BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA Y TẾ CƠNG CỘNG
NGUYỄN THÁI SANG
TỈ LỆ STRESS VÀ
CHIẾN LƯỢC ỨNG PHÓ
CỦA SINH VIÊN Y HỌC DỰ PHỊNG,
ĐẠI HỌC Y DƯỢC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHĨA LUẬN BÁC SĨ Y HỌC DỰ PHỊNG
TP.Hồ Chí Minh, năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA Y TẾ CƠNG CỘNG
NGUYỄN THÁI SANG
TỈ LỆ STRESS VÀ
CHIẾN LƯỢC ỨNG PHÓ
CỦA SINH VIÊN Y HỌC DỰ PHỊNG,
ĐẠI HỌC Y DƯỢC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHĨA LUẬN BÁC SĨ Y HỌC DỰ PHỊNG
Người hướng dẫn : TS. Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh
TP.Hồ Chí Minh, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu trong luận văn này là được ghi nhận, nhập liệu và phân tích
một cách trung thực. Luận văn này khơng có bất kì số liệu, văn bản, tài liệu nào đã
được Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh hay trường đại học khác chấp nhận để cấp
bằng đại học, sau đại học, luận văn cũng khơng có số liệu, văn bản, tài liệu đã được
công bố trừ khi đã được công khai thừa nhận.
Sinh viên
Nguyễn Thái Sang
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT………………………………………………….i
DANH MỤC CÁC BẢNG – BIỂU ĐỒ…………………………………………….iii
ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………………………1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN Y VĂN……………………………………………….5
1.1 Stress và các rối loạn tâm thần phổ biến………………………………………...6
1.2 Gánh nặng bệnh tật của stress, lo âu, trầm cảm……………………………….....11
1.3 Chiến lược ứng phó với stress…………………………………………………..13
1.4 Thang đo Stress – Lo âu – Trầm cảm và chiến lược ứng phó với stress…………15
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU………………..21
2.1 Thiết kế nghiên cứu……………………………………………………………..21
2.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu………………………………………………21
2.3 Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………………..21
2.4 Liệt kê và định nghĩa biến số……………………………………………………23
2.5 Phương pháp thu thập dữ kiện…………………………………………………..28
2.6 Phương pháp nhập liệu và phân tích số liệu……………………………………..29
2.7 Y đức…………………………………………………………………………...30
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU…………………………………………..32
3.1 Thông tin về đối tượng nghiên cứu……………………………………………...32
3.2 Thực trạng Lo âu – Stress – Trầm cảm của đối tượng nghiên cứu……………….34
3.3 Thực trạng chiến lược ứng phó với stress của đối tượng nghiên cứu……………35
3.4 Các yếu tố liên quan đến chiến lược ứng phó với stress của đối tượng nghiên
cứu………………………………………………………………………….….39
3.5 Mối tương quan giữa các chiến lược ứng phó stress…………………………….43
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN………………………………………………………….45
4.1 Đặc tính của mẫu nghiên cứu…………………………………………………...45
4.2 Tình trạng Stress – Lo âu – Trầm cảm của đối tượng nghiên cứu…………….....45
4.3 Chiến lược ứng phó với stress của đối tượng nghiên cứu………………………..47
4.4 Mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, gia đình, xã hội và chiến lược ứng phó với
stress……………………………………………………………………….......49
4.5 Điểm mạnh, điểm hạn chế và tính ứng dụng của đề tài………………………….56
KẾT LUẬN………………………………………………………………………...58
ĐỀ XUẤT………………………………………………………………………….61
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TIẾNG ANH
APA
American Psychological Association: Hiệp hội tâm lý học Hoa
Kỳ.
BDI
The Beck Depression Inventory: Thang đo đánh giá trầm cảm
Beck.
CDC
Center for Disease Control and Prevention: Trung tâm kiểm sốt
và phịng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ.
CES-D
The Center for Epidemiologic Study - Depression Scale: Thang
đo đánh giá trầm cảm của Trung tâm nghiên cứu dịch tễ học.
CSI
Coping Strategies Inventory: Thang đo chiến lược ứng phó.
DALY
Disability Adjusted Life Years: Số năm sống hiệu chỉnh theo mức
độ tàn tật
DASS
Depression Anxiety Stress Scale: Thang điểm trầm cảm, lo âu,
stress.
