lý nhất định từ việc thực hiện hoặc khơng thực
hiện những nghĩa vụ đó. Vì là một quan hệ pháp lý, nghĩa vụ được pháp luật công
nhận và có giá trị buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện các công việc dưới sự đảm bảo
của Nhà nước bằng các biện pháp cưỡng chế được thực hiện bằng quyền lực công
11
cộng trên cơ sở các quy định pháp luật. Ngoài ra, do là một quan hệ pháp lý, nên Nhà
nước cũng quy định và đưa vào pháp luật các căn cứ, cơ sở phát sinh của nghĩa vụ
(từ thỏa thuận, do hành vi vi phạm pháp luật, do thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền…) nhằm điều chỉnh một cách bao quát các trường hợp phát sinh của nghĩa vụ.
b.
Nghĩa vụ là một quan hệ đối nhân
Nghĩa vụ dân sự là quan hệ được xác lập giữa các bên chủ thể có quyền và có
nghĩa vụ, theo đó, bên có quyền chỉ được quyền yêu cầu Bên có nghĩa vụ phải thực
hiện công việc hoặc tuân thủ không thực hiện một cơng việc nào đó, quyền u cầu
của bên có quyền không được thi hành trên bất cứ tài sản hữu hình cụ thể nào. Mặt
khác, lợi ích của chủ thể có quyền trong quan hệ nghĩa vụ chỉ có thể được đáp ứng
thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ thể có nghĩa vụ, khi người có nghĩa vụ
khơng thực hiện hoặc có thực hiện nhưng khơng đúng, khơng đầy đủ thì người có
quyền được sử dụng các phương thức mà pháp luật cho phép tác động và buộc người
có nghĩa vụ phải thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ.
Quyền và nghĩa vụ của các tuyến chủ thể tham gia là tương ứng và đối lập nhau,
nghĩa là quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Trái chủ (bên có
quyền) là người có quyền yêu cầu người thụ trái phải thực hiện một cơng việc, hành
vi nào đó cịn người thụ trái phải thực hiện hành vi, công việc xác định đã cam kết
hoặc do pháp luật quy định phải thực hiện vì quyền lợi của trái chủ hoặc người khác
đã được xác định cụ thể trong quan hệ nghĩa vụ. Nếu người thụ trái (bên có nghĩa vụ)
khơng tn thủ việc thực hiện nghĩa vụ có thể sẽ gặp phải các hậu quả pháp lý tiêu
cực (chế tài) hoặc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm buộc người này thi hành
đúng hoặc phát sinh việc thực hiện một nghĩa vụ bồi thường khác.
Với đặc tính này, trái chủ chỉ có thể thi hành quyền của mình đối với người thụ
trái chứ không được thi hành quyền yêu cầu của mình trên bất kỳ một tài sản cụ thể
nào. Ví dụ: A nợ B một khoản nợ và khơng có khả năng chi trả cho B, A khi đó có
một tài sản là chiếc xe máy thuộc sở hữu của mình. Tuy nhiên, B khơng thể thực hiện
12
quyền yêu cầu với A trên tài sản là chiếc xe máy mà chỉ có thể yêu cầu A – người
đang là chủ sở hữu chiếc xe chuyển giao quyền sở hữu chiếc xe cho B để cấn trừ nợ.
c.
Nghĩa vụ là một quyền tài sản
Thông thường, người ta thường cho rằng nghĩa vụ là một quyền tài sản và quyền
tài sản được hiểu là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác (Điều 115
Bộ Luật Dân sự 2015) [36].
Tuy nhiên, theo PGS.TS Ngô Huy Cương: “việc sử dụng thuật ngữ quyền sản
nghiệp chính xác hơn thuật ngữ quyền tài sản. Sản nghiệp chỉ một mối quan hệ tài
sản thuộc một người nào đó bao gồm cả tài sản có và tài sản nợ. Vì vậy, nó phản ánh
chính xác hơn tính chất của nghĩa vụ” [9, tr.49].
