Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Một số vấn đề về đào tạo theo hệ thống tín chỉ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.76 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

TẠP CHÍ ĐẠI HỌC SÀI GỊN Số 8 - Tháng 2/2012


<b>MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ</b>

<i><b> </b></i>



<b> ĐÀO NGỌC CẢNH (*)</b>


<b>TRỊNH DUY ỐNH (**)</b>


TĨM TẮT


<i>Đào tạo theo hệ thống tín chỉ là một phương thức đào tạo tiên tiến trên thế giới. Ở Việt </i>
<i>Nam, phương thức đào tạo này đang được thử nghiệm ở nhiều trường đại học. Bài viết </i>
<i>nhằm đề cập đến một số vấn đề về đào tạo theo tín chỉ: đặc điểm của đào tạo theo tín chỉ, </i>
<i>những ưu điểm và hạn chế theo hệ thống tín chỉ, thực trạng và giải pháp để thực hiện </i>
<i>thành cơng phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở các trường đại học Việt Nam. Các </i>
<i>số liệu nghiên cứu được thu thập từ 500 sinh viên (SV). Ngồi ra, chúng tơi cũng tham </i>
<i>khảo ý kiến và kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu và giảng dạy tại một số trường </i>
<i>đại học khác. </i>


ABSTRAST


<i>Training by credit-based system is a progressive mode of training in the world. In </i>
<i>Vietnam, this training mode has been experimend at a lot of universities. The report aims </i>
<i>to deal with some features of training by credit-based system: its characteristics, its </i>
<i>advantages and disadvantages, and the situations and solutions to fulfill successfully this </i>
<i>training mode at universities in Vietnam. The research data were collected from 500 </i>
<i>students. In addition, we also refer to the opinions and the research rerults of some </i>
<i>specialists and lecturers who are working at some universities. </i>


1. MỞ ĐẦU (*)



(**)


Đào tạo theo hệ thống tín chỉ (TC), cịn
gọi là học chế TC, là một phương thức đào
tạo tiên tiến trong hệ thống giáo dục đại
học trên thế giới. Phương thức đào tạo này
ra đời từ năm 1872 tại Đại học Harvard
(Hoa Kì). Tiếp sau đó, hệ thống đào tạo
này đã được áp dụng ngày càng rộng rãi tại
nhiều nước trên thế giới như các nước Bắc
Mĩ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản,
Philippin, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan,
Malaisia, Indonesia, Ấn Độ, Senegal,
Mozambic, Nigeria, Uganda, Camơrun,
Trung Quốc, v.v….


Ở Việt Nam, Nghị quyết của Chính
phủ số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về


(*)


TS, Trường Đại học Cần Thơ


(**)<sub> TS, Trường Đại học Sài Gòn </sub>


Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại
học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 đã nêu
rõ: "<i>Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển </i>



<i>sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ, </i>
<i>tạo điều kiện thuận lợi để người học tích </i>
<i>luỹ kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên </i>
<i>thơng, chuyển tiếp tới các cấp học tiếp theo </i>
<i>ở trong nước và ở nước ngoài</i>".


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

những vấn đề đặt ra.


2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG TÍN CHỈ
Đào tạo theo hệ thống TC có những
khác biệt căn bản với đào tạo theo niên
chế. Hệ thống TC cho phép SV đạt được
văn bằng đại học qua việc tích luỹ các loại
tri thức giáo dục khác nhau được đo lường
bằng một đơn vị xác định, gọi là TC
(credit).


