Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.95 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Nguyễn Thị Phương Thảo </b>
<i>Viện phim Việt Nam</i>
<i>Tóm tắt: Điện ảnh thường được coi là “nghệ thuật thứ bẩy”. Để làm nên một bộ phim </i>
<i>hay, trước hết cần có kịch bản hay. Với chất liệu ngôn ngữ và những giá trị nghệ thuật </i>
<i>nhất định, kịch bản phim truyện điện ảnh là một thể loại văn học đặc biệt. Ở kịch bản </i>
<i>phim truyện điện ảnh có sự lai ghép độc đáo giữa hai loại hình nghệ thuật: văn học và </i>
<i>điện ảnh. Kịch bản là khâu khởi đầu cho những bộ phim, nó tồn tại độc lập như một tác </i>
<i>phẩm văn học. Trong đời sống văn học, kịch bản phim truyện điện ảnh có sự lai ghép </i>
<i>giữa tính kịch và tính tự sự. Giống như mọi kịch bản sân khấu, kịch bản phim truyện điện </i>
<i>ảnh có nhân vật, kịch tính. Tuy nhiên, kịch bản phim truyện điện ảnh cịn đậm nét tính tự </i>
<i>sự, bản thân mỗi kịch bản ln có cốt truyện của nó. </i>
<i>Từ khóa: thể loại văn học, kịch bản, kịch bản phim truyện điện ảnh, tính kịch, tính tự sự </i>
Nhận bài ngày 10.11.2019; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 15.12.2019
Liên hệ tác giả: Vũ Thị Hạnh<i>; </i>Emai:
<b>1. ĐẶT VẤN ĐỀ </b>
Hiện nay, điện ảnh đã trở thành nền cơng nghiệp giải trí hàng đầu thế giới. Nó chi phối
tới mọi lĩnh vực của đời sống: văn hóa, thể thao, du lịch, thương mại, dịch vụ, sản xuất,
tiêu dùng… của mọi quốc gia. Gắn liền với sự phát triển của điện ảnh, yếu tố kịch bản
ngày càng được chú trọng, nhất là kịch bản phim truyện điện ảnh. Kịch bản phim truyện
điện ảnh được đăng trên các trang internet, được dịch, xuất bản, lưu trữ tại các Viện nghệ
thuật và có số lượng bạn đọc đông đảo, bao gồm cả cộng đồng làm phim lẫn bạn đọc tự do.
<i>điện ảnh</i>”<b> -</b> tập hợp bài viết của các tác giả I.Vai-Sphen, M.Rôm, I.Khây-Phít-Xơ và
“<i>Điện ảnh và văn học</i>” của Timothy Corigan (người dịch: Nguyễn Thu Hà, Trần Phương
Hoàng, Huyền Vũ, Trần Lê Minh) khẳng định ý kiến của nhà nghiên cứu Lessing: “<i>Bây </i>
<i>giờ, kịch bản đã sắp trở thành một hình thức văn học độc lập. Kịch bản phim sinh ra từ </i>
<i>phim, cũng như kịch bản sân khấu bắt nguồn từ sân khấu</i>” [6, tr.211]… Trong khi đó,
người làm điện ảnh hiện đại, nhất là ở Mỹ, thì phản bác, cho rằng kịch bản đơn thuần chỉ là
một khâu trong quá trình sản xuất phim. Có thể thấy ý kiến này trong một số tài liệu như
“<i>Nghệ thuật điện ảnh</i>” (Nxb Đại học quốc gia Hà Nội), “<i>Giáo trình biên kịch nội bộ của </i>
<i>học viện TVM</i>” (HTV3 liên kết với Hàn Quốc), “<i>Những vấn đề lí luận kịch bản phim</i>” của
Đoàn Minh Tuấn... Như vậy, vấn đề kịch bản phim truyện điện ảnh có phải là một thể loại
văn học hay khơng cịn đang được bàn cãi [3]. Tuy nhiên, đó mới chỉ dừng lại ở những ý
kiến nhỏ lẻ ở một số tài liệu, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách nghiêm túc, có
hệ thống. Bước đầu tìm hiểu vấn đề này, người viết nhìn nhận kịch bản phim truyện điện
ảnh ở tính lai ghép của nó - là thể loại lai ghép giữa văn học và điện ảnh, lai ghép giữa tính
kịch và tính tự sự.