Khơng chỉ trong phạm vi của việc chuyển giao vật, tài sản bao hàm trong nghĩa
vụ mà nghĩa vụ được coi là có thể trị giá được bằng tiền. Bản thân nghĩa vụ ln có
một giá trị nhất định có thể xác định được bằng phương thức này hay phương thức
khác. Ta có một số ví dụ minh họa như sau:
Đối với nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu tài sản như một chiếc xe, một ngôi
nhà, các quyền tài sản này đều có thể định giá được bằng tiền dựa trên giá trị tài sản
chuyển giao.
Đối với nghĩa vụ phải làm một cơng việc nào đó, thì cơng sức, thời gian lao động,
thực hiện của người có nghĩa vụ cũng có thể thông qua giám định, đánh giá để xác
định giá trị quy đổi thành tiền. Ví dụ: A phải sửa ống nước cho B, theo giá thị trường,
dịch vụ sửa ống nước có giá trung bình 500.000 VNĐ/h với thợ lành nghề. Do vậy,
nghĩa vụ của A với B có thể định giá với mức 500.000 VNĐ/h nhân với số giờ A thực
hiện cho B.
Đối với nghĩa vụ không làm một cơng việc nào đó, thì giá trị của nghĩa vụ chính
là chi phí cơ hội được bỏ qua khi kiềm chế khơng thực hiện cơng việc đó. Ví dụ: A
cam kết với công ty B sẽ không làm việc cho các đối thủ cạnh tranh của B, thông
13
thường, nếu ký Hợp đồng với các Công ty này, A có thể được trả mức 15.000.000
đồng/tháng nhưng nếu ký Hợp đồng với nhóm Cơng ty khác, A chỉ có thể hưởng mức
10.000.000 đồng/tháng. Như vậy, giá trị của nghĩa vụ này ở đây chính là 5.000.000
đồng/tháng.
Tóm lại, bên có quyền luôn hưởng lợi từ việc thực hiện các nghĩa vụ nên khi nói
tới đặc điểm này của nghĩa vụ, việc sử dụng thuật ngữ Quyền đối với sản nghiệp có
thể chính xác hơn khi chỉ đơn thuần sử dụng thuật ngữ Quyền tài sản.
Ngoài ra, qua xem xét một số quan điểm của các học giả, cơ sở nghiên cứu và đào
tạo luật, tơi nhận thấy nghĩa vụ cịn có một số đặc điểm khác, cụ thể:
Quan hệ nghĩa vụ là quan hệ pháp luật dân sự mang tính tương đối [14, tr.20].
Khác với quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối, trong đó, quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ thể quyền được đáp ứng bởi nghĩa vụ của mọi chủ thể khác thì với quan hệ nghĩa
vụ là quan hệ mà trong đó diễn ra q trình dịch chuyển tài sản, thực hiện, không thực
hiện công việc mà các bên luôn xác định cụ thể. Nội dung nghĩa vụ sẽ được xác định
trước tiên trong quan hệ, sau đó là trách nhiệm cho những chủ thể của nghĩa vụ, cịn
đối với những người khơng tham gia vào quan hệ nghĩa vụ thì họ khơng có bất kỳ
nghĩa vụ nào nên họ cũng không phải chịu bất kỳ trách nhiệm dân sự nào.
Các quan hệ nghĩa vụ thường có chế tài kèm theo hoặc thúc đẩy việc thực hiện
nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác [14, tr.21]. Tính bắt buộc phải
thực hiện khơng chỉ là đặc điểm được rút ra từ việc nghĩa vụ là một quan hệ pháp lý
được pháp luật thừa nhận, tính bắt buộc phải thực hiện cịn là điểm khác biệt cơ bản
giữa nghĩa vụ dân sự, nghĩa vụ tự nhiên và nghĩa vụ đạo lý. Trường hợp bên có nghĩa
vụ khơng thực hiện nghĩa vụ thì các chế tài, với danh nghĩa là các biện pháp buộc bên
có nghĩa vụ phải thực hiện và gánh chịu những hậu quả pháp lý do việc vi phạm nghĩa
vụ. Các chế tài này tác động lên người có nghĩa vụ tùy theo các Bên thỏa thuận từ
trước hoặc do pháp luật quy định.
