Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Người cao tuổi ở Việt Nam trong bối cảnh biến đổi cấu trúc gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.19 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>V</b>

<b>A</b>



<b>1. Người cao tuổi trong cơ cấu dân số quốc gia </b>


<i><b>1.1.</b></i> Cơ cấu dân số là một trong những dữ
liệu quan trọng làm tiền đề cho việc hoạch
định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia: Đó là tổ hợp của nhiều thơng số:
lứa tuổi, giới tính, sức khỏe, trình độ học vấn và
nghề nghiệp, tộc người, địa bàn cư trú... Trong
đó, cơ cấu độ tuổi có ý nghĩa rất đặc biệt. Căn
cứ vào tỷ lệ độ tuổi, người ta xếp hạng quốc
gia có Dân số Trẻ, Dân số Già hay Dân số Vàng
- như chỉ báo hàng đầu về tiềm lực phát triển


kèm theo những cơ hội và thách thức đối với
quốc gia đó. Cũng dựa trên số liệu này, các nhà
kinh tế học sẽ thống kê được nhóm người ở
tuổi lao động (từ 15 đến 65) và tuổi phụ thuộc
(dưới 15 và trên 65), còn các nhà xã hội học
thường tiếp cận khía cạnh “thế hệ” với độ tuổi
linh hoạt hơn. Độ ngắn dài của mỗi thế hệ (trẻ
- trung niên - cao tuổi) có thay đổi trong các
bối cảnh kinh tế xã hội khác nhau, thí dụ so với
thời kỳ trước đây, khoảng tuổi của ba thế hệ
hiện nay đều kéo dài hơn (7, tr. 29).


<b>NGƯỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH </b>


<b>BIẾN ĐỔI CẤU TRÚC GIA ĐÌNH</b>



<b>NGUYỄN HỒNG MAI</b>


<b>Tóm tắt</b>


<i>Người cao tuổi (NCT) là nhóm đối tượng được đặc biệt quan tâm khi quá trình già hóa dân số đang </i>
<i>diễn ra với tốc độ “phi mã”. Ngồi những khó khăn chung của những người ở nhóm tuổi này, người cao </i>
<i>tuổi Việt Nam cịn đối diện với một số vấn đề có tính đặc thù, trong đó có yếu tố văn hóa. Nhiều người </i>
<i>gặp cú sốc tâm lý khi chứng kiến sự biến đổi giá trị: từ chỗ đề cao giá trị cộng đồng - người già gắn </i>
<i>bó suốt đời với con cái, đến việc khẳng định giá trị cá nhân, cổ vũ lối sống độc lập. Một trong những </i>
<i>nguyên nhân của hiện trạng này đến từ việc biến đổi cấu trúc gia đình. Trên cơ sở phân tích mơ hình </i>
<i>cấu trúc gia đình xưa và nay, bài viết nhấn mạnh tính khách quan của sự biến đổi và xã hội cần thiết có </i>
<i>chiến lược thích ứng đối phó để đảm bảo cuộc sống người cao tuổi.</i>


<b>Từ khóa</b>: Người cao tuổi, cấu trúc gia đình, biến đổi gia đình


<b>Abstract</b>


<i>The elderly is particularly concerned when the aging process of the population is occurring at the </i>
<i>speed of “galloping”. In addition to the common difficulties of people at this age group, Vietnamese </i>
<i>elderly people have to face a number of specific issues, including cultural aspects. Many people </i>
<i>experience psychological shock when they witness the change of values: from the dignification of </i>
<i>community values, the old continue all the rest of lives with their children, to the affirmation of personal </i>
<i>values, the promotion of independent living. One of the causes of this state comes from the changing </i>
<i>in family structure. Based on the analysis of the past and present family structure model, the article </i>
<i>emphasizes the objectivity of change and the social need to have adaptive coping strategies to ensure </i>
<i>the well-being of the elderly.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>V</b>