DSM
Diagnostic and statistical manual of mental disorders: Chẩn đoán
và thống kê các rối loạn tâm thần.
ICD
International Classification of Diseases: Phân loại quốc tế về bệnh
tật.
SAS
Self-Rating Anxiety Scale: Thang điểm tự đánh giá lo âu.
WHO
World Health Organization: Tổ chức Y tế thế giới.
YLD
Years lived with disability: Số năm sống khỏe mạnh bị mất đi do
tàn tật.
TIẾNG VIỆT
ĐH
Đại học
SV
Sinh viên
TB
Trung bình
TPHCM
Thành phố Hồ Chí Minh
THPT
Trung học phổ thông
ii
VINE
Dự án “Cung cấp bằng chứng khoa học về bệnh tật và tử vong
cho. q trình định chính sách y tế ở Việt Nam”
YHDP
Y học dự phịng.
YTCC
Y tế cơng cộng.
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG – BIỂU ĐỒ
Bảng 1.1
Thang đo DASS-21 …………………………………………18
Bảng 1.2
Bảng phân loại các mức độ stress, lo âu, trầm cảm…………18
Bảng 2.1
Số sinh viên chọn lấy mẫu mỗi lớp………………………….22
Bảng 3.1
Tỉ lệ các đặc tính của mẫu nghiên cứu………………………32
Bảng 3.2
Tỉ lệ lo âu, stress, trầm cảm của đối tượng nghiên cứu...……34
Bảng 3.3
Tỉ lệ sinh viên chọn các chiến lược ứng phó với stress……...35
Bảng 3.4
Mối liên quan giữa việc chọn chiến lược ứng phó stress với yếu
tố cá nhân................................................................................36
Bảng 3.5
Mối liên quan giữa việc chọn chiến lược ứng phó stress với yếu
tố gia đình…………………………………...........................40
Bảng 3.6
Mối liên quan giữa việc chọn chiến lược ứng phó stress với yếu
tố xã hội……………………………………………………..41
Bảng 3.7
Mối tương quan giữa các chiến lược ứng phó........................43
Biểu đồ 1.1
Mơ hình ứng phó với stress của Tobin và cộng sự.................15
Biểu đồ 2.1
Số sinh viên chọn lấy mẫu mỗi lớp.........................................22
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khỏe là tài sản quý giá nhất của con người. Ngày nay, đời sống vật chất ngày
càng phát triển kéo theo gia tăng sự căng thẳng, ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của
con người [100]. Tổ chức Y tế thế giới nhận định “Tầm nhìn đến năm 2020, sức khỏe
tâm thần có tầm quan trọng thứ nhì, sau các bệnh lý tim mạch”. Stress, lo âu, trầm cảm
là những vấn đề sức khỏe tâm thần rất hay gặp trong cuộc sống hàng ngày. Trên đối
tượng sinh viên, ở tuổi mới lớn, tuổi có nhiều thay đổi về cả môi trường học tập, điều
kiện sống, môi trường xã hội kết hợp với đặc điểm tâm lý như bồng bột, thiếu kinh
nghiệm thì nguy cơ stress, lo âu , trầm cảm ở đối tượng này lại càng cao hơn [11].
Stress là một trong những vấn đề sức khỏe tâm thần thu hút nhiều nhà nghiên
cứu, đặc biệt là trong môi trường Y khoa, nơi tỉ lệ sinh viên bị stress nhiều nhất [51]
[79] [91]. Stress cũng có ý nghĩa tích cực khi có cơ chế bảo vệ cơ thể trước nguy hiểm,
cũng là chất kích thích giúp chúng ta nỗ lực hơn để vượt qua thử thách và đạt mục tiêu.
Tuy nhiên, khi vượt qua giới hạn, stress sẽ khơng cịn có lợi và trở nên có hại, gây hại
nghiêm trọng đến sức khỏe, tinh thần, khả năng làm việc và chất lượng cuộc sống [27].
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng tình trạng stress trên thế giới ngày càng nghiêm trọng,
đặc biệt là ở những nước đang phát triển. Các nhà nghiên cứu lĩnh vực Y tế công cộng
tại Mỹ nhận định rằng có đến 90% các bệnh tật và rối loạn sức khỏe tại Mỹ có liên
quan đến stress. Một nghiên cứu của Hiệp hội tâm lý Mỹ vào năm 2014 đưa ra kết quả
rằng có đến 54% dân số Mỹ cảm thấy bị stress trong cuộc sống hàng ngày của họ [13].
