Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.08 KB, 10 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
0
<b>Nội dung </b>
Đặc trưng của nhà nước XHCN.
Quy luật phát triển của nhà nước
XHCN – Vấn đề xây dựng nhà nước
pháp quyền.
Chức năng nhà nước XHCN.
Bộ máy nhà nước XHCN.
Hình thức nhà nước XHCN
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
<b>Mục tiêu </b> <b>Hướng dẫn học </b>
Sau khi học bài này, các bạn cần:
So sánh được bản chất của nhà nước
XHCN với các kiểu nhà nước khác.
Trình bày được chức năng, hình thức, bộ
máy của nhà nước XHCN.
Trình bày được đặc trưng, hình thức và
bộ máy của Nhà nước Cộng hòa XHCN
<b>Thời lượng học</b>
6 tiết
Nghe giảng và đọc tài liệu để nắm bắt
các nội dung chính.
Đặt câu hỏi ngay nếu có thắc mắc.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định rằng, cách mạng vô sản và sự ra đời của nhà nước vơ sản là
một tất yếu lịch sử. Tính tất yếu đó được quy định bởi mâu thuẫn nội tại giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản trong lòng chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc đạt đến mức khơng thểđiều hịa
được nữa thì cách mạng vô sản ra đời là một tất yếu lịch sử. Nguyên nhân dẫn đến cách mạng vô
sản và sự ra đời của nhà nước vô sản là các tiền đề kinh tế, chính trị và xã hội, tư tưởng nảy sinh
trong lòng tư bản chủ nghĩa.
<b>Tiền đề kinh tế</b>
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Nhưng lực lượng sản xuất ngày càng phát triển đến một trình độ xã hội hóa cao
ngay trong lịng chủ nghĩa đế quốc thì những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế
độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dưđã trở nên mâu thuẫn, khơng
cịn phù hợp nữa. Mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt, đòi hỏi phải có cách mạng quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và thiết lập nên một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là kiểu quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
<b>Tiền đề chính trị – xã hội </b>
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa biểu hiện về mặt
chính trị – xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Tới giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc, xuất hiện chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước. Nhà nước tư sản đã tham
gia trực tiếp vào một số hoạt động kinh tế, trở thành công cụ trong tay giới tư bản độc
quyền, đã sử dụng nhiều phương pháp phản dân chủđược che đậy dưới các hình thức dân
chủ. Chính điều này dẫn tới bản chất của nhà nước tư sản ngày càng biến đổi, mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trở nên gay gắt.
Mặt khác, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo điều kiện cho giai cấp vô sản phát triển mạnh
về số lượng và tính tổ chức kỷ luật. Lúc này giai cấp vơ sản trở thành tầng lớp tiến bộ
nhất của xã hội, có sứ mệnh dẫn dắt tầng lớp lao động làm cách mạng xóa bỏ nhà nước tư
sản. Phong trào đấu tranh diễn ra mạnh mẽ, nhiều nước đã dành được thắng lợi và lựa
chọn con đường đi lên xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Xô Viết ra đời năm 1917 đã có sức lan
tỏa mạnh mẽ tới nhiều nước và có sức ảnh hưởng lớn tới q trình phát triển của thế giới.
<b>Tiền đề tư tưởng </b>
Giai cấp vơ sản có vũ khí tư tưởng và lý luận sắc bén là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sửđể nhận thức đúng đắn các quy luật vận động và phát triển của xã hội.
Đó là chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây là cơ sở nhận thức lý luận để giai cấp vô sản và tầng lớp lao
động đề ra những chủ trương biện pháp tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng
nhà nước kiểu mới.
Trong tiến trình cách mạng, giai cấp vơ sản và nhân dân lao động sử dụng bạo lực cách mạng
<b>3.1.</b> <b>Đặc trưng của nhà nước XHCN </b>
Nhà nước XHCN được xây dựng trên cơ sở của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, là
công cụđể thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
giai cấp vô sản.