Ă N HÓ

<b>A</b>



Theo quy định của luật pháp Việt Nam,
người cao tuổi là khái niệm chỉ nhóm người ở
độ tuổi trên 60, những người đang bước vào


giai đoạn cuối của cuộc đời. Kết quả <i>Điều tra </i>
<i>dân số năm 2006</i>, nước ta cịn ở nhóm quốc gia
có Dân số Vàng (2 người lao động/ 1 người phụ
thuộc), nhưng chỉ sau 5 năm đã chính thức
đứng trên ngưỡng Dân số Già với tỷ lệ 11% là
NCT (trong 10,1 triệu NCT có 2 triệu người trên
80). Già hóa dân số tuy được coi là xu hướng
phổ biến trên thế giới, nhưng ở nước ta, hiện
tượng này có <i>hai điểm khác biệt cơ bản</i>. Trước
hết, <i>q trình này diễn ra q nhanh </i>(có nghiên
cứu dùng từ “phi mã”). Ở các nước khác, quá
trình già hóa thường kéo dài gần thế kỷ (Pháp
100 năm, Thụy Điển 85 năm, Mỹ 69 năm,…)
còn ở nước ta, con đường đi từ Dân số Trẻ đến
Dân số Già chỉ khoảng 20 - 22 năm. Hội thảo
quốc tế “<i>Thích ứng với xu hướng già hóa dân số</i>”
tổ chức ở Hà Nội tháng 7/2017 còn đưa ra dự
báo: mỗi giây có hai người Việt Nam bước vào
tuổi 60 và tỷ lệ NCT trong tổng dân số có thể là
18% vào năm 2030 và 26% ở giữa thế kỷ. Mặt
khác, nếu các quốc gia trên thế giới chuyển
sang giai đoạn già hóa thường ở thời điểm
phát triển cao của nền kinh tế, thì Việt Nam lại
đón nhận xu hướng này khi nền kinh tế mới
đạt mức trung bình thấp. Điều này có nghĩa,
hiện nay nước ta cịn thiếu rất nhiều điều kiện
để thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ
cuộc sống NCT.


<i><b>1.2.</b></i> Khơng thể phủ nhận, già hóa dân số


là <i>dấu hiệu tích cực</i>, <i>thành quả khách quan </i>của
cuộc vận động hạ tỷ suất sinh trong vài thập
kỷ qua, cũng như những đóng góp quan trọng
của y học hiện đại nhằm giảm tỷ suất tử vong
và nâng cao tuổi thọ. Nhờ nâng tuổi thọ trung
bình lên 73, cùng với cải thiện mức thu nhập
quốc dân và trình độ học vấn, mà <i>Chỉ số Phát </i>
<i>triển con người</i> (HDI) của nước ta đã vượt qua
một số quốc gia có chỉ số GDP cao hơn. Tuy
nhiên, do hai điểm khác biệt kể trên, NCT ở
Việt Nam cũng đang đối diện với <i>một số thách </i>
<i>thức mang tính đặc thù</i> so với nhóm người


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>V</b>

<b>A</b>



nguồn lực đáng kể vào công cuộc phát triển
đất nước. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đất nước
cịn chưa có đủ việc làm cho cả nhóm tuổi lao
động (nhất là khi cuộc Cách mạng 4.0 đang
đến gần) thì nhu cầu này của NCT vẫn đang là
một thách thức.


+ <i><b>Sức khỏe của người cao tuổ</b></i>i. NCT ở nước
ta không chỉ mang đặc điểm “<i>già mà chưa </i>
<i>giàu</i>” mà còn là những người “<i>thọ nhưng khơng </i>
<i>khỏe</i>”. Tuy tuổi thọ cao hơn nhưng trung bình
mỗi người mang trong mình 2,7 bệnh (chủ yếu
bệnh về tim mạch, tiểu đường, xương khớp,
suy giảm về trí nhớ, thị giác, thính giác và năng
lực vận động). Hiện trạng này là hệ quả tất