Mức độ stress được nhận định là không giống nhau ở những đối tượng, ngành nghề
khác nhau, stress ảnh hưởng lớn đến sức khỏe tâm thần, thể chất và chất lượng công
việc trong mọi đối tượng ở những ngành nghề khác nhau [18] [95]. Một nghiên cứu
khác được thực hiện tại Hàn Quốc ghi nhận rằng tự tử là nguyên nhân gây tử vong
hàng đầu ở thanh thiếu niên Hàn Quốc, trong đó căng thẳng trong học tập là một yếu
tố nguy cơ chính và có liên quan với trầm cảm [62]. Ở Việt Nam, báo cáo của Viện
Tâm Thần Trung Ương vào năm 2013 cho thấy tỉ lệ người có rối loạn tâm thần ở Việt
Nam chiếm 15-20% dân số. Stress không chỉ riêng ở lao động, stress có cả trong việc
học tập [4]. Trong đó, tình hình stress của sinh viên ngành Y cũng đang rất được quan
tâm. Nghiên cứu của tác giả Trần Kim Trang trên sinh viên năm hai Đại học Y Dược
2
TP.HCM xác định có 71,4% có rối loạn stress, trong đó có có 15,1% sinh viên có mức
độ stress nặng trở lên [39]. Tại trường ĐH Y Hà Nội, tỉ lệ sinh viên có rối loạn stress
là 63,6%, trong đó khối ngành kỹ thuật y học có tỉ lệ stress cao nhất với 79% [22]. Một
nghiên cứu trên sinh viên khoa Y tế Công cộng – ĐH Y Dược TP.HCM của tác giả Lê
Thị Thu Huyền và tác giả Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh vào năm 2011 xác định có 24,2%
sinh viên của khoa có rối loạn stress [13]. Riêng với đối tượng sinh viên Y học dự
phòng, nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Dinh vào năm 2014 trên đối tượng là sinh
viên Y học dự phòng – ĐH Y Dược TP.HCM xác định tỉ lệ đối tượng này có rối loạn
stress là 26,7% [4]. Tỉ lệ này đã tăng lên 44,5% ở nghiên cứu của tác giả Lê Hoàng
Thanh Nhung trên cùng đối tượng vào năm 2017 [29]. Bên cạnh đó, nghiên cứu của
tác giả Nguyễn Ngọc Hồng Đào trên đối tượng là sinh viên năm nhất và năm hai khoa
Y tế Công cộng – ĐH Y Dược TP.HCM cho thấy có 44% sinh viên năm nhất và năm
hai thuộc khối ngành Y học dự phịng có rối loạn stress [6].
Tình trạng căng thẳng cũng phổ biến ở đối tượng sinh viên đại học, có 80% sinh
viên đơi khi hoặc thường xuyên cảm thấy căng thẳng, 50% cảm thấy lo lắng ít nhất
một lần trong 12 tháng, 20% sinh viên đại học nói rằng họ cảm thấy căng thẳng trong
phần lớn thời gian. Chương trình học ở đại học Y khoa được xem như là những yếu tố
gây ra stress, và stress sẽ gây ra các tác động tiêu cực đến khả năng nhận thức và học
tập ở sinh viên [70]. Có đến 30% sinh viên báo cáo rằng căng thẳng đã ảnh hưởng tiêu
cực đến thành tích học tập của họ trong vòng một năm qua [29]. Tại các trường Y ở
Việt Nam, sinh viên Y học dự phòng sẽ bắt đầu thực tập tại các bệnh viện từ năm thứ
ba. Khi bắt đầu khoảng thời gian này, sinh viên có thể sẽ phải đối mặt với stress, nguyên
nhân chính của việc này chủ yếu là do sinh viên chưa kịp thích ứng ngay với việc
chuyển tiếp chương trình học từ khoa học cơ bản sang y học cơ sở và tiếp cận với lâm
sàng [39].