Theo Quy chế 43: <i>“Một TC được quy </i>
<i>định bằng 15 tiết học lí thuyết; 30-45 tiết </i>
<i>thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; </i>
<i>45-90 giờ thực tập tại cở sở; 45-60 giờ làm </i>
<i>tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá </i>
<i>luận tốt nghiệp. </i>


<i>Đối với những học phần lí thuyết hoặc </i>
<i>thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được </i>
<i>một TC, SV phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn </i>
<i>bị cá nhân”. </i>


Trong hệ thống TC, chương trình đào


tạo mềm dẻo và có tính liên thơng cao.
Chương trình đào tạo bao gồm hai loại học
phần: Học phần bắt buộc là học phần chứa
đựng những nội dung kiến thức chính yếu
của mỗi chương trình, bắt buộc SV phải


tích luỹ. Học phần tự chọn là học phần
chứa đựng những nội dung kiến thức cần
thiết, nhưng SV được tự chọn theo hướng
dẫn của trường nhằm đa dạng hoá hướng
chuyên môn.


Trong hệ thống này, kiến thức được
cấu trúc thành các mô - đun (học phần).
Học phần là khối lượng kiến thức tương
đối trọn vẹn, thuận tiện cho SV tích luỹ
trong quá trình học tập. Thường thì một
học phần có khối lượng từ 2 đến 4 TC.


Khi tổ chức giảng dạy theo TC, đầu
mỗi học kì, SV được lựa chọn và đăng kí
các học phần thích hợp với năng lực và
hoàn cảnh của họ nhằm đạt được kiến thức
theo một chương trình đào tạo nào đó. Nhà
trường căn cứ vào nhu cầu của SV để bố trí
giảng viên và sắp xếp thời khoá biểu cho
các lớp học phần.


Trong đào tạo theo hệ thống TC, kết
quả học tập của SV được đánh giá theo quá


trình, khác với đào tạo theo niên chế chỉ
đánh giá qua kì thi hết môn. Thang điểm để
đánh giá kết quả học tập của SV sử dụng
thang điểm chữ A, B, C, D (hay thang
điểm bốn).


<i><b>Bảng 1. Thang điểm bốn </b></i>


Điểm chữ A, B, C Điểm số Xếp loại Quy sang thang điểm 10


A 4 Giỏi 8,5 - 10


B 3 Khá 7,0 - 8,4


C 2 Trung bình 5,5 - 6,9


D 1 Trung bình yếu 4,0 - 5,4


F 0 Kém Dưới 4,0


<i>Nguồn: Tổng hợp theo Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ </i>
<i>thống TC </i>


Bản chất của phương thức đào tạo theo
hệ thống TC là cá thể hoá việc học tập của
người học. Điều này được các nhà nghiên
cứu gọi là nguyên lí “tiệc buffet”, tức là SV
được tự chọn các học phần để học trong
mỗi học kì, mỗi năm học. Cách tổ chức



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

ĐÀO NGỌC CẢNH - TRỊNH DUY OÁNH
3. NHỮNG ƯU THẾ CỦA ĐÀO TẠO


THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ


Trong đào tạo theo hệ thống TC, kết
quả học tập của SV được tính theo quá
trình tích luỹ từng học phần chứ không
phải theo năm học, do đó việc hỏng một
học phần nào đó khơng cản trở q trình
học tiếp tục, SV chỉ học lại các học phần
không đạt yêu cầu mà không phải ở lại lớp
như trong đào tạo theo niên chế. Vì vậy,
đào tạo theo đào tạo theo hệ thống TC có
chi phí thấp và hiệu quả cao hơn.


Đào tạo theo hệ thống TC tạo điều kiện
cho SV năng động hơn và có khả năng
thích ứng tốt hơn những biến đổi nhanh
chóng của cuộc sống xã hội hiện đại. Nếu
như trong đào tạo theo niên chế, SV hoàn
toàn thụ động tuân thủ kế hoạch học tập
của nhà trường, thì trong đào tạo theo TC
đòi hỏi SV phải chủ động xây dựng cho
mình một kế hoạch học tập thích hợp, có
hiệu quả cao nhất cho bản thân.