yếu của những giai đoạn lịch sử khó khăn của
đất nước. Họ đã trải qua hai cuộc kháng chiến
khốc liệt để bảo vệ Tổ quốc, những năm tháng
vất vả phục hồi kinh tế sau chiến tranh, thời kỳ
bao cấp thiếu thốn với chế độ lương thực, thực
phẩm tem phiếu hạn hẹp. Do tận sức cống
hiến thời tuổi trẻ, lại thêm lối sống tiết kiệm
đến mức khắc kỷ, họ bước vào tuổi già trong
trạng thái sức khỏe kém. Hơn thế, theo truyền
thống, người Việt Nam khơng có thói quen
kiểm tra sức khỏe định kỳ nhằm phát hiện sớm
những điều bất thường trong cơ thể. Cho nên,
khi tuổi cao, sức đề kháng giảm, bệnh tật dễ
bùng phát, việc điều trị trở nên khó khăn và
chi phí tốn kém hơn. Nhà nước ta đã ban hành
một số chính sách tích cực trong việc chăm
sóc, điều trị cho nhóm đối tượng này. Trung
tâm lão khoa của các bệnh viện đã được thành
hình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thể đáp
ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của NCT.


+ <i><b>Tâm lý truyền thống của người cao tuổi. </b></i>


Ở bất kỳ quốc gia nào, NCT cũng là nhóm
người bảo lưu bền bỉ và sâu đậm nhất những
giá trị truyền thống của nền văn hóa mà mình
sinh trưởng. Ở phương Tây, nền văn hóa cơng
nghiệp thành hình hàng trăm năm đã giúp con
người quen thuộc với lối tư duy phân tích - duy
lý, đề cao giá trị cá nhân và lối sống độc lập.


Cịn ở phương Đơng, bao gồm Việt Nam, nền
văn hóa nơng nghiệp (dạng tiểu nơng) lại bồi


<i>đề cao giá trị cộng đồng, trước hết là cộng đồng </i>
<i>gia đình</i>. Tính phong phú của hệ thống đại từ
nhân xưng trong ngơn ngữ tiếng Việt là một ví
dụ cho tư duy trọng quan hệ. Khi giao tiếp, tuỳ
theo tương quan độ tuổi, địa vị xã hội và bối
cảnh cụ thể, người ta sử dụng linh hoạt các đại
từ “chú khi ni, mi khi khác”. Ngay khi tự vấn bản
thân, người Việt cũng thường dùng từ “mình”
thay cho từ “tơi”. Người Việt Nam thường tâm
niệm: mỗi người chỉ là một mắt xích nhỏ trong
đường dây lịch sử gia đình - bên trên là tổ tiên,
phía dưới là hậu duệ - với những nghĩa vụ,
trách nhiệm cụ thể. Họ không chỉ cầu mong
bình an, may mắn trong hiện tại mà cịn ln
khắc sâu ơn nghĩa với q khứ và chuẩn bị hết
lòng cho tương lai. Việc thờ cúng tổ tiên nhiều
đời một cách quy củ, chặt chẽ trong mỗi gia
đình là một ví dụ rõ rệt cho điều này. Con cháu
phải thực hiện phận sự lâu dài với cha mẹ, cả
khi sống lẫn khi qua đời và bậc bề trên, dù đã
khuất, vẫn tiếp tục ở bên con cháu, dõi theo
và phù trợ bí ẩn cho chúng! Vùng tâm thức trở
thành nền tảng cho quy ước tự nhiên: những
người ruột thịt phải cùng chung sống và gắn
bó, nương tựa nhau suốt đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>V</b>

Ă N HÓ

<b>A</b>




“<i>Cha mẹ là lá chắn che chở suốt đời con</i>”
hay


“<i>Con dù lớn vẫn là con của mẹ</i>


<i>Đi suốt cuộc đời, lịng mẹ vẫn theo con</i>”…
Nhìn chung, người làm cha mẹ khơng bao
giờ đo đếm cơng sức của mình đối với con
cái, thậm chí chắt chiu dành dụm tài sản bồi
đắp cho con, mong con sung sướng (<i>Con hơn </i>
<i>cha là nhà có phúc</i>), khơng loại trừ cả niềm hy
vọng vào sự đền đáp của chúng khi mình vào
tuổi “<i>chân yếu, tay run</i>” (Có lẽ đây là điểm khác
biệt trong tâm lý NCT thuộc hai nền văn hóa
Đơng - Tây). Ngược lại, chính lịng hiếu thảo
của những đứa con sẽ xây thành lũy vững chắc
cho chữ phúc của cha mẹ. Đạo làm con là đạo
lý cơ bản nhất của Đạo làm Người. “<i>Làm con </i>
<i>trước phải đền ơn sinh thành</i>”.