<b>2. NỘI DUNG </b>
<b>2.1. Kịch bản phim truyện điện ảnh - sự lai ghép văn học và điện ảnh </b>
<b>2.1.1. Vai trò trung gian và tính độc lập của kịch bản phim truyện điện ảnh </b>
Trong nghệ thuật điện ảnh, chức năng của kịch bản viết ra không phải để đọc nhằm
thưởng thức văn học mà là để làm phim. Nó là khâu khởi đầu cho một bộ phim, được gọi
bằng thuật ngữ chuyên môn: “kịch bản văn học”. Khi kịch bản văn học hoàn thành, sẽ
được đưa cho những thành viên trong đoàn làm phim để mỗi người đọc (đạo diễn, phó đạo
diễn, họa sĩ, nhạc sĩ, diễn viên…) nghiền ngẫm, tìm ra cơng việc của mình trong đó. Kịch
bản lúc này đóng vai trị trung gian, bắc cầu từ nghệ thuật văn học sang nghệ thuật điện
ảnh, kịch bản sẽ được hiện thực hóa trên một bộ phim. Ví dụ một cảnh trong kịch bản
“<i><b>Cánh đồng bất tận</b></i>” (biên kịch Ngụy Ngữ, chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của Nguyễn
Ngọc Tư):
“16. ĐỒNG – NGÀY – NGOẠI
Ao bơng súng có những lùm cây tràm vây quanh. Nước trong vắt. Hoa nở trắng. Chim
le le bay vút lên khi có tiếng động.
Sương đang trần truồng dầm mình trong nước.
Ở bờ ao, Nương đang vò giặt bộ quần áo vừa được Sương cởi ra.
Khơng xà phịng, cơ chỉ vò, vắt, lại nhúng vào nước, vò vắt, giũ.
phần dưới bụng rồi ngửng lên, lưng quay lại phía Nương, đứng lặng một chút, Nương lại
vị, vắt. Sương lại hụp xuống.
Nương lại lặng nhìn. Trong nước có màu máu. Và Sương lại ngẩng lên.
Nương vắt bộ áo quần, đi trở ra cánh đồng, xua bầy vịt đang ăn gần đó dạt xa ra, giũ
bộ áo quần, máng lên phơi trên ngọn bụi cây thấp…”
Kịch bản là vậy, khi lên phim, “<i>Cánh đồng bất tận</i>” hiện ra với cảnh quay thơ mộng
tuyệt vời: Ở một cái đìa khơng có phèn với hoa sen khủ kín mặt nước, Nương giặt áo cho
Sương. Cịn Sương, cơ gái điếm ấy đang trầm mình trong nước với bờ vai đầy nữ tính.
Sương lấy tay vục chút nước lên người, nhẹ kì cọ rồi cơ thị tay xuống nước. Sau vài giây,
trên mặt nước với những lá sen xanh non loang từng vùng máu nhỏ đỏ tươi… Cảnh đẹp đẽ
và bi thương ấy kết hợp với tiếng nhạc không lời - cả nhạc nền và giai điệu chính đều gợi
lên cảm xúc vừa xơn xao vừa âm ỉ, day dứt, oán than - kết hợp với tiếng kêu lên đau đớn
của Sương. Từ quay trung, cận cảnh… khn hình chuyển sang tồn cảnh, nhìn thấy rõ hai
người nữ giữa đầm sen. Nương đang đứng trên thuyền nhìn Sương đầy sợ hãi, lo lắng.
Sương vẫn trầm mình dưới hồ, ngẩng mặt lên trời với tiếng kêu thê thiết vì đau đớn. Cảnh
giàu chất gợi và thật nhiều ý nghĩa.
Tuy là khâu khởi đầu của q trình làm phim, có vai trị đặc biệt trong đời sống điện
ảnh nhưng kịch bản lại có thể tồn tại một cách độc lập với số phận riêng. Nhiều kịch bản
được lưu trữ, xuất bản, thậm chí có những kịch bản khơng cần thành phim, ví dụ: “<i>Con voi </i>
<i>già</i>” của Bành Châu, “<i>Tập kịch bản phim truyện của Võ Thị Hảo</i>”… Nó tồn tại như một
loại hình văn bản, có đời sống văn học độc lập của mình.
<b>2.1.2. Dấu vết của phương thức điện ảnh trong kịch bản </b>
Trước hết, kịch bản sử dụng chất liệu ngôn ngữ - chất liệu của văn học. Đây cũng là
căn cứ quan trọng để xếp nó vào một thể loại văn học. Tuy nhiên, khác với những tác
phẩm, thể loại văn học chúng ta thường thấy, vì mục đích đầu tiên của kịch bản là để làm
phim nên nó in đậm dấu vết của phương thức điện ảnh.