Mặt khác, sinh viên Y học dự phòng vẫn còn rất nhiều hạn chế trong việc tự đánh
giá sự hiểu biết của mình về ngành Y học dự phòng [14]. Cơ quan tuyển dụng còn chưa
hiểu nhiều về ngành Y học dự phòng, dẫn đến nhiều khó khăn cho sinh viên Y học dự
phịng khi tìm kiếm nơi làm việc sau khi tốt nghiệp và cũng gây lo âu cho sinh viên Y
học dự phòng khi còn đang học [20]. Trong khoảng thời gian học tập của sinh viên,
nghiên cứu cho thấy sinh viên những năm cuối có cách ứng phó với stress tốt hơn so
3
với sinh viên năm đầu [51]. Đối với các sinh viên năm đầu, stress đến với họ từ việc
thích nghi với mơi trường học tập và sinh sống hồn tồn khác khoảng thời gian học
phổ thơng. Với tình hình stress như vậy, để đối mặt với stress sinh viên cần có những
chiến lược ứng phó với stress thích hợp. Tuy nhiên các nghiên cứu về chiến lược ứng
phó trên sinh viên cịn khá ít tại Việt Nam.
Ngồi ra, có đến 13% sinh viên đại học đã được chẩn đoán trầm cảm, lo âu và có
đến 10% sinh viên đại học có suy nghĩ tự sát [61]. Một nghiên cứu đánh giá tâm lý
giữa Hoa Kỳ và sinh viên Y khoa Canada đã đưa ra với kết quả một tỉ lệ khá cao số ca
mắc bệnh trầm cảm và lo âu, với mức độ căng thẳng tâm lý luôn cao hơn dân số chung
[50]. Nghiên cứu của tác giả Deborah Goebert trên sinh viên nhiều trường Y khoa tại
Mỹ cho thấy có những khác biệt đáng kể theo năm đào tạo của các sinh viên Y khoa.
Sinh viên năm thứ nhất, thứ hai và năm thứ ba có tỉ lệ mắc bệnh trầm cảm nhiều hơn
sinh viên năm thứ tư [67]. Khác với nghiên cứu của tác giả Deborah Goebert, nghiên
cứu của tác giả Nguyễn Thị Minh Ngọc lại chỉ ra rằng tỉ lệ sinh viên năm thứ nhất và
năm thứ tư có dấu hiệu trầm cảm cao nhất [24]. Vì thế, nghiên cứu này sẽ đánh giá
thêm tỉ lệ lo âu, trầm cảm của sinh viên Y học dự phòng bên cạnh việc nghiên cứu tỉ
lệ stress và chiến lược ứng phó với stress.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu tỉ lệ stress và chiến
lược ứng phó ở sinh viên đang theo học ngành Bác sĩ Y học dự phịng tại Khoa Y tế
Cơng cộng – ĐH Y Dược TP.HCM cũng như xác định các yếu tố liên quan để có
phương hướng cho việc đưa ra chiến lược phịng chống thích hợp, giảm các yếu tố gây
stress, nâng cao đời sống tinh thần cho sinh viên Y học dự phòng.
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
1. Tỉ lệ sinh viên Y học dự phòng tại khoa Y tế Cơng cộng – Đại học Y Dược Thành
phố Hồ Chí Minh năm 2019 mắc stress là bao nhiêu?
2. Tỉ lệ sinh viên lựa chọn các chiến lược ứng phó với stress: giải quyết vấn đề, cấu
trúc lại nhận thức, tìm kiếm chỗ dựa xã hội, bộc lộ cảm xúc, mơ tưởng, cô lập bản
thân, đổ lỗi cho bản thân, lảng tránh vấn đề là bao nhiêu? Có mối liên quan giữa
việc lựa chọn các chiến lược ứng phó với stress và các yếu tố cá nhân, gia đình và
xã hội hay không ?
4
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu tổng quát
Xác định tỉ lệ sinh viên Y học dự phòng Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh năm
2019 mắc stress và áp dụng các chiến lược ứng phó.
Mục tiêu cụ thể
1. Xác định tỉ lệ sinh viên Y học dự phòng Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
năm 2019 mắc stress, lo âu, trầm cảm ở các mức độ.
2. Xác định tỉ lệ sinh viên Y học dự phòng Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
năm 2019 lựa chọn các chiến lược ứng phó với stress.
3. Xác định mối liên quan giữa việc lựa chọn các chiến lược ứng phó với stress và các
yếu tố cá nhân, gia đình và xã hội.