Lòng biết ơn đối với cha mẹ vốn đã có cội rễ
trong nền văn hóa bản địa Đơng Nam Á (Văn
hóa thờ Mẫu), nhưng nhờ q trình giao lưu,
tiếp biến, các dịng văn hóa ngoại lai như Phật
giáo, Kitô giáo, đặc biệt là Nho giáo, đã cung
cấp thêm lý thuyết và lễ thức để nó trở thành
Đạo Hiếu. Con cái phải có bổn phận tơn kính,
vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ suốt đời. Ai
vi phạm, không những bị pháp luật kết tội mà


còn bị tòa án của cộng đồng lên án, chối bỏ.


Phân tích yếu tố tâm lý truyền thống mà
hầu hết NCT ở nước ta đang lưu giữ chính để
lý giải hiện trạng tại sao những xúc cảm tiêu
cực (thất vọng, buồn bã) lại chiếm ưu thế trong
tâm trạng họ khi đối diện với sự khủng hoảng
đang diễn ra trong các mối quan hệ gia đình
cũng như sự biến đổi mơ hình cấu trúc gia
đình. Đây là vấn đề thuộc khía cạnh văn hóa,
một thách thức không nhỏ đối với những NCT
ở nước ta hiện nay.


<b>2. Người cao tuổi trong cấu trúc gia đình </b>
<b>xưa và nay </b>


<i>Cấu trúc gia đình</i> là thuật ngữ khoa học chỉ
các yếu tố hợp thành chỉnh thể gia đình (số thế
hệ, số thành viên trong mỗi thế hệ) cũng như
mối tương tác giữa các yếu tố ấy với nhau. Mỗi
kiểu loại gia đình có một dạng thức cấu trúc -


xã hội mà người chủ gia đình mong muốn. Cấu
trúc gia đình, do đó được hình thành và biến
đổi trên nền tảng của nhiều yếu tố khách quan
cũng như ý thức chủ quan của con người. Nó
có ảnh hưởng to lớn tới vai trị, vị trí của mỗi
gia đình trong xã hội, cũng như tác động sâu
sắc tới đời sống vật chất và tinh thần của các
thành viên, bao gồm cả người cao tuổi.



<i><b>2.1.</b></i> Gia đình Việt Nam trong xã hội nơng
nghiệp truyền thống có một đặc điểm khái
qt, đó là <i>tính tương đối thuần nhất về kiểu loại </i>
<i>cấu trúc</i>. Tuyệt đại gia đình kết cấu theo khn
mẫu: kết hơn dị tính, đầy đủ vợ chồng - con
cái. Rất hiếm gia đình khác kiểu, vì khi “<i>đi chệch </i>
<i>khỏi truyền thống cũ và đi theo ý tưởng mới có </i>
<i>thể dẫn tới kết quả bị xa lánh, bị tẩy chay, loại </i>
<i>bỏ và đó là điều đáng kinh sợ khủng khiếp đối </i>
<i>với người sống trong làng</i>” (4, tr.194). Tất nhiên,
trong nhóm các gia đình theo đúng khn
mẫu, cũng khơng có duy nhất một cấu trúc. “<i>Ở </i>
<i>nước ta trước năm 1945, tầng lớp quan lại và địa </i>
<i>chủ mới có điều kiện tạo lập gia đình 4 thế hệ với </i>
<i>hàng chục nhân khẩu. Cịn gia đình nơng dân </i>
<i>lao động thì kết cấu phổ biến là hai hoặc ba thế </i>
<i>hệ - một loại gia đình khơng lớn lắm</i>” (2, tr.175).
Vậy gia đình truyền thống được bàn luận ở đây
là loại gia đình nào? Xuất phát từ quan niệm
gia đình truyền thống phải là gia đình chiếm
số đơng, trên diện rộng, trong một giai đoạn
lịch sử lâu dài, chúng tôi coi cấu trúc của <i>loại </i>
<i>gia đình nơng dân - trực canh</i> là cấu trúc gia
đình điển hình mang tính đại diện. Từ đó, có
thể khẳng định: gia đình truyền thống nước ta
thuộc <i>loại gia đình nhỏ, ít thế hệ</i>. Hơn nữa, gia
đình hai thế hệ chiếm tới 2/3, gia đình ba thế
hệ - nơi bố mẹ già sống cùng con - có tỷ lệ thấp
hơn, khác với những ý kiến cho rằng gia đình