<i>Thứ nhất</i>, kịch bản hiện đại viết theo mẫu hình thức nhất định - thường là những phần
mềm được dùng với phạm vi quốc tế như <i>Final Draft, celtx</i>... Đây thực chất là vấn đề kịch
bản phim truyện điện ảnh trong thời đại kỹ nghệ. Khi điện ảnh ra đời chưa có kịch bản, đạo
diễn tự ứng tác tại hiện trường, chỉ đạo diễn viên diễn xuất. Lịch sử kịch bản kém lịch sử
“<i>Khi điện ảnh bắt đầu, chưa hề có kịch bản: đạo diễn tự ứng tác ra từng cảnh quay trên </i>
<i>ngay trước ống kính máy quay nữa, những điều đó cần phải lên kế hoạch cẩn thận từ </i>
<i>trước. Kịch bản phim đã trở thành một hình thức văn học khi điện ảnh ngừng tập trung vào </i>
<i>các hiệu ứng văn chương, mà vững chắc bước đi trên đơi chân của nó và tư duy theo hiệu </i>
<i>ứng thị giác</i>”[6, tr.203].
Trước kia, người ta thường viết kịch bản phim như một truyện vừa, nhưng để phục vụ
cho quá trình làm phim, các phần mềm viết kịch bản quốc tế được ra đời… “<i>Điều quan </i>
<i>trọng là kịch bản của bạn phải được viết theo đúng định dạng trang kịch bản (có tiêu </i>
<i>chuẩn về lề, phần trên dưới và vùng đánh máy) vì kịch bản đó sẽ được đưa cho diễn viên </i>
<i>và các nhà quản lý, ngay cả khi chưa phải là người chuyên nghiệp trong nghề, hãy thể hiện </i>
<i>rằng bạn hiểu được thực tế làm phim. Bạn cũng có thể dùng chương trình sắp xếp kịch bản </i>
<i>Final Draft với phần mềm word để thực hiện. Khi viết một kịch bản, bạn hãy đặt mình vào </i>
<i>vị trí người đầu tư và diễn viên, để khi ghi hình, các hướng máy quay và giới hạn vùng </i>
<i>chuyển dịch của diễn viên trong cảnh ở mức ít nhất. Người đọc phải mường tượng được bộ </i>
<i>phim trên kịch bản giống như họ xem trên màn ảnh mà không phải lo vấn đề làm sao hai </i>
<i>thứ khớp được vào nhau</i>” [5, tr. 83]. “<i>Một công việc khác cần xem xét khi chuẩn bị kịch </i>
<i>bản là thời lượng của toàn bộ phim là bao nhiêu. Đơi khi, bạn muốn nó dài hơn tiêu chuẩn </i>
<i>một bộ phim 90 phút hay hai tiếng hoặc nhà sản xuất yêu cầu bạn làm vậy. Có một tiêu </i>
<i>chuẩn thơng thường là cứ một trang kịch bản là một phút</i>” [5, tr. 84].
Các phần mềm khác nhau nhưng hầu như đều có hình thức chung, là gồm nhiều cảnh.
Ví dụ kịch bản “<i><b>Khi Harry gặp Sally</b></i>” (biên kịch Nora Ephron) - tác phẩm khi thành phim
“<i>Khi Harry gặp Sally</i>” kể về những cuộc gặp gỡ và hành trình mối quan hệ giữa Harry -
một chàng trai đầy bi quan, không bao giờ tin giữa đàn ông và phụ nữ có thể làm bạn được
với nhau vì giữa họ ln có tình dục chen vào - và Sally, một cơ gái xinh đẹp có tính cách
trái ngược Harry. Ban đầu, giữa hai người tồn tại khoảng cách đầy ác cảm, sau nhiều năm
gặp lại, cả hai đã chịu nhiều mất mát, tổn thương trong tình cảm… lại trở thành bạn tốt của
nhau. Trong đêm Sally đau khổ khi biết tin người yêu cũ của cô lấy vợ, Harry an ủi, và
chuyện nam nữ giữa hai người đã xảy ra. Mối quan hệ của họ trở nên căng thẳng tưởng
như khơng cịn có thể làm bạn với nhau được nữa, và rồi ở thời điểm đó, họ nhận ra đã yêu
nhau tự lúc nào. Ngồi mối tình và những cuộc gặp gỡ của hai nhân vật chính Harry và
Sally, tác phẩm cịn là tập hợp của vơ số những mối tình khác với nhiều hồn cảnh và lứa
tuổi… để khán giả/người đọc tự suy ngẫm về khái niệm tình yêu, quan niệm về cuộc sống,
cuộc đời và các mối quan hệ của mình, quanh mình”. Đây là một cảnh trong kịch bản “<i>Khi </i>
“NGOẠI. OTO - CẢNH DI CHUYỂN - NGÀY
Khi ô tơ rẽ vào đường cao tốc.