Đào tạo theo hệ thống TC cung cấp cho
các trường đại học một ngôn ngữ chung,
tạo thuận lợi cho SV khi cần chuyển trường


cả trong nước cũng như ngoài nước. Nếu
triển khai đào tạo theo hệ thống TC các
trường đại học lớn đa lĩnh vực có thể tổ
chức những mơn học chung cho SV nhiều
trường, nhiều khoa, tránh các môn học
trùng lặp ở nhiều nơi; ngoài ra SV có thể
học những mơn học lựa chọn ở các khoa
khác nhau. Cách tổ chức nói trên cho phép
sử dụng được đội ngũ giảng viên giỏi nhất
và phương tiện tốt nhất cho từng môn học.


Đào tạo theo TC tạo ra một loại hình
lớp học mới gọi là “lớp học phần”, tức là
lớp học tập hợp các SV đăng kí học chung
một học phần. Lớp học phần sẽ bao gồm
SV nhiều khoá học và nhiều ngành học
khác nhau. Đây là cơ hội tốt cho SV giao


lưu, học hỏi lẫn nhau và mở rộng các mối
quan hệ xã hội. Qua khảo sát của chúng tôi
về cơ hội giao lưu học hỏi giữa các khoá
học, ngành học trong đào tạo theo TC thì
có tới 33,8% đồng ý ở mức độ trung bình;
36,2% đồng ý ở mức độ cao; 16,1% đồng ý
ở mức độ rất cao.


Với đào tạo theo hệ thống TC, các
trường đại học có thể mở thêm ngành học
mới một cách dễ dàng khi nhận được tín
hiệu về nhu cầu của thị trường lao động và


tình hình lựa chọn ngành nghề của SV.
Đào tạo theo hệ thống TC cho phép ghi
nhận cả những kiến thức và khả năng tích
luỹ được ngồi trường lớp để dẫn tới văn
bằng, khuyến khích SV từ nhiều nguồn gốc
khác nhau có thể tham gia học đại học một
cách thuận lợi. Về phương diện này có thể
nói đào tạo theo hệ thống TC là một trong
những công cụ quan trọng để chuyển từ
nền đại học mang tính tinh hoa thành nền
đại học mang tính đại chúng.


Kết hợp với đào tạo theo hệ thống TC,
nếu trường đại học tổ chức thêm những kì
thi đánh giá kiến thức và kĩ năng của người
học tích luỹ được bên ngoài nhà trường
hoặc bằng con đường tự học để cấp cho họ
một TC tương đương, thì sẽ tạo thêm cơ
hội cho họ đạt văn bằng đại học. Ở Mĩ, trên
một nghìn trường đại học chấp nhận cung
cấp TC cho những kiến thức và kĩ năng mà
người học đã tích luỹ được ngồi nhà
trường (Lâm Quang Thiệp, 2006).


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i><b>Bảng 2. Ý kiến SV về những khó khăn trong đào tạo theo hệ thống TC </b></i>


<i>Đơn vị tính: % </i>


Tiêu chí
Mức độ



Tổ chức
điều hành


rất phức
tạp


Nhiều tình
huống bất


thường


Kiến
thức bị


chia
cắt


Khó tổ
chức


sinh
hoạt


Khó đổi
lịch, bù


giờ


Mất nhiều


thời gian cho


các thủ tục


Rất thấp 3.2 1.8 5.8 3.2 4.0 1.8


Thấp 19.6 11.0 23.2 13.0 6.4 9.4


Trung bình 36.8 31.0 33.0 18.6 27.1 28.5


Cao 27.0 37.6 28.2 39.9 36.3 34.3


Rất cao 13.4 18.6 9.8 25.3 26.1 26.1


Tổng 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0


<i>Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp năm 2011 </i>


Khó khăn thường được đề cập đến là
công tác điều hành quản lí trong đào tạo
theo TC rất phức tạp. Nếu như trong đào
tạo theo niên chế, SV học theo một kế
hoạch chung theo sự sắp xếp của nhà
trường, thì trong đào tạo theo TC, mỗi SV
có một kế hoạch học tập riêng nên việc tổ
chức điều hành quản lí đào tạo rất phức tạp.
SV phải mất nhiều thời gian để lập kế
hoạch học tập, đăng kí học phần, điều chỉnh
kế hoạch và đăng kí bổ sung. Do những hạn
chế về nguồn lực: giáo viên, phòng học,