mở rộng (3, 4 thế hệ) mới là mơ hình điển hình
trong xã hội truyền thống. Vậy nguyên nhân
nào dẫn đến việc gia đình hạt nhân chiếm tỷ lệ
cao trong xã hội trước đây?


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>V</b>

<b>A</b>



dân đều có thể có được, “<i>sống lâu lên lão làng</i>”).
Họ ln được cộng đồng kính trọng (nhường
đường, nhường chỗ) vì gia tài kinh nghiệm
sống và kỹ năng sản xuất. Có lẽ vì lý do “<i>cây </i>
<i>thấp</i>” này nên rất hiếm gia đình song hành bốn
thế hệ. “<i>Tán rộng</i>” vì cây có nhiều cành, cành
có nhiều nhánh, biểu tượng người chủ nhà có
đơng con, nhiều cháu. Đó là một ước vọng của
người nơng dân. Nó vừa thỏa mãn về mặt tâm
linh (Con cái là “<i>của Trời cho</i>”, là “<i>hồng ân của </i>
<i>Chúa</i>”), đáp ứng nguồn nhân lực trực tiếp trên
mảnh ruộng gia đình (“<i>mỡi con, mỡi của</i>”), vừa
phịng ngừa sa sảy do “<i>hữu sinh vô dưỡng</i>”, tạo
thêm mối liên kết vợ chồng… Đặc biệt, sinh
nhiều con là một dạng đầu tư lâu dài cho tuổi
già (Con cái là “<i>của để dành</i>”). Tuy đông con,
nhưng ở nước ta, rất hiếm mơ hình “<i>huynh đệ </i>
<i>đồng củ</i>” (anh em đã kết hơn vẫn sống chung
và có kinh tế chung) như ở nước láng giềng
Trung Hoa. Người Việt Nam có phong tục cho
con trai ra ở riêng ngay sau khi kết hôn. Vợ
chồng con trai trưởng (ở miền Bắc) hoặc con
trai út (ở miền Nam) ở lại ngôi nhà của cha mẹ


với trách nhiệm chính trong việc chăm sóc bậc
sinh thành và thờ cúng tổ tiên - bằng nguồn
hoa lợi từ ruộng hương hỏa (Theo qui định của
pháp luật, ruộng hương hỏa chiếm 1/20 tài sản
của gia đình). “<i>Một người con trai, thường là con </i>
<i>trưởng sẽ ở cùng cha mẹ, còn những người con </i>
<i>khác, đặc biệt người đã kết hôn, phải ra xây dựng </i>
<i>hộ riêng và sống cùng vợ con mình</i>” (4, tr.175).


Có một số lý do dẫn đến việc phát triển các
gia đình hạt nhân. Một là, đặc điểm của quy
trình sản xuất lúa nước (ruộng nhỏ, công cụ
thô sơ) không cần đơng người mà phù hợp
với kết cấu gia đình nhỏ (<i>Chồng cày, vợ cấy</i>).
Hai là, các bậc cha mẹ có ý thức tạo lập tài sản
riêng cho từng người con ngay khi mình cịn
sống, tránh sự tranh chấp giữa các con. Khi
lấy vợ, người con trai đuợc chia cho một phần
đất làm nhà ở riêng và còn được làng cấp cho
một phần đất công để cấy cày. Những đứa con
ra ở riêng cũng làm giảm sự liên đới của cha
mẹ khi xảy ra sự cố. “<i>Chính sự sở hữu độc lập </i>
<i>đó khiến cha mẹ được miễn giảm trách nhiệm </i>