Các quan hệ nghĩa vụ cịn mang tính thời hạn, cụ thể, các Bên chủ thể khi thỏa
thuận về thực hiện nghĩa vụ sẽ đặt ra một khoảng thời gian mà khi hết thời điểm đó,
14
Bên có nghĩa vụ phải hồn thành nghĩa vụ. Theo quan điểm của Bộ luật dân sự Việt
Nam, thời hạn thực hiện nghĩa vụ do các bên thỏa thuận, theo quy định của pháp luật
hoặc theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện
nghĩa vụ đúng thời hạn, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trường hợp nếu
hết thời hạn mà nghĩa vụ chưa được hồn thành, bên có nghĩa vụ sẽ phải chịu trách
nhiệm pháp lý với việc khơng hồn thành công việc, yêu cầu theo thỏa thuận ban đầu
giữa các bên.
1.1.2. Phân loại nghĩa vụ
Nghĩa vụ có thể được phân loại theo nhiều cách tùy thuộc vào đặc điểm hoặc tiêu
chí được sử dụng làm căn cứ để thực hiện phân loại. Trong phạm vi phần này của
Luận văn, xin được đề cập một số hướng phân loại phổ biến như sau:
Theo PGS. TS. Ngô Huy Cương đề cập chi tiết tại bài viết “Nguồn gốc của nghĩa
vụ và phân loại nghĩa vụ”, các căn cứ phân loại nghĩa vụ phổ biến bao gồm: hiệu lực;
nguồn gốc; đối tượng và mức độ [10]. Nếu chia theo những căn cứ phân loại nêu trên,
các nghĩa vụ sẽ được phân loại như sau:
Thứ nhất, phân loại nghĩa vụ theo hiệu lực gồm: (i) nghĩa vụ dân sự (hay còn được
hiểu là nghĩa vụ pháp lý), (ii) nghĩa vụ tự nhiên (gồm hai dạng: các nghĩa vụ ban đầu
là nghĩa vụ dân sự, sau đó trở thành nghĩa vụ tự nhiên và không mang hiệu lực pháp
lý nữa, và nghĩa vụ đạo đức đúng đắn đặc biệt rõ ràng và thúc buộc như nghĩa vụ trợ
giúp người đang lâm vào hoàn cảnh nguy cấp), và (iii) nghĩa vụ đạo đức (chỉ mang
tính chất đạo đức, hồn tồn khơng có hiệu lực pháp lý).
Thứ hai, phân loại nghĩa vụ theo nguồn gốc gồm: (i) nghĩa vụ hợp đồng (tạo lập
từ sự thỏa thuận tự nguyện từ hai hoặc nhiều người), (ii) nghĩa vụ chuẩn hợp đồng
(phát sinh giữa các bên như hậu quả của một hành vi hợp pháp của một bên nhưng
thiếu sự thỏa thuận), (iii) nghĩa vụ dân sự phạm (phát sinh từ hành vi cố ý gây thiệt
hại cho người khác), (iv) nghĩa vụ chuẩn dân sự phạm (phát sinh từ hành vi vô ý do
sơ suất hoặc thiếu thận trọng gây thiệt hại cho người khác), (v) nghĩa vụ pháp định
(phát sinh thuần túy từ pháp luật độc lập với ý chí/hành vi của các bên).
15
Thứ ba, phân loại nghĩa vụ theo đối tượng gồm: (i) nghĩa vụ chuyển giao (người
thụ trái phải chuyển giao một vật hay quyền nào đó cho trái chủ), (ii) nghĩa vụ hành
động (người thụ trái phải thực hiện một cơng việc nào đó cho trái chủ), (iii) nghĩa vụ
khơng hành động (người thụ trái không được thực hiện một hành động nào đó).
Thứ tư, phân loại nghĩa vụ theo mức độ: (i) nghĩa vụ thành quả (người thụ trái
cam kết đạt được một kết quả nhất định và (ii) nghĩa vụ mẫn cán trung thực (người
thụ trái chỉ cam kết thi hành nghĩa vụ một cách mẫn cán, trung thực mà không cam
kết về kết quả đạt được) .
Thứ năm, phân loại nghĩa vụ theo phạm vi chủ thể: (i) nghĩa vụ riêng rẽ ( nhiều
người cùng thực hiện một nghĩa vụ dân sự, nhưng mỗi người có một phần nghĩa vụ
nhất định và riêng rẽ với nhau thì mỗi người chỉ phải thực hiện phần nghĩa vụ của
mình) và (ii) nghĩa vụ liên đới (nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên
có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện
toàn bộ nghĩa vụ).