quỹ thời gian, v.v… mà nhìn chung, các
trường đại học vẫn chưa thật sự đảm bảo
đáp ứng nhu cầu của người học. Mặc dù
hiện nay có sự hỗ trợ của hệ thống phần
mềm trên mạng máy tính, nhưng trên thực
tế SV vẫn phải chờ đợi, chen lấn nhau trong
sử dụng máy tính để đăng kí học phần.


Nhìn chung, nhận thức và kĩ năng của
SV về đào tạo theo hệ thống TC còn nhiều
hạn chế. TS Trần Văn Dũng, Trường Đại
học Tây Nguyên, cho biết trường này áp
dụng đào tạo TC từ năm 2009 nhưng gặp
trở ngại là SV không quen làm việc độc
lập, vẫn giữ tư duy dựa vào đội ngũ cố vấn
học tập, đội ngũ cán bộ lớp để nắm bắt
thông tin của nhà trường, vì vậy mà nhiều
SV phàn nàn là không biết trường tổ chức


những môn học nào, kế hoạch học tập ra
sao (Trần Văn Dũng, 2010).


Đào tạo theo hệ thống TC làm cho việc
tổ chức sinh hoạt lớp, sinh hoạt chi đoàn
gặp nhiều khó khăn do khó gắn kết SV,
khó bố trí lịch sinh hoạt vì mỗi SV đều có
một thời khố biểu riêng. Mặt khác, việc tổ
chức cho SV đi thực tập, thực tế cũng gặp
nhiều trở ngại vì các học phần SV đăng kí
học rất khác nhau nên nếu SV đi thực tập,


thực tế thì phải nghỉ học các học phần
khác. Ngồi ra, một khó khăn khơng nhỏ là
trong đào tạo theo TC rất khó bù giờ, đổi
lịch vì mỗi SV có một thời khố biểu riêng
nên đổi sang học buổi khác thì SV này
chấp nhận SV khác lại khơng chấp nhận (vì
bận học mơn khác).


Đào tạo theo hệ thống TC đòi hỏi giảm
thời gian lên lớp, tăng thời gian tự học, tự
nghiên cứu của SV. Với đặc trưng này, SV
sẽ có thời gian tự chủ nhiều hơn. Đây là cơ
hội cho SV có thể học hai ngành song
song, học thêm ngoại ngữ, tin học hoặc đi
làm thêm. Tuy nhiên, đặc điểm này cũng
có thể dẫn đến tình trạng SV không sử
dụng tốt thời gian ngoài giờ lên lớp và chất
lượng học tập kém.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

ĐÀO NGỌC CẢNH - TRỊNH DUY OÁNH
lớp, số ý kiến SV cho rằng chỉ cần 1 giờ tự


học là 8,8%; số ý kiến cho rằng cần 2 giờ
tự học ở nhà là 45,9%; số ý kiến cho rằng
cần dành 3 giờ tự học là 29,8%; số ý kiến
cho rằng cần 4 giờ tự học là 11,5%, số ý
kiến đề nghị từ 5 giờ tự học trở lên là 4%.


Về thời gian SV dành cho tự học mỗi
ngày thì tỉ lệ SV sử dụng trên 6 giờ là


0,2%; từ 5-6 giờ tự học là 5,5%; từ 4-5 giờ
tự học là 12,6%; từ 3-4 giờ tự học là
48,0%; từ 1-2 giờ tự học là 30,0%; dưới 1
giờ tự học là 3,8%. Như vậy, hầu hết SV
vẫn sử dụng thời gian tự học, tự nghiên cứu
dưới mức quy định.