làng xã đã được nhiều nghiên cứu nhắc tới
chính bắt nguồn từ thực tế này, “<i>làng phân </i>
<i>chia ruộng đất cho các thành viên theo định kỳ”. </i>
<i>Sang đầu thế kỷ XIX, số ruộng tư đã nhiều gấp </i>
<i>năm số ruộng cơng</i>” (6, tr.33). Lý do thứ ba giải
thích hiện tượng gia đình hạt nhân chiếm tỷ lệ


cao trong làng xã, tìm thấy trong quan điểm
ủng hộ, khuyến khích của chính quyền phong
kiến trung ương. Ở Việt Nam, con cái ra ở riêng
khi cha mẹ cịn sống khơng bị coi là phạm tội
“<i>bất hiếu</i>” như những quy ước của Nho giáo.
“<i>Mặc dầu đã Nho giáo hóa pháp luật, vua Việt </i>
<i>Nam vẫn thận trọng khơng chấp nhận nhũng gì </i>
<i>có thể dẫn tới việc tạo ra những gia đình có thế </i>
<i>lực gây trở ngại cho việc xây dựng và điều hành </i>
<i>chính quyền tập trung. Việc phân chia quyền sở </i>
<i>hữu tài sản và khả năng sống độc lập của con cái </i>
<i>cần phải được hiểu theo quan điểm đó</i>” (4, tr.97).
Tuy nhiên, trước kia, mối quan hệ giữa
những gia đình hạt nhân này với gia đình
gốc - nơi cha mẹ sống cùng vợ chồng người
anh trưởng - vẫn rất mật thiết. Họ sống riêng
nhưng gần kề nhà cha mẹ, họ làm ruộng riêng
nhưng vẫn trong không gian chật hẹp của
làng. Công việc ấy, khoảng cách địa lý ấy giúp
họ dễ dàng thực hiện được các nghĩa vụ của
mình (<i>Sáng viếng, tối thăm</i>). Một khía cạnh nữa
cũng cần lưu ý là vai trị của những người phụ
nữ (con dâu, con gái) trong mối quan hệ với
NCT. Do quan niệm chăm già, chăm trẻ thuộc


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>V</b>

Ă N HÓ

<b>A</b>



nhưng thường xuyên vắng nhà (đi lính, đi phu,
đi học). Vì thế, phạm vi giao tiếp của họ khơng
bị bó hẹp trong khn khổ gia đình chồng.


Hơn nữa, khi xưa, bán kính hơn nhân thường
rất hẹp, việc kết hôn diễn ra trong làng, hoặc
làng trên làng dưới, khơng gây trở ngại gì cho
việc đi lại thăm hỏi. Ca dao cịn có câu:


<i>Có con mà gả chồng gần</i>


<i>Có bát canh cần nó cũng mang cho</i>


Trong trường hợp gia đình khơng có con
trai hoặc con trai ốm đau bệnh tật, phong tục
cộng đồng cũng ủng hộ việc cha mẹ già ở với
vợ chồng người con gái (“<i>Thầy mẹ em khơng có </i>
<i>con trai, kiếm anh rể thảo một mai phụng thờ</i>”).
Cùng với việc sống cùng với cha mẹ đẻ, người
con gái còn có thể được quyền hương hỏa, thờ
phụng tổ tiên.


Như vậy, mặc dù gia đình hạt nhân chiếm
tỷ lệ cao, nhưng ở nông thôn xưa, NCT vẫn ở
cùng và ở gần con cháu, được chúng chăm sóc,
phụng dưỡng. Do điều kiện kinh tế thấp kém
(tự cung, tự cấp), có thể cuộc sống vật chất của
NCT không được đầy đủ, nhưng về mặt tinh
thần, họ thường có được cảm giác an tồn (<i>Tre </i>
<i>đơng, ấm bụi</i>). Hạnh phúc của họ được đo bằng
sự xum họp, quây quần của con cháu.