SALLY
(Tiếng ngồi hình)
Amanda bảo trong anh có mặt bi quan.
HARRY
Chính điều đó khiến cơ ấy thấy tơi hấp dẫn đấy,
SALLY
Mặt bi quan của anh á?
HARRY
Ừ. Sao? Cơ khơng có mặt bi quan à? Biết rồi, có lẽ cơ là một trong những kẻ tươi hơn
hớn thay dấu chấm trên chữ “i” bằng hình trái tim.
SALLY
(cãi)
Tơi cũng bi quan chẳng kém gì người ngồi cạnh đâu…
HARRY
(tự mãn)
Ô thế à? Khi mua một cuốn sách mới, tôi đọc trang cuối cùng trước. Làm vậy để nếu
lỡ có chết trước khi đọc xong thì tơi vẫn biết nó kết thúc như thế nào. Cơ bạn ạ, đấy mới là
bi quan.
SALLY
(giờ đã nổi giận)
Bi quan khơng có nghĩa là anh sâu sắc hay cái qi gì tương tự hết. Ý tơi là, đúng, về
cơ bản tôi là người luôn vui vẻ.
HARRY
(tươi tỉnh)
…và tơi chẳng thấy thế thì có gì khơng hay cả.
HARRY
Tất nhiên là cơ chẳng thấy gì rồi. Cô quá bận vui vẻ mà. Cô đã bao giờ nghĩ về cái
chết chưa?
HARRY
Hẳn nhiên cô đã nghĩ tới. Một ý nghĩ thoáng qua thi thoảng lại lướt ra lướt vào tâm trí
cơ. Cịn tơi thì nghĩ hàng giờ, hàng ngày trời…
SALLY
(ngắt lời)
… và anh tưởng điều đó biến anh thành một con người hay hớm hơn à?
HARRY
Nghe này, khi những thứ khơng ra gì của cuộc đời đổ xuống đầu thì tơi đã được trang
bị sẵn sàng để đương đầu cịn cơ thì khơng, đó là tất cả những gì tơi muốn nói.
SALLY
Cịn ngay lúc này thì anh sắp hủy hoại cả cuộc đời để chờ đợi những thứ khơng ra gì
ấy” [4, tr.32].
Như vậy, mỗi cảnh gồm có <i>tên cảnh</i>: NGOẠI. OTO – CẢNH DI CHUYỂN – NGÀY
<i>câu tả</i> (những câu miêu tả trong kịch bản), ví dụ: “Khi ơ tô rẽ vào đường cao tốc”; <i>tên </i>
<i>nhân vật</i>; <i>thoại</i> của nhân vật; <i>diễn giải</i> kèm theo lời thoại của nhân vật, ví dụ:<i>“</i>ngắt lời,
tươi tỉnh, tự mãn…”; có thể kèm thêm một vài chỉ dẫn về kĩ thuật, liên quan đến cách kể,
ví dụ: “cut, tiếng ngồi hình”…
<i>Thứ hai</i>, khác với kịch bản sân khấu, hoặc kịch bản phim truyền hình với yếu tố thoại
là chủ chốt, phim điện ảnh có yếu tố chủ chốt là ngơn ngữ hình ảnh. Trong kịch bản phim
truyện điện ảnh, ngôn ngữ miêu tả là chủ yếu (tả bối cảnh, nhân vật, hành động, sự im
lặng...) - những thứ có thể diễn được, chứ không đi sâu phân tích tâm lí nhân vật. Đồng
thời, do gắn liền với đời sống điện ảnh nên trong kịch bản có cách kể đặc trưng với những
thuật ngữ chuyên ngành. Ví dụ: “in-out dream” - cảnh giấc mơ của nhân vật nào đó,
“flashback” - cảnh hồi tưởng…
<b>2.2. Kịch bản phim truyện điện ảnh - sự lai ghép giữa tính kịch và tính tự sự </b>
<b>2.2.1. Tính kịch </b>
Cả kịch bản sân khấu và kịch bản phim truyện điện ảnh đều cần đến nhân vật và kịch
tính. Nó đảm bảo u cầu: kể về ai, và chuyện gì đã diễn ra. Kịch tính bản chất là những
nút thắt xung đột, làm khơi dậy trí tị mị của người tiếp nhận. Nó là những mâu thuẫn nội