Về nơi tự học của SV, phần lớn các ý
kiến cho rằng nơi tự học thích hợp là ở nhà
của gia đình hoặc ở nhà trọ, ở kí túc xá
(91,1%). Ngồi ra, một số nơi tự học được
SV lựa chọn là ở giảng đường, phòng học
của trường (80,5%); tại thư viện (84,0%);
tại nhà sách, phịng máy tính hoặc nhà bạn
bè (70,0%). Những nơi khác được lựa chọn
ít hơn như: tại công viên (33,0%); tại quán
cà phê - Internet (39,6%),.


Một vấn đề đặt ra là phải tích cực đổi
mới phương pháp dạy học trong đào tạo


theo TC. Nếu khơng thì có thể xảy ra nguy
cơ là đào tạo theo TC có chất lượng kém
hơn đào tạo theo niên chế (bởi vì thời gian
lên lớp trong đào tạo theo TC ít hơn đào
tạo theo niên chế). Nguyên lí của đào tạo
theo hệ thống TC cho thấy: Nhiệm vụ
chính của nhà trường đại học không phải là
cung cấp kiến thức, mà là trang bị cho SV
phương pháp học tập, phương pháp tư duy,


phương pháp nghiên cứu. Đây chính là sự
thay đổi căn bản về cách dạy và cách học
mà đào tạo theo TC cần hướng tới.


Theo khảo sát của chúng tôi về nguyên
nhân chưa áp dụng rộng rãi các phương
pháp dạy học tích cực trong đào tạo theo
TC, các ý kiến trả lời tính theo mức độ
đồng ý từ trung bình đến cao và rất cao là:
do lớp quá đông nên khó áp dụng các
phương pháp này (93,5%); do SV thụ
động, ít phát biểu ý kiến (91,2%); do GV
chưa khuyến khích sự tích cực trong học
tập (86,8%); do không đủ thời gian
(90,5%); do SV ít tìm tịi thơng tin
(85,1%)… Ngoài ra, các ý kiến còn cho
rằng do bàn ghế chưa phù hợp để áp dụng
phương pháp dạy học tích cực (59,7%).


<i><b>Bảng 3: Nguyên nhân chưa áp dụng phương pháp dạy học tích cực trong đào tạo </b></i>
<i><b>theo TC </b></i>


<i>Đơn vị tính: % </i>


Tiêu chí
Mức độ


Lớp
q
đơng



SV thụ
động, ít
phát biểu


GV chưa
khuyến
khích SV


Thời gian
khơng đủ


SV ít tìm
tịi thơng


tin


Bàn ghế
khơng
thích hợp


Rất thấp 1.0 1.7 2.5 1.0 3.2 10.5


Thấp 5.4 7.1 10.7 8.4 11.8 19.9


Trung bình 16.9 22.6 32.9 30.5 31.4 29.5


Cao 31.6 38.8 35.0 36.6 35.2 26.8


Rất cao 45.0 29.8 18.9 23.4 18.5 13.4



Tổng 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0


<i>Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp năm 2011 </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

đào tạo tùy khả năng và điều kiện của bản
thân SV. Theo đó có thể cho phép SV rút
ngắn thời gian đào tạo. Nhờ vậy, không
những SV và gia đình họ tiết kiệm được
thời gian, chi phí cho bản thân, mà cịn đem
lại nhiều lợi ích đối với nhà trường và xã
hội. Tuy nhiên, trên thực tế, do mỗi SV có
một kế hoạch học tập khác nhau nên có thể
xảy ra tình trạng bị trùng thời khoá biểu
giữa một số học phần nên SV buộc phải
giảm bớt số học phần hoặc phải điều chỉnh
kế hoạch học tập để chuyển sang học học
phần khác. Điều này cũng làm cho SV khó
rút ngắn thời gian đào tạo. Mặt khác, việc
tổ chức thực tập thực tế ngoài trường cũng
dẫn đến tình trạng SV đã hoàn thành các
học phần lí thuyết nhưng vẫn khơng đủ điều
kiện tốt nghiệp vì phải chờ để đi thực tập.