<i><b>2.2. </b></i>Gia đình Việt Nam hiện nay đang ở giai
đoạn quá độ của quá trình chuyển biến từ gia


đình truyền thống của nền văn minh nơng
nghiệp sang gia đình hiện đại - sản phẩm của
nền văn minh công nghiệp. Một số giá trị tốt
đẹp của truyền thống vẫn được bảo tồn bên
cạnh việc thu nhận những giá trị nhân văn mới
mẻ của nhân loại.


Mơ hình kiểu loại - cấu trúc mang tính
tương đối thuần nhất trước kia đã được thay
bằng <i>sự tồn tại song hành của nhiều kiểu loại - </i>
<i>cấu trúc gia đình.</i> Điều này xuất phát từ tính đa
dạng trong các tiền đề chi phối sự hình thành
gia đình, ví như điều kiện hoạt động kinh tế,
môi trường sinh sống, trình độ học vấn, mức
thu nhập…, đặc biệt là <i>quan niệm của mỗi cá </i>
<i>nhân về hạnh phúc gia đình</i>. Mỗi kiểu loại gia
đình được ví như “<i>một lối đi kiếm tìm hạnh phúc</i>”
(5). Cấu trúc của mỗi kiểu loại gia đình tất yếu
ảnh hưởng tới cuộc sống của người cao tuổi.


Trước hết, ngày càng xuất hiện nhiều kiểu
loại gia đình khác khn mẫu truyền thống. Có
thể kể tới một số kiểu loại như gia đình chọn
khơng sinh con; gia đình sống chung khơng
kết hơn; gia đình ly thân, ly hơn, tái hơn; gia
đình cha/mẹ đơn thân; gia đình đa chủng tộc;
gia đình đồng giới; gia đình ba cha mẹ (đứa
con sinh ra do nhờ người mang thai hộ);...
Trong các loại gia đình này, việc chăm sóc NCT
chắc chắn gặp khơng ít khó khăn bởi vì con cái


họ cũng đang vướng bận đối phó với những
vấn đề của riêng mình.


Tỷ lệ gia đình hạt nhân có xu hướng tăng
lên, nhưng cho đến nay cũng không chênh
lệch quá lớn so với xã hội trước đây. Nguyên
nhân của việc gia tăng cấu trúc này đã được
nêu ra trong nhiều nghiên cứu. Đó là kết quả
của <i>di cư lao động</i>, kèm theo việc kết hôn trên
vùng đất mới (từ nông thôn ra thành thị, từ
vùng miền này sang vùng miền khác, từ trong
nước ra ngoài nước, từ quốc gia này sang
quốc gia khác). <i>Điều kiện làm việc và sinh sống </i>


không cho phép họ mang theo cha mẹ. Mặt
khác, bản thân NCT cũng không muốn đi theo
con, phần vì e ngại những rủi ro, phần vì tình
cảm sâu nặng với quê hương, nơi có mồ mả
ơng bà tổ tiên mà họ cần chăm sóc. <i>Điều kiện </i>
<i>cư trú </i>ở đô thị vốn chật hẹp, trong khi nhu cầu
cần có khơng gian riêng cho từng thành viên,
khiến mơ hình chung sống ba thế hệ trở nên
khó khăn. Ở nơng thơn, tuy khơng gian rộng
rãi hơn, nhưng do chính sách đất đai (mỗi hộ
được sở hữu 120m2<sub> đất ở) nên tỷ lệ tách hộ, </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>V</b>

<b>A</b>



một năm, thậm chí vài năm một lần.