Thứ sáu, phân loại nghĩa vụ theo đặc điểm đối tượng của nghĩa vụ: (i) nghĩa vụ
phân chia được theo phần (nghĩa vụ mà đối tượng của nghĩa vụ là vật chia được hoặc
cơng việc có thể chia thành nhiều phần để thực hiện) và (ii) nghĩa vụ không phân chia
được theo phần (nghĩa vụ mà đối tượng của nghĩa vụ phải được thực hiện cùng một
lúc).
Ngồi ra, cũng có một số cách phân loại nghĩa vụ được thể hiện trong các tài liệu
nghiên cứu của các học giả, các trường đại học tại Việt nam, có thể kể tới một số cách
phân loại như:
-
Nghĩa vụ trong hợp đồng và nghĩa vụ ngoài hợp đồng.
Theo đó, nghĩa vụ trong hợp đồng là nghĩa vụ được xác lập trong điều kiện các
bên đã có sự thỏa thuận trước và khi đáp ứng các điều kiện nội dung, hình thức thì
hợp đồng trở thành khn khổ ràng buộc các bên đó. Nghĩa vụ ngồi hợp đồng, trái
lại, là nghĩa vụ được xác lập trong hoàn cảnh các bên khơng có sự thỏa thuận trước,
16
ví dụ: bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, các nghĩa vụ phát sinh do thực hiện cơng
việc khơng có ủy quyền.
-
Nghĩa vụ theo luật và nghĩa vụ theo ý chí.
Nghĩa vụ theo luật là kết quả của việc người lập pháp áp đặt một bổn phận nhất
định cho một người trong một hồn cảnh, sự kiện cụ thể (ví dụ: nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, nghĩa vụ cấp dưỡng…). Nghĩa vụ theo ý chí là nghĩa vụ
được xác lập do ý chí hoặc mong muốn của các bên có liên quan, đó có thể là thỏa
thuận giữa các bên hoặc ý chí đơn phương của một bên (ví dụ: nghĩa vụ hứa thưởng).
1.1.3. Nguồn gốc của nghĩa vụ
Đối với nguồn gốc bắt nguồn của nghĩa vụ, đa số quan điểm của các nhà nghiên
cứu và hệ thống pháp luật các nước thuộc họ Châu Âu lục địa cho rằng nghĩa vụ phát
sinh từ ba nguồn gốc chính là: (i) Hành vi pháp lý; (ii) Sự kiện pháp lý và (iii) Theo
luật định (đơn cử như Bộ luật dân sự Pháp 2016).
Theo Luật La Mã, nguồn gốc của nghĩa vụ có hai nguồn gốc căn bản gồm: (i)
Hành vi pháp lý hay hợp đồng (obligation ex contractu) và (ii) Sự kiện pháp lý hay
sự vi phạm (obligation ex delicto) còn được gọi là nguyên nhân bất hợp pháp [10].
Tại Bộ Luật dân sự của các nước thuộc họ pháp luật Châu Âu lục địa (Dân luật),
việc xác định nguồn gốc của nghĩa vụ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Luật La Mã, có
thể kể đến Bộ Luật Dân sự Đức 1900, theo đó, chia nguồn gốc của nghĩa vụ thành hai
loại căn bản là Hợp đồng và những nguồn gốc khác. Những nguồn gốc khác này được
chia thành các loại như: vi phạm, chuẩn hợp đồng và thực hiện cơng việc khơng có
ủy quyền. Những nghĩa vụ phát sinh từ “nguồn gốc khác” này được coi là nghĩa vụ
pháp định. Pháp luật của Pháp cũng đề cập tới 05 (năm) nguồn gốc của nghĩa vụ là
hợp đồng, vi phạm, chuẩn hợp đồng, chuẩn vi phạm và nghĩa vụ pháp định [45,
tr.493].