Tóm lại, việc triển khai đào tạo theo hệ
thống TC ở các trường đại học hiện nay
gặp khơng ít khó khăn và trở ngại. Nhìn
chung, khó khăn chính là do nhà trường
chưa có đủ nguồn lực để đáp ứng nhu cầu
đào tạo của SV.



5. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN
THIỆN ĐÀO TẠO THEO HỆ
THỐNG TÍN CHỈ


Từ thực trạng triển khai đào tạo theo
hệ thống TC nêu trên, chúng tôi xin đề xuất
một số giải pháp để hoàn thiện hơn việc
đào tạo theo TC như sau:


<i><b>5.1. Bổ sung, hoàn thiện các quy định </b></i>
<i><b>về đào tạo theo hệ thống TC </b></i>


Mặc dù, hiện nay nhiều trường đang áp
dụng hệ thống TC nhưng vẫn còn mang
tính thử nghiệm. Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã ban hành Quy chế 43 về đào tạo theo hệ
thống TC nhưng chưa có tổng kết, bổ sung,
hồn chỉnh. Vì vậy, các trường cần chủ
động rà soát các văn bản liên quan và kiến
nghị Bộ sửa đổi, bổ sung để hồn thiện cơ
sở pháp lí cho hệ thống đào tạo này.


<i><b>5.2. Nâng cao nhận thức của SV về </b></i>
<i><b>hệ thống TC </b></i>


Như trên đã nêu, đào tạo theo hệ thống
TC dựa trên cơ sở phát huy tính tích cực,
chủ động của SV. Thực trạng chung là SV
vẫn lúng túng và thụ động. Theo khảo sát


của chúng tơi, tình trạng SV khơng nắm
được quy trình, thủ tục trong đào tạo theo
TC theo 5 mức độ như sau: mức độ rất thấp
1,3%; mức độ thấp 4,6%; mức độ trung
bình 27,3%; mức độ cao 47,0%; mức độ
rất cao 19,8%. Tình trạng trên cho thấy cần
nâng cao nhận thức và tăng cường tư vấn
cho SV qua cố vấn học tập.


<i><b>5.3. Xây dựng các “kế hoạch khung” </b></i>
<i><b>để SV tham khảo khi lập kế hoạch học tập </b></i>


Chúng tôi cho rằng mỗi ngành học nên
thiết kế một số “kế hoạch khung” có tính
chất gợi ý để SV tham khảo khi lập kế
hoạch học tập của mình. Các kế hoạch
khung này có thể bao gồm một số phương
án: học đúng tiến độ, học vượt tiến độ, học
trễ tiến độ để SV cân nhắc, lựa chọn.


<i><b>5.4. Tăng cường cung cấp thông tin </b></i>
<i><b>để SV chủ động trong quá trình đào tạo </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

ĐÀO NGỌC CẢNH - TRỊNH DUY OÁNH


<b>5.5. Tăng cường sinh hoạt chuyên môn, </b>
<b>học thuật về đào tạo theo hệ thống TC </b>


Việc thực hiện đào tạo theo TC chỉ có
hiệu quả khi giảng viên thay đổi quan điểm


và phương pháp dạy học. Hiện nay nhiều
giảng viên đang bối rối với việc đổi mới
phương pháp giảng dạy lấy người học là
trung tâm - yêu cầu bắt buộc trong đào tạo
TC. Giảng viên Vũ Đình Bảy, Trường Đại
học Huế, nêu những khó khăn đến từ phía
nhiều giảng viên như dạy theo quán tính cũ
với các phương pháp dạy học truyền thống;
chưa tiếp cận với phương pháp dạy học
tích cực phù hợp với đặc trưng từng bộ
môn; một số lạm dụng và lệ thuộc quá
nhiều vào phương tiện dạy học hiện đại
nhưng không mang lại hiệu quả thực chất
trong giảng dạy (Vũ Đình Bảy, 2010).