Khác với các kiểu nhà nước trước đây, nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất
giai cấp cơng nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc (giống như
bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa). Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, bản chất của
bất kỳ nhà nước nào trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang bản chất của giai
cấp thống trị xã hội (ví dụ: nhà nước dân chủ chủ nơ, nhà nước quân chủ phong kiến,
nhà nước dân chủ tư sản...). Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa (nhà nước
chun chính vơ sản) do đó trước hết nó mang bản chất giai cấp cơng nhân. Nhưng
giai cấp công nhân lại là giai cấp thuộc nhân dân lao động mà ra, đại biểu phương thức
sản xuất mới, hiện đại, gắn với lợi ích của tồn thể nhân dân lao động và dân tộc.
Dựa vào cơ sở lý luận khoa học của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thểđưa ra những đặc trưng cơ bản
của nhà nước XHCN như sau:
o Có nền sản xuất cơng nghiệp hiện đại:
Chỉ có nền sản xuất cơng nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao,
tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những
nhu cầu về vật chất và văn hóa của nhân dân, khơng ngừng nâng cao phúc lợi
xã hội cho tồn dân. Nền cơng nghiệp hiện đại đó được phát triển dựa trên lực
lượng sản xuất đã phát triển cao.
Ở những nước thực hiện sự quá độ “bỏ qua chếđộ tư bản chủ nghĩa lên chủ
nghĩa xã hội”, trong đó có Việt Nam thì đương nhiên phải có q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa để từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện
đại cho Nhà nước XHCN.
o Thiết lập chếđộ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu:
Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất
của công cuộc cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp cơng nhân. Tuy
nhiên, khơng phải xóa bỏ chếđộ tư hữu nói chung mà là xóa bỏ chếđộ tư hữu
tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ
sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chếđộ
sở hữu này được củng cố, hồn thiện, bảo đảm thích ứng với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, mởđường cho lực lượng sản xuất phát
triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho mọi thành
viên trong xã hội ngày càng gắn bó với nhau vì những lợi ích căn bản.
o Tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới:
o Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động:
Nhà nước XHCN bảo đảm cho mọi người có quyền bình đẳng trong lao động
sáng tạo và hưởng thụ. Mọi người có sức lao động đều có việc làm và được
hưởng thù lao theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Đó là
o Nhà nước mang bản chất giai cấp cơng nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân
tộc sâu sắc:
Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà nước,
Đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực
và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều
vào công việc nhà nước. Đây là một “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự giác,
tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của
chính mình ngày càng rõ hơn.
o Giải phóng con người thốt khỏi áp bức bóc lột, thực hiện cơng bằng, bình đẳng,
tiến bộ xã hội:
Mục tiêu cao nhất của Nhà nước XHCN là giải phóng con người khỏi mọi ách áp
bức về kinh tế và nô dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển tồn diện cá nhân,
hình thành và phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người phát huy
tính tích cực của mình trong cơng cuộc xây dựng Nhà nước XHCN. Nhờ xóa bỏ
chếđộ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa mà xóa bỏ sựđối kháng giai cấp, xóa
bỏ tình trạng người bóc lột người, tình trạng nơ dịch và áp bức dân tộc, thực hiện
được sự cơng bằng, bình đẳng xã hội.
Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của Nhà nước XHCN, do đó, Nhà nước
XHCN là một xã hội tốt đẹp, lý tưởng, ước mơ của toàn thể nhân loại. Những đặc
<b>3.2.</b> <b>Quy luật phát triển của nhà nước XHCN – Vấn </b> <b>đề xây dựng nhà nước </b>
<b>pháp quyền </b>
<b>3.2.1.</b> <b>Khái niệm </b>
Xét về phương diện lịch sử, nhà nước pháp quyền xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc
cổ đại, vào cuối thời Xuân Thu, đầu thời Chiến Quốc với tư tưởng pháp gia. Tư
tưởng chung là dùng pháp luật để trị nước, như theo Hàn Phi Tử, trong pháp luật có
ba đối tượng (chủ thể pháp luật) tham gia: Vua là người đặt ra pháp luật, bề tôi (hệ
thống quan lại) là những người triển khai và giám sát pháp luật, dân cư là những
người tuân thủ pháp luật. Tư tưởng pháp gia đã có ảnh hưởng sâu rộng về phương
diện thực tiễn trong xã hội Trung Quốc đương thời, tuy còn những hạn chế nhất định,
song tư tưởng pháp trị của pháp gia đã tạo tiền đề lý luận cho việc hình thành tư
tưởng về nhà nước pháp quyền của nhân loại về sau.
Tiếp đó là tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong thời kỳ cổ đại, điển hình có
Platon, Aristote, Democrite, Xocrat…
o Theo Platon, trong tác phẩm “nền cộng hòa” xác định rằng, người cầm quyền
pháp luật. Ông cho rằng nhìn thấy sự sụp đổ mau chóng của nhà nước ở nơi nào
mà pháp luật khơng có hiệu lực và nằm dưới quyền lực của một ai đó. Còn ởđâu
luật pháp đứng trên nhà cầm quyền, còn họ chỉ là nơ lệ của luật pháp thì có sự
cứu thoát của nhà nước”.
o Sự sụp đổ của nền dân chủ Athens vào giữa thế kỷ thứ IV trước Công Nguyên đã
tạo cơ sở thực tiễn cho Aristote đi đến những kết luận mới về nhà nước. Ông nêu
lên tư tưởng chia hoạt động nhà nước thành ba thành tố: nghị luận, chấp hành và
xét xử. Ông cho rằng nhà nước là một tổ chức phức tạp, tập hợp những cá thể
khác nhau về chức phận, về tình trạng tài sản, về phẩm chất đạo đức, trình độ học
vấn; khả năng tham gia của công chúng vào công việc nhà nước quy định thể chế
chính trị của nó.
Trong thời kỳ phục hưng, thì điển hình có hai nhà tư tưởng John Locker và Montesqiue.
o Nhà tư tưởng của John Locker (1632 – 1704) căn cứ vào tính chất, cách thức lập
pháp để xác định các kiểu và các hình thức chính quyền nhà nước. Nét đặc trưng
của học thuyết này là việc khởi tạo học thuyết về sự phân chia quyền lực. John
Locker cho rằng khi một cộng đồng quốc gia mới thành lập, hành động đầu tiên
nó cần làm là thiết lập cơ quan quyền lực lập pháp. Cơ quan lập pháp này không
những là quyền lực tối cao của cộng đồng quốc gia mà cịn là quyền lực thiêng
liêng và khơng thể hốn đổi một khi cộng đồng đã đặt nó vào cương vị đó. Để
luật pháp được xã hội giám sát và thực thi một cách hiệu quả, theo Locker cần
thiết phải thành lập một cơ quan nhà nước khác, gọi là hành pháp. Có thể nói,
Locker đã đặt nền móng xây dựng lý thuyết nhà nước pháp quyền, ông đã phác
họa ra những đặc điểm chung của nhà nước pháp quyền.
o Tiếp nối học thuyết của Locker, Montesqiue (1689 – 1755) đã nghiên cứu và đưa
ra lý thuyết phân chia quyền lực. Theo ông, biện pháp hữu hiệu nhằm chống lại
sự lạm dụng quyền lực là phân chia quyền lực nhà nước thành ba quyền riêng
biệt: quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền lập pháp giao cho nghị viện,
quyền hành pháp giao cho chính phủ và quyền tư pháp giao cho tịa án. Có thể
nhận thấy rằng tư tưởng của Montesqiue đã trở thành một trong những nội dung
cơ bản của thuyết tam quyền phân lập trong nhà nước pháp quyền tư sản truyền
thống và hiện đại.