Chịu ảnh hưởng của quan điểm này, một số văn bản pháp luật Việt Nam chế độ
cũ như: Dân luật thi hành các Tòa Nam án Bắc kỳ (Bộ dân luật Bắc kỳ 1931) tại Điều
17
643 cũng cho rằng nghĩa vụ có nguồn gốc từ: (1) Hiệp ước/khế ước (Hợp đồng), (2)
thu nhận vật không thuộc sở hữu của mình hay khơng có lý do chính đáng, (3) sự cố
ý/vơ ý gây thiệt hại và (4) do Luật lệ quy định.[40]
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể thấy quan điểm về nguồn gốc nghĩa vụ
của các nước thuộc họ pháp luật Châu Âu lục địa có sự tương đồng nhau là từ Hợp
đồng và các nguồn gốc khác ngoài Hợp đồng.
Để lý giải cho lý do xác định nguồn gốc của nghĩa vụ như trên, học giả Nigel
Foster cho rằng: Các Bộ luật Dân sự của Pháp, của Đức và của một số nước Châu Âu
cùng ra đời trong kỷ nguyên của chủ nghĩa tự do cá nhân vơ giới hạn. Do đó, chúng
diễn đạt tư tưởng hạn chế sự can thiệp của Nhà nước vào sự lựa chọn của cá nhân và
các quyền tự do của cá nhân [46, tr.214]. Như vậy, Bộ luật dân sự của các nước thuộc
họ pháp luật Châu Âu lục địa trong thời điểm này đều thường đề cao tính tự do ý chí
và chỉ có cá nhân mới có thể chịu ràng buộc bởi ý chí của chính họ. Hợp đồng, theo
đó, được giải thích trong điều kiện của tự do ý chí và ý chí là căn bản của nghĩa vụ.
Còn đối với các nguồn gốc khác của nghĩa vụ, có thể thấy rằng đều có nguồn gốc
từ sự kiện pháp lý do pháp luật quy định, nếu đi từ cách nhìn của Thuyết khế ước xã
hội của Thomas Hobbes, Jean-Jacques Rousseau trong hình thành nhà nước thì mỗi
con người trong xã hội vốn ban đầu ở trạng thái tự nhiên (vơ chính phủ) sẽ từ bỏ trạng
thái tự nhiên để xây dựng một cộng đồng, mỗi cá nhân sẽ từ bỏ những quyền tự do tự
nhiên để trao cho nhà nước - người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của quần chúng.
Nhà nước ra đời từ khế ước trao quyền này nhằm quản lý và duy trì trật tự cơng cộng,
Nhà nước đưa ra pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Do vậy, “nguồn gốc
khác” của nghĩa vụ, đơn cử chính là do Nhà nước thơng qua pháp luật sẽ quy định
các sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ khác buộc cá nhân phải thi hành như: vi
phạm, thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền…
Đối với họ pháp luật Anh- Mỹ tuy có sự khác biệt với họ pháp luật Châu Âu lục
địa về luật nghĩa vụ, cụ thể, Common Law khơng có khái niệm về luật nghĩa vụ. Tuy
nhiên, theo nghiên cứu của PGS.TS Ngô Huy Cương tại Giáo trình Luật Hợp đồng
18
(Phần chung) có nêu: ngày nay, nhiều luật gia thuộc Common Law cho rằng law of
obligation (Luật về nghĩa vụ) bao gồm: law of contract, law of tort và law of
restitution (Luật Hợp đồng, Luật về vi phạm và luật về bồi thường) [42, tr.3].
Như tại hệ thống pháp luật Anh, hiện có các đạo luật liên quan tới các nguồn gốc
nghĩa vụ đúng như quan điểm nêu trên như: Luật Hợp đồng (Luật áp dụng) năm 1990,
Luật Hợp đồng (quyền của Bên thứ ba) năm 1999, Luật Bồi thường năm
1977…[58].Sở dĩ có cách phân hóa các nguồn gốc này là do Họ pháp luật Anh – Mỹ
không nghiên cứu tổng quát về nghĩa vụ nói chung mà nghiên cứu từng nguồn gốc
cụ thể của nghĩa vụ và phân biệt tương đối rõ về các yếu tố cấu thành nên trách nhiệm
pháp lý trong vi phạm hợp đồng với các yếu tố cấu thành nên trách nhiệm pháp lý
trong vi phạm ngồi hợp đồng.
Tóm lại, qua những ý kiến đã nêu như trên, có thể thấy, nguồn gốc của nghĩa vụ
nói chung bao gồm hai nguồn chính: (1) Hợp đồng; và (2) Nguồn gốc khác ngoài
Hợp đồng (do pháp luật quy định).