Như vậy, các trường, các khoa cần đẩy
mạnh các hội thảo, trao đổi chuyên đề về
đào tạo theo hệ thống TC. Thơng qua các
hoạt động này thì giảng viên sẽ hiểu rõ hơn
về đào tạo theo TC và sẽ chủ động thay đổi
phương pháp dạy học theo TC cho phù hợp
và có hiệu quả.


<i><b>5.6. Thay đổi quan niệm và phương </b></i>
<i><b>pháp học tập của SV </b></i>


Trong cơng trình nghiên cứu về thực
trạng học tập theo TC tại Trường ĐH Sư
phạm Hà Nội của PGS.TS Nguyễn Cơng
Khanh, có tới hơn 54% SV được hỏi cho rằng


khơng có hứng thú học tập, 64% cho rằng
chưa tìm được phương pháp học phù hợp
(Dẫn theo Vũ Đình Bảy, 2010). Khảo sát của
chúng tôi ở trên cũng cho thấy hiện nay SV
sử dụng thời gian cho tự học rất ít, SV vẫn
cịn thói quen thầy dạy gì thì học nấy.


Vì vậy, cần tạo cho SV phong cách học
tập mới: thầy giới thiệu sách và ra u cầu
cịn SV phải tự tìm sách, tự nghiên cứu để
nắm kiến thức. Có như vậy, kiến thức mà
SV tiếp thu được sẽ khơng mang tính giáo


điều, khơng bị lạc hậu trước sự bùng nổ
thơng tin và sự phát triển nhanh chóng của
thời đại.


<i><b>5.7. Đổi mới hệ thống điều hành, </b></i>
<i><b>quản lí đào tạo </b></i>


Đào tạo theo hệ thống TC đòi hỏi hệ
thống điều hành quản lí đào tạo phải thay
đổi căn bản. Nếu như trong đào tạo theo
niên chế, nhà trường chủ động xây dựng kế
hoạch cịn SV phải tn theo, thì trong đào
tạo TC, SV tự lập kế hoạch còn nhà trường
phải đáp ứng. Như vậy, hệ thống điều hành
quản lí đào tạo phải được đổi mới theo
hướng mềm dẻo, linh hoạt. Đặc biệt, hệ
thống này phải khai thác có hiệu quả cơng


nghệ thông tin.


<i><b>5.8. Tăng cường cơ sở vật chất và </b></i>
<i><b>nguồn học liệu phục vụ cho đào tạo TC </b></i>


Thực trạng đào tạo TC hiện nay cho
thấy sự hạn chế về cơ sở vật chất kĩ thuật
(phòng học, thiết bị dạy học, mạng máy
tính…) và nguồn học liệu làm cho việc tổ
chức đào tạo và tăng cường sự tự học của
SV gặp nhiều trở ngại. Vì vậy, muốn thực
sự đảm bảo nhu cầu học tập của từng SV
thì trước hết các trường phải đầu tư phát
triển các nguồn lực về cơ sở vật chất, trang
thiết bị giảng dạy và học liệu.


6. KẾT LUẬN


Đào tạo theo TC tuy được coi là
phương thức đào tạo mới nhưng đã có lịch
sử cách đây hàng trăm năm và đã khẳng
định ưu thế của nó tại nhiều trường đại học
danh tiếng trên thế giới. Ở Việt Nam, nhìn
chung phương thức đào tạo theo TC còn
khá mới mẻ. Mặc dù còn nhiều bỡ ngỡ,
lúng túng trong việc ứng dụng nhưng nhiều
trường đại học đã tích cực áp dụng phương
thức đào tạo này và đạt được những thành
công nhất định.



</div>

<!--links-->

×