Người kế thừa Montesquieu là Rousseau (1712 – 1788). Ông đã bổ sung học thuyết
về nhà nước pháp quyền tư sản những quan điểm lý luận mới và sâu sắc hơn. Theo
ông, để cho xã hội tồn tại và phát triển, mọi công dân thực hiện một bản cam kết hay
khếước ủy quyền cho các đại biểu trong bộ máy nhà nước. Và khi nhà nước không
thực hiện hành vi “khếước xã hội” nhưđã thỏa thuận thì nhân dân có quyền thay thế
bằng nhà nước mới.
đích hay phương tiện sống của mình, thậm chí cá nhân khơng thể trở thành vật hy
sinh vì phúc lợi chung của tồn xã hội. Với quan niệm này, ông cho rằng, nhà nước
pháp quyền khơng là gì khác như một cộng đồng pháp lý, do vậy nó phải đảm đương
trách nhiệm ngăn chặn sự chun quyền độc đốn. Để hồn thành nhiệm vụ cao cả
này thì bộ máy nhà nước cần có sự phân chia quyền lực: quyền lập pháp, quyền hành
pháp, quyền tư pháp.
Quan điểm về nhà nước pháp quyền của Kant đã tạo tiền đề cho sự hình thành tư
tưởng nhà nước pháp quyền của Hegel (1770 – 1831). Khác với tư tưởng của các nhà
khai sáng giải thích nguồn gốc nhà nước từ quan điểm “khế ước xã hội”, Hegel
Bằng nhiều cách lý giải khác nhau, tuy còn nhiều điểm hạn chế do lập trường giai
cấp, trình độ nhận thức và hoàn cảnh lịch sử quy định, song tư tưởng về nhà nước
pháp quyền trong triết học trước Mác đã phần nào phản ánh được nguyện vọng và ý
chí của nhân loại tiến bộ về một xã hội mà tất cả mọi người chung sống trong cảnh tự
do bình đẳng bác ái.
Trong học thuyết Mác-Lênin, thuật ngữ nhà nước pháp quyền có ý nghĩa đầy đủ
nhất. Tư tưởng nổi bật nhất về nhà nước pháp quyền của Mác chính là chế độ dân
chủ mới – dân chủ vơ sản, đó là dân chủ “do nhân dân tự quy định”, là bước chuyển
từ “nhân dân của nhà nước” sang “nhà nước của nhân dân”, là chế độ dân chủ xuất
phát từ con người và pháp luật. Đặc biệt tư tưởng của Mác về nhà nước kiểu mới –
nhà nước chuyên chính vơ sản, nhà nước dân chủ cao nhất, triệt để nhất. Những tư
tưởng cốt lõi đó đã được Lênin vận dụng và làm rõ hơn khi người lãnh đạo nhân dân
Xô Viết xây dựng nên pháp luật kiểu mới, nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước pháp quyền là công cụ để phục vụ xã hội, tồn tại để mang lại lợi ích cho
cơng dân, bảo vệ tự do cá nhân và công bằng xã hội. Nhà nước này được tổ chức và
chức, hoạt động trên cơ sở quyền nhân dân, sự phân chia quyền lực nhà nước, hệ
<b>3.2.2.</b> <b>Các đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền </b>
Những đặc trưng của nhà nước pháp quyền đã được đề cập trong nhiều quan điểm, học
thuyết của các nhà tư tưởng, các nhà lý luận chính trị – pháp lý trong lịch sử phát triển.
Cách trình bày của các học thuyết có thể khác nhau, song về bản chất có thể khái quát
các đặc trưng của nhà nước pháp quyền như sau:
Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chếđộ dân chủ
o Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề của
chếđộ nhà nước.
o Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm
bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân.
o Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình thơng qua dân chủ trực tiếp; dân chủ
đại diện.
Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật
o Hiến pháp và pháp luật ln giữ vai trị điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ hoạt
động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp của
mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
o Nhưng không phải mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể đưa
lại khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống
pháp luật dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp luật trong
nhà nước và xã hội.
Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người trong mọi lĩnh
vực hoạt động của Nhà nước và xã hội
o Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước. Mọi
hoạt động của nhà nước đều xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con
người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng các
quy định của luật pháp.
o Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương diện
luật pháp và mang tính bình đẳng. Mơ hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân
được xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước chỉđược làm những gì
luật cho phép; đối với cơng dân được làm tất cả trừ những điều luật cấm.
Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và thực hiện theo các
nguyên tắc dân chủ: phân cơng quyền lực và kiểm sốt quyền lực
o Tính chất và cách thức phân cơng, kiểm sốt quyền lực nhà nước rất đa dạng, tùy
thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau. Nhưng đều có điểm chung là
quyền lực nhà nước khơng thể tập trung vào một người, vào một cơ quan mà phải
Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật phù hợp
o Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật dân
chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là một
yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật được
coi trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh.
o Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có thểđa
dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao,
quyền bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy
định của Hiến pháp, không phụ thuộc vào chủ thể của các hành vi này.
o Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà nước pháp quyền ln địi hỏi phải xây
dựng và thực thi một chếđộ tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch và trong sạch để
duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn trong các mối
quan hệ: Nhà nước và kinh tế, Nhà nước và xã hội
o Trong mối quan hệ giữa nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các mơ hình kinh tế thị
trường, theo hướng nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan của thị
trường, thông qua thị trường để điều tiết các quan hệ kinh tế, đồng thời khắc
phục, hạn chế các mặt tiêu cực của thị trường.
o Trong mối quan hệ với xã hội, nhà nước thông qua luật pháp để quản lý xã hội,
tơn trọng đề cao vị trí, vai trò và quyền tự chủ của các cấu trúc xã hội (các tổ
chức xã hội, các cộng đồng xã hội).
o Mối quan hệ giữa nhà nước, kinh tế, xã hội là mối quan hệ tương tác, quy định và
chi phối lẫn nhau. Nhà nước không đứng trên kinh tế và xã hội. Nhà nước pháp
quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và xã hội trong phạm vi
Hiến pháp và pháp luật.
<b>Nghiên cứu tình huống: </b>
<b>Bàn về “nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” </b>
Khái niệm “nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa” đã được Đảng ta chính thức sử dụng
tại Nghị quyết số 48 – NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020, trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN. Ở đây, giữa nguyên tắc pháp quyền XHCN với nguyên tắc pháp chế XHCN có điểm
gì khác biệt?
Nhà nước pháp quyền có nội hàm rộng hơn, phong phú hơn, được thể hiện và nhận diện
trên nhiều phương diện khác nhau. Cũng có những quan điểm cho rằng trong nhiều thập
kỷ, như các hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa khác, Việt Nam chỉ quan tâm đến yêu cầu
và các nguyên tắc của pháp chế mà chưa chú trọng đến pháp quyền. Tuy pháp quyền và
pháp chếđều những triết lý pháp luật đề cao vai trị pháp luật nhưng chúng lại có cơ chế
điều chỉnh khác nhau.
<b> Pháp chế</b> <b>Pháp quyền </b>
Pháp luật là công cụ của nhà nước để quản lý
xã hội bằng pháp luật
Pháp luật là công cụ của công dân để kiểm tra,
giám sát công quyền
Pháp luật khởi nguồn từ nhà nước nên chỉ chấp
nhận luật thành văn
Pháp luật khởi nguồn từ luật tự nhiên nên
ngoài luật thành văn, án lệ, tập quán, công lý,
lương tâm, đạo đức và các giá trị xã hội cũng
được coi là nguồn của pháp quyền
Kỷ luật thép, buộc người dân phải tuân theo
pháp luật của nhà nước
Cho phép người dân viện dẫn đến lẽ phải, lý trí
để bảo vệ mình trước những đạo luật bất hợp
lý của Nhà nước
Tuy nhiên, về cơ bản, các quan điểm có ảnh hưởng trong nền khoa học pháp lý Việt Nam
đều cho rằng học thuyết về pháp chế XHCN là sự kế thừa và phát triển các tư tưởng tiến
bộ trước đó về nhà nước và pháp luật. Vì vậy, định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt Nam là không thể tách rời lý luận Mác-Lênin về pháp chế XHCN.