1.2. Khái niệm và đặc điểm của thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba
1.2.1. Khái niệm thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba
Về khái niệm thực hiện nghĩa vụ, theo quan điểm chung của nhiều luật gia Việt
Nam hiện nay, thực hiện nghĩa vụ có thể được hiểu là: việc người thụ trái làm thỏa
mãn các yêu cầu của trái chủ trong một hoặc nhiều đối tượng xác định theo đúng thỏa
thuận hoặc quy định của pháp luật [9, tr.87].
Theo học giả Nguyễn Ngọc Điện có nhận định: “thực hiện nghĩa vụ là việc bên
có nghĩa vụ đáp ứng đúng và đầy đủ các yêu cầu của bên có quyền: chuyển quyền sở
hữu, giao tài sản, trả nợ… Thực hiện nghĩa vụ, hiểu theo nghĩa rằng nghĩa vụ được
hoàn thành, là một trong những căn cứ chấm dứt nghĩa vụ được ghi nhận trong luật
văn hiện hành, bởi nó dẫn tới việc nghĩa vụ được hồn thành” [15, tr.83].
Cịn theo quan điểm của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh: “thực
hiện nghĩa vụ là việc chủ thể có nghĩa vụ thực hiện đúng những hành vi như đã cam
19
kết, thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật nhằm đáp ứng quyền và lợi ích hợp
pháp của chủ thể có quyền” [14, tr.69].
Qua cách định nghĩa chung và các quan điểm nêu trên, có thể thấy, Bên có nghĩa
vụ khơng nhất thiết phải bằng chính hành vi của mình thực hiện một cách trực tiếp
để đáp ứng, thỏa mãn các yêu cầu của bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ. Mục
đích của việc thực hiện nghĩa vụ chỉ là thỏa mãn các yêu cầu và việc thỏa mãn này
có thể thực hiện bởi Bên có nghĩa vụ hoặc cũng có thể là Người thứ ba.
Từ những quan điểm nêu trên, có thể định nghĩa thực hiện nghĩa vụ là hành vi
theo đó bên có nghĩa vụ sẽ đáp ứng, thỏa mãn các yêu cầu của bên có quyền trong
quan hệ nghĩa vụ nhằm hoàn thành nghĩa vụ.
Căn cứ theo những nội dung định nghĩa thực hiện nghĩa vụ nêu trên, có thể tạm
hiểu định nghĩa thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba được cấu thành từ hai yếu
tố: thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba thực hiện thay nghĩa vụ.
Như theo quan điểm tại Giáo trình luật dân sự - phần 2- nghĩa vụ của Khoa Luật
– Trường Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh: “Một cách hợp lý, nếu một người nào
đó sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của bên có quyền, thì người này khơng thể từ chối” [15,
tr.83]. Do vậy, người thực hiện nghĩa vụ có thể là Bên có nghĩa vụ (chính mình thực
hiện, đáp ứng các u cầu) hoặc sẽ là một Bên thứ ba (thực hiện thay nghĩa vụ).
Theo quan điểm ghi nhận tại Bộ luật dân sự Bắc kỳ 1931 quy định tại Điều 789
như sau: “Phàm người nào có quan hệ đến nghĩa vụ, đều có thể thi hành nghĩa vụ ấy,
như người đồng mắc nợ hay người bảo lĩnh nợ. Người đệ tam (Người thứ ba) khơng
quan hệ đến nghĩa vụ, cũng có thể thi hành được, miễn là người đệ tam ấy phải là
thay mặt hay giả hộ người mắc nợ, hay nếu đứng đích tên mình thì khơng được thế
chân vào quyền của người chủ nợ mới được” [40]. Có thể thấy quan điểm này chịu
ảnh hưởng lớn từ Bộ Luật Dân sự Pháp cùng thời kỳ – một quốc gia thuộc họ pháp
luật Châu Âu lục địa (Dân Luật) và quy định trên cũng nêu rõ việc một người thứ ba
không liên quan tới nghĩa vụ có thể thực thi nghĩa vụ thay người mắc nợ và không
thế chân vào quyền chủ nợ mới (tức không trở thành bên thế quyền). Đây là tư tưởng
20