5
DÀN Ý NGHIÊN CỨU
6
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN Y VĂN
1.1 Stress và các rối loạn tâm thần phổ biến
1.1.1 Stress
Có nhiều định nghĩa về stress được đưa ra bởi các nhà nghiên cứu, nhưng thực tế
tùy vào lĩnh vực và cách nhìn nhận vấn đề của mỗi tác giả, họ đưa ra những quan điểm
khác nhau về stress [10]. Tác giả H.Selye, nhà sinh lý học người Canada sử dụng thuật
ngữ stress để mô tả triệu chứng của q trình thích nghi với mọi loại bệnh tật. Ông
định nghĩa “Stress là một phản ứng sinh học khơng đặc hiệu của cơ thể trước những
tình huống căng thẳng”. Trong các nghiên cứu sau đó của mình, tác giả H.Selye nhấn
mạnh, stress có tính chất tổng hợp chứ không phải chỉ thể hiện một trạng thái bệnh lý
[2].
Tuy nhiên, stress cũng có mặt lợi. Stress phát huy điểm tích cực của mình khi nó
buộc cơ thể phải thích nghi với mơi trường, từ đó tăng sức mạnh do cơ chế phản ứng,
đồng thời cảnh báo cho ta biết là bản thân chưa thích nghi với tình hình mới, do vậy
sự thay đổi trong lối sống là cần thiết để duy trì sức khỏe tối ưu. Về mức độ ngắn hạn,
sự tăng nồng độ hormone các chất trong cơ thể do stress gây ra làm cho hệ miễn dịch
khỏe hơn, giúp bảo vệ cơ thể bằng cách giữ cho tế bào não bộ họa động ở công suất
tối đa [97]. Stress sẽ trở nên tiêu cực khi nó vượt qua khả năng thích ứng của cơ thể,
gây mệt mỏi và xuất hiện các vấn đề về hành vi hoặc thể chất [82].
1.1.1.1 Phân loại
Tùy thuộc vào quan điểm và định nghĩa, từ đó có nhiều cách phân loại stress. Có
2 loại stress chính :
Stress tâm lý: là sự đáp ứng thích hợp giúp cho con người có những phản ứng kịp
thời và đúng đắn nhằm tạo sự cân bằng mới sau khi chịu tác động từ bên ngồi. Ở
hình thái này, stress trải qua 2 giai đoạn, trước tiên là sự kích thích các q trình
tâm lý như tập trung phán đoán, ghi nhớ, suy xét,..v.v.. và những biến đổi sinh lý
như tăng nhịp tim, tăng huyết áp,..v.v.. và sau đó là sự huy động các đáp ứng khác
nhau của cơ thể để làm chủ tình huống phát sinh, đó là sự thích nghi của cơ thể và
mơi trường. Ở mức độ vừa phải, những tình huống này có tác dụng như một sự
7
luyện tập để cơ thể có thể giải quyết tốt những tình huống tương tự trong tương
lai.
Stress bệnh lý: nếu tác nhân mang tính tiêu cực, xảy ra với tính chất bất ngờ, dữ
dội như sự chia ly, tang tóc, bị tấn cơng,... đây là phản ứng stress cấp tính, thường
là rối loạn nhất thời xảy ra ngay khi xuất hiện tác nhân và vượt quá khả năng tái
cân bằng của cơ thể, dạng này cần có thời gian vài giờ, vài ngày hoặc có thể dài
hơn để tái lập cân bằng. Trong trường hợp stress xảy ra liên tiếp, lặp đi lặp lại cảm
xúc tiêu cực, những xung đột, mâu thuẫn, áp lực công việc hoặc khi phản ứng stress
cấp tính khơng thối lui sẽ tiến triển thành rối loạn thích ứng [10].