Các cơ quan cơng quyền có trách nhiệm áp dụng pháp luật một cách nhất qn, bình đẳng
và khơng thiên vị. Ngun tắc pháp quyền XHCN cũng đòi hỏi phải xây dựng hệ thống
pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai và minh bạch. Hệ thống pháp luật này
phải đáp ứng được những yêu cầu khách quan của xã hội, đồng thời cũng phải thể hiện
các giá trị tiến bộ xã hội như tự do, nhân đạo, công bằng, bảo đảm và bảo vệ các quyền
con người. Dưới ánh sáng của nguyên tắc pháp quyền, một đạo luật sẽ mất đi tính pháp
quyền nếu nó không phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật, không thể hiện
được các giá trị cao cả như lương tri, tự do, bình đẳng, cơng bằng, không phù hợp với tiến
bộ xã hội và các giá trị nhân văn của xã hội nói chung. Ngồi ra, nguyên tắc pháp quyền
XHCN cũng đòi hỏi sự liêm chính trong q trình xét xử, các ngun tắc tố tụng phải chặt
chẽ và hợp lý để tìm ra sự thật. Các cơ quan tư pháp phải thực sự là chỗ dựa của nhân
dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ
pháp luật và pháp chế XHCN, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm.
<b>Một vài kiến nghị thay cho lời kết </b>
Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại; chính trị – xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương và đồng thuận, Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XI đã tiếp tục khẳng định quyết tâm đẩy mạnh xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN, hoàn thiện các thể chế nhằm bảo đảm và phát huy các quyền con
người, quyền công dân, chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người, trong đó,
nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống
chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Trong bối cảnh đó, lý luận
Lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam đã thực sự tìm được mảnh đất để nảy
mầm, phát triển khi nước ta thực hiện chính sách đổi mới, đẩy mạnh tiến trình dân chủ
hố, đổi mới tư duy kinh tế, tư duy pháp lý. Cùng với lý luận nghiên cứu về Nhà nước pháp
quyền XHCN, nguyên tắc pháp quyền XHCN đã được ghi nhận trong các văn bản chính
thức của Đảng và Nhà nước, đã từng bước thấm vào nhận thức và quá trình hoạt động
của bộ máy nhà nước và tồn thể xã hội. Tuy nhiên, để có thể trở thành một hệ thống lý
luận khoa học, một học thuyết mang tính tồn diện giúp tìm hiểu và tiếp cận tri thức cũng
như chân lý khoa học, những nội dung cơ bản của các khái niệm trong hệ thống lý luận,
học thuyết về pháp quyền XHCN nói chung, nguyên tắc pháp quyền XHCN nói riêng, cần
được nghiên cứu, làm rõ, để từđó đưa đến sự nhận thức thống nhất. Sự thống nhất này
chính là điều kiện tiên quyết cho việc nhận thức và tạo dựng sự đồng thuận chung trong
toàn xã hội, tạo ra sự nhất trí, sức mạnh tổng hợp, ý chí đồn kết hoàn thành mục tiêu xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
Nguồn:
<b>3.3.</b> <b>Chức năng nhà nước XHCN </b>
<b>3.3.1.</b> <b>Các chức năng đối nội </b>
<b>Chức năng bảo đảm ổn định chính trị, an ninh, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền </b>
<b>và lợi ích cơ bản của công dân. </b>