Trong nhóm gia đình hạt nhân hiện nay
cịn xuất hiện ngày càng nhiều loại <i>gia đình </i>
<i>một thế hệ</i>: cặp đôi của người già hoặc người
già góa/độc thân. Họ phải tự lo cho cuộc
sống của mình và chăm sóc lẫn nhau. Nếu
cịn sức khỏe, họ sẽ tham gia các hoạt động
cộng đồng tìm thêm niềm vui cho cuộc sống,
nhưng khi yếu đau, các cuộc giao tiếp hạn
chế, họ sẽ sống trong cảm giác trống trải, cô
đơn. Ở nhiều vùng q, cịn xuất hiện loại <i>gia </i>
<i>đình khuyết thế hệ giữa </i>(do con cái đi làm ăn
xa), ở nhà chỉ có ơng bà và cháu nhỏ - cả hai
đối tượng đều rất dễ tổn thương, cần được đặc
biệt quan tâm. Các bậc ông bà, dù tuổi đã cao
vẫn phải làm trách nhiệm cha mẹ đối với các
cháu. Trong cấu trúc gia đình này, mọi chức
năng đều khó thực hiện, từ việc giáo dục - xã
hội hóa đứa trẻ cho tới chăm sóc sức khỏe thể
chất và tinh thần của người già.


Gia đình ba thế hệ - nơi NCT sống cùng vợ
chồng con trai hoặc con gái - hiện vẫn chiếm
tỷ lệ trên dưới 30%. Loại gia đình này cũng có
hai dạng thức: <i>gia đình nửa hạt nhân</i> - chủ hộ
là con cái, và <i>gia đình mở rộng</i> - chủ hộ là ơng
bà, với những khía cạnh văn hóa riêng (ví dụ
như tiếng nói quyết định trong gia đình). Do
chính sách hạn chế sinh đẻ, xuất hiện nhiều
gia đình chỉ có con gái, nên số lượng <i>cha mẹ </i>
<i>già sống cùng con rể </i>gia tăng. Có tỉ lệ khác biệt


về loại gia đình này giữa các vùng miền. Theo
kết quả khảo sát cách đây hai thập kỷ, nếu ở
Đồng bằng sông Hồng, tỷ lệ chỉ 6,8% thì ở
miền Trung là 16,7%, riêng ở Đồng bằng Nam
bộ lên tới 26,7%. Điều đó được giải thích từ mơ
hình văn hóa chủ đạo ở mỗi vùng miền: ở phía
Bắc in đậm dấu ấn của văn hóa Nho giáo phụ
hệ, cịn ở phía Nam chi phối bởi văn hóa Đơng
Nam Á lưỡng hệ (1, tr.15).


Trước kia, gia đình ba thế hệ được hình
dung như “<i>Cây thấp, tán rộng</i>” thì giờ đây


cá biệt có gia đình tồn tại đồng thời hai lớp
người cao tuổi cần phải chăm sóc. Nhưng số
con, số cháu của mỗi gia đình đều giảm, xuất
hiện nhiều nhà chỉ có một con. Cấu trúc 6/1
cho một ví dụ điển hình: ơng bà nội, ông bà
ngoại, cha mẹ cùng xoay quanh phục vụ một
đứa trẻ. So với gia đình truyền thống, hiện nay
liên hệ chiều dọc (cha mẹ - con cái) giảm đi,
liên hệ chiều ngang tăng lên, nhưng chủ yếu
tập trung vào sự liên kết giữa vợ và chồng. Cịn
trong các gia đình “<i>tán hẹp</i>” này, quan hệ chiều
ngang của đứa trẻ rất hạn chế, thậm chí triệt
tiêu. Gia đình ít người, mọi thành viên đều có
thể được quan tâm, mức sống được nâng cao
hơn, nhưng do không cần chia sẻ nhường nhịn
như trong gia đình đơng anh em, đứa trẻ “<i>con </i>
<i>một</i>” rất dễ trở thành người cô độc hoặc ích


kỷ. Mặt khác, nó phải chịu sức ép khi được coi
là nguồn hỗ trợ duy nhất về vật chất và tinh
thần cho cha mẹ khi già yếu. Người cao tuổi
trong loại gia đình này cũng hạn chế cơ hội lựa
chọn mơ hình sống của mình (trước kia, người
già khơng muốn sống với con này có thể sẽ
chuyển sang ở với con khác).


</div>

<!--links-->

×