1.1.1.2 Nghiên cứu
Ở Mỹ, một cuộc điều tra được thực hiện vào năm 2008 bởi Associated Press chỉ
ra rằng có 1 trên 10 sinh viên thường xuyên bị stress, 1 trên 5 sinh viên cảm thấy căng
thẳng trong phần lớn thời gian. Tỉ lệ này tăng 20% so với cuộc điều tra 5 năm trước đó
[89]. Ở Canada, tổ chức Mental Health Task Force on Graduate Student của Đại học
California Berkey đã khảo sát sinh viên cử nhân của trường và phát hiện 45% sinh viên
có các vấn đề về stress trong vòng 12 tháng qua [69]. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, nghiên cứu của
tác giả Nuran Bayram và cộng sự thực hiện vào năm 2008 trên 1617 sinh viên với
thang đo DASS-42, kết quả của nghiên cứu cho thấy 27% sinh viên bị stress ở mức độ
vừa, nặng và rất nặng [83]. Một nghiên cứu khác ở Malaysia được thực hiện bởi tác
giả Khadijah và cộng sự vào năm 2013 trên 506 sinh viên thuộc trường đại học công
lập tại Klang Valley, Malaysia. Dựa vào thang đo DASS-21, tác giả đã cho thấy có đến
18,6% sinh viên bị stress mức độ vừa, 5,1% ở mức độ nặng và rất nặng [90]. Ở nước
ta, ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề stress trên đối tượng sinh
viên. Tỉ lệ stress, lo âu, một phần nào đó đóng vai trị trong hành vi tự tử trên đối tượng
sinh viên. Trong một nghiên cứu được tiến hành trên 829 sinh viên ở ĐH Quốc gia Hà
Nội vào năm 2009, kết quả nghiên cứu cho thấy có trên 80% sinh viên có dấu hiệu
stress từ mức độ nhẹ đến trung bình, kết quả này cao hơn so với các nghiên cứu năm
trước, đặc biệt là tăng cao vào những lúc bước vào mùa thi. Các yếu tố liên quan đến
tỉ lệ này chủ yếu là do chương trình học nặng nề, làm cho sinh viên ln trong trạng
thái căng thẳng, mệt mỏi, cùng với tính chất nghiêm túc và chạy theo thành tích của kỳ
thi [34]. Riêng trên đối tượng sinh viên ngành Y, cũng đã có nhiều nghiên cứu nhấn
8
mạnh tỉ lệ stress, lo âu, trầm cảm ở mức độ cao. Theo một nghiên cứu được tiến hành
trên 351 sinh viên y năm đầu tiên tại trường ĐH Y Dược TP.HCM năm 2008, có đến
60% sinh viên bị stress do những áp lực từ việc học tập. Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉ
ra những yếu tố gây căng thẳng hàng đầu cho sinh viên như những yếu tố cá nhân,
chương trình học và mơi trường [65]. Một nghiên cứu khác của tác giả Trần Kim Trang
trên đối tượng sinh viên Y đa khoa và Răng hàm mặt năm hai, phát hiện ra rằng có
71,4% sinh viên có dấu hiệu stress [39]. Một nghiên cứu trên 346 sinh viên khoa Y tế
Công cộng – ĐH Y Dược TP.HCM của tác giả Lê Hoàng Thanh Nhung theo thang đo
DASS-21 vào năm 2017. Nghiên cứu cho thấy có 17,6% sinh viên có dấu hiệu stress
mức độ nhẹ, 18,2% mức độ vừa, 7,8% mức độ nặng và 0,9% mức độ rất nặng. Nghiên
cứu cũng cho thấy các nguyên nhân đưa đến tỉ lệ stress trên đối tượng này là gồm các
yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình và yếu tố học tập [29]. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Ngọc Hồng Đào trên sinh viên năm nhất và năm hai sinh viên khoa Y tế Công cộng –
ĐH Y Dược TPHCM phát hiện ra có 46,8% sinh viên khối YTCC và 44% sinh viên
khối YHDP có dấu hiệu stress [6].
1.1.2 Các rối loạn tâm thần phổ biến
1.1.2.1 Rối loạn trầm cảm
Theo Tổ chức Y tế thế giới – WHO, trầm cảm được định nghĩa là một rối loạn
tâm thần phổ biến. Bệnh có các triệu chứng đặc trưng như buồn bã, mất hứng thú, cảm
giác tội lỗi và hạ thấp giá trị bản thân, ngủ khơng n giấc, chán ăn, hay có cảm giác
mệt mỏi, kém tập trung. Hơn nữa, trầm cảm thường đến với triệu chứng lo lắng [100].
Trầm cảm thường gặp ở độ tuổi từ 20-50 tuổi, trung bình ở độ tuổi 40 [19]. Thường nữ
có tỉ lệ mắc trầm cảm gấp 2 lần so với nam [99]. Tồn cầu có gần 800.000 người tự sát
mỗi năm vì trầm cảm. Trầm cảm là nguyên nhân dẫn đến tự sát thứ 2 ở độ tuổi 15-29
tuổi [99].
Trầm cảm làm giảm đáng kể khả năng làm việc hoặc đương đầu với cuộc sống
hàng ngày của con người. Đặc biệt, trầm cảm nặng có thể dẫn đến việc tự sát [100].
Nghiên cứu
Theo nghiên cứu của tác giả Ibrahim AK và cộng sự, tỉ lệ trầm cảm đang có xu
hướng gia tăng ở lứa tuổi học sinh – sinh viên. Trầm cảm trong sinh viên được ghi
9
nhận từ 10% đến 85%, trung bình là 30,6% [54]. Bên cạnh đó, trên địa bàn TP.HCM,
nghiên cứu của tác giả Lê Minh Thuận cho thấy tỉ lệ trầm cảm ở sinh viên đại học nằm
trong khoảng 20,9%-26,8%, trung bình là 23,7%. Trong đó, tỉ lệ sinh viên y được xác
nhận là cao hơn sinh viên khối ngành khoa học tự nhiên [38].
Tại ĐH Y Dược Cần Thơ, có 19% sinh viên có nguy cơ trầm cảm, 7% sinh viên
trầm cảm nhẹ và 19% sinh viên trầm cảm thực sự [43]. Tại ĐH Y Hà Nội, một nghiên
cứu khác ở đối tượng sinh viên năm hai hệ bác sĩ cho thấy có đến 28,46% sinh viên bị
trầm cảm [26]. Tại ĐH Y Dược TP.HCM, nghiên cứu của tác giả Trần Kim Trang trên
đối tượng năm thứ hai sinh viên Y đa khoa và Răng hàm mặt cho thấy có đến 71,4%
sinh viên có rối loạn stress, 28,8% sinh viên có rối loạn lo âu và 22,4% sinh viên bị
trầm cảm [39]. Theo một nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Minh Ngọc, tỉ lệ sinh
viên thuộc hệ Y học dự phịng của ĐH Y Dược Hải Phịng có dấu hiệu trầm cảm là
41,7% [24]. Các nghiên cứu về trầm cảm trên đối tượng sinh viên Y học dự phòng còn
rất ít.
1.1.2.2 Rối loạn lo âu
Theo Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), rối loạn lo
âu được đặc trưng bởi lo lắng quá mức và không thực tế về công việc hay sự kiện hàng
ngày, hoặc có thể quá tập trung cho các đối tượng hoặc hình thức nào đó [59].
Nghiên cứu
Tỉ lệ rối loạn tâm thần học đường càng ngày càng cao và là vấn đề đang rất được
quan tâm từ các nhà nghiên cứu. Các bệnh lý về sức khỏe tâm thần ở lứa tuổi học sinh,
sinh viên cao hơn hẳn so với tỉ lệ người mắc bệnh ở quần thể chung. Nhưng điểm đặc
biệt là học sinh sinh viên mắc bệnh sức khỏe tâm thần lại ít được tiếp xúc với điều trị
do kỳ thị về mặt tâm lý. Mặc dù rối loạn tâm thần là yếu tố dự báo báo động đáng kể
liên quan đến thành tích học tập trong suốt quá trình học tập tại trường, nhưng hầu hết
các nghiên cứu về rối loạn tâm thần của học sinh đều tập trung vào đối tượng học sinh
tiểu học và trung học cơ sở [86].
Tại Hoa Kỳ, tỉ lệ hiện mắc ước tính của rối loạn lo âu trong dân số chung là 3,1%,
trong đó tỉ lệ nữ giới hiện mắc gấp hai lần so với nam giới, và tỉ lệ phải sống chung với
rối loạn lo âu cho đến cuối đời là 5,7% [81]. Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện
trên 506 sinh viên trong độ tuổi từ 18-24 tuổi của 4 trường đại học công lập ở Malaysia
10
thông qua thang đánh giá DASS-21. Qua nghiên cứu, kết quả phân tích cho thấy có
29% có rối loạn lo âu nặng, 18,6% ở mức độ vừa phải và 5,1% có căng thẳng nghiêm
trọng [74].
Có mối tương quan giữa chứng trầm cảm, lo âu và sự tự tử của các sinh viên đại
học. Sức khỏe tinh thần trong sinh viên đại học là mối quan tâm cần thiết [23]. Đặc
biệt là ở đối tượng sinh viên ngành Y, đối tượng có nguy cơ mắc các rối loạn sức khỏe
tâm thần cao do tính chất của ngành học.
Một nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên sinh viên ngành Y ở Brazil
bởi tác giả Moutinho và cộng sự trên thang đo DASS-21. Nghiên cứu được sự trả lời
câu hỏi của 761 sinh viên. Qua phân tích, nghiên cứu có 34,6% sinh viên có dấu hiệu
trầm cảm, 37,2% có dấu hiệu lo âu và 47,1% có dấu hiệu stress và nghiên cứu nhận
thấy rằng có khác biệt rõ rệt tỉ lệ hiện mắc ở sinh viên ở các học kỳ khác nhau, giới
tính và tơn giáo ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của sinh viên [72].
Ở Ả- Rập-Xê-Út, một nghiên cứu kiểm tra đánh giá mức độ lo âu ở sinh viên Y
khoa chưa tốt nghiệp tại Đại học Taibah. Nghiên cứu được tiến hành trên sinh viên y
năm thứ năm của trường. Mức độ lo âu được đánh giá bằng thang điểm tương tự trực
quan. Nghiên cứu thực hiện trên 125 sinh viên và có 111 sinh viên trả lời câu hỏi
(89%). Qua kết quả phân tích của nghiên cứu, có khoảng 65% sinh viên đã trải qua cơn
lo âu kỳ thi bởi nhiều lý do khác nhau. Học bài thâu đêm trước kỳ thi (25,2%) và kéo
dài khóa học (23,4%) là hai yếu tố chính gây nhiễu [75].
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về rối loạn lo âu trên đối tượng sinh viên còn rất
hạn chế. Nghiên cứu của tác giả Lê Minh Thuận năm 2011 trên 252 sinh viên thông
qua thang đo DASS-42. Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ rối loạn lo âu mức độ nặng ở sinh
viên là 12% và mức độ lo âu rất nặng là 11% [36]. Một nghiên cứu khác cùng tác giả
tác giả Lê Minh Thuận được thực hiện trên sinh viên năm 1 và năm 3 của trường ĐH
Y Dược TP.HCM cũng chỉ ra mức độ lo âu của sinh viên, có 19% sinh viên có lo âu ở
mức độ nhẹ, 32% sinh viên lo âu ở mức độ vừa, 13% sinh viên ở mức độ nặng và 11%
ở mức độ rất nặng [35].
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thành Trung, được thực hiện trên 626 sinh viên
ĐH Y Tế Công Cộng năm 2017 với tỉ lệ tham gia nghiên cứu là 73,3%. Nghiên cứu
được đánh giá bằng thang đo DASS-21 và đưa ra kết quả có 20,9% sinh viên lo âu mức
11
độ vừa, 5,9% sinh viên lo âu mức độ nặng và 6,5% sinh viên lo âu ở mức độ rất nặng.
Nghiên cứu cũng cho thấy một số nguyên nhân dẫn đến rối loạn lo âu ở sinh viên chủ
yếu là tình hình tài chính khơng đầy đủ, sống trong gia đình có thu nhập thấp, áp lực
học tập cao và khơng hài lịng với ngành học [44].
1.2 Gánh nặng bệnh tật của stress, lo âu, trầm cảm
Stress là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến hay xảy ra cùng các bệnh
mạn tính như ung thư, tăng huyết áp, đau xương khớp, viêm loét dạ dày. Rối loạn stress
ở người trẻ tuổi gây nhiều tác động không mong muốn như lạm dụng chất gây nghiện,
sinh con ở tuổi vị thành niên, sự ổn định về hôn nhân, thành quả học vấn. Bên cạnh đó,
stress cịn ảnh hưởng đáng kể trong vai trò chức năng sinh lý trong cơ thể gây ra các
bệnh thực thể thứ phát [58] [68]. Năm 2014, Mỹ có khoảng 2500 người bị stress liên
quan đến các vấn đề sức khỏe và gây ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của cộng đồng
[68].
Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới vào năm 2017, có khoảng 800 người tự
tử mỗi năm