tại, bên trong, thuộc nhiều phạm trù khác nhau…
“hình ảnh”, trong một khoảng không gian, thời gian không bị giới hạn. Vì hạn chế khơng
gian, thời gian, nên địi hỏi nghệ thuật sân khấu có tính ước lệ cao để diễn tả cảm xúc, thực
tiễn cuộc sống và chuyển tải được tư tưởng của tác giả đến người xem. Kịch bản sân khấu
có tính ước lệ cao, khơng cho phép tác giả mô tả không gian lớn. Nhân vật, kịch tính của
sân khấu đặt trong bối cảnh hẹp thì khơng thể mơ tả chính xác như thật một chiếc xe tăng
Kịch bản sân khấu thường có ba màn, mỗi màn là một không gian và phải dùng thoại
để mơ tả tình huống, hồn cảnh. Kịch bản phim truyện điện ảnh có thể chia thành các hồi,
các cảnh nhưng khơng cầu kì ước lệ vì có thể chuyển tức thời và chuyển không giới hạn về
thời gian, không gian (giữa các hành tinh, từ đất nước này đến đất nước khác… trong chưa
đầy một giây), chính vì thế nó khơng cần nhiều thoại.
<b>2.2.2. Tính tự sự </b>
Chữ “kịch” trong cụm từ “kịch bản phim truyện điện ảnh” làm cho người ta nghĩ đến
văn học kịch - kịch bản sân khấu, tuy nhiên về tính chất, nó cịn có tính tự sự đậm nét.
Tự sự phải có cốt truyện. Bản thân ý tưởng phim đã là một cốt truyện. Ví dụ, ý tưởng
phim “<i><b>Titanic</b></i>”: “<i>Châu Âu, năm 1912. Jack Dawson và Rose DeWitt Bukater cùng đắm say </i>
<i>trong mối tình bí mật đầy lãng mạn sau khi họ gặp nhau trên chuyến tàu định mệnh đi về </i>
<i>New York. Con tàu mang tên Titanic. Mối tình gặp phải cản trở mãnh liệt từ mẹ Rose, vốn </i>
<i>muốn cô cưới chồng là một nhà tư sản giàu có để gỡ nợ, và vị hôn phu cộc cằn nọ, cho tới </i>
<i>khi con tàu chìm xuống biển sâu nhấn chìm tất cả… chỉ để lại một mối tình bất diệt và </i>
<i>những gương sống đẹp của giây phút cận kề cái chết</i>” [2]. Hay ý tưởng phim “<i><b>Tình yêu và </b></i>
<i><b>tham vọng</b></i>”: <i>Bộ phim là câu chuyện về một gia đình bần nơng gồm người mẹ và ba đứa </i>
<i>con ở một tỉnh miền Trung theo làn sóng nhập cư ồ ạt về Sài Gịn những năm 80 tìm miền </i>
<i>đất mới. Trong môi trường thành phố khắc nghiệt, mỗi nhân vật trong gia đình đều phải </i>
<i>tìm một chỗ đứng cho riêng mình, trong đó tham vọng, trách nhiệm ln phải đấu tranh dữ </i>
<i>dội với tình yêu, gia đình… đến mức đơi khi là khơng thể hịa hợp khiến họ ln phải xung </i>
<i>đột dù thâm tâm luôn yêu thương lẫn nhau</i>” [2]. Dù là những phim cảm giác cũng có cốt
truyện của nó. Ví như bộ phim “<i><b>Tâm trạng khi yêu</b></i>” (<i>In the mood for love)</i> của đạo diễn
đồng biên kịch, nhà sản xuất Vương Gia Vệ, bộ phim được “<i>đánh giá là một trong những </i>
<i>bộ phim lãng mạn nhất trong lịch sử điện ảnh (…) nhận được lời khen từ những khán giả </i>
<i>và giới chuyên mơn trên tồn thế giới</i>” [7]. Phim đạt nhiều giải thưởng tại Pháp, Mỹ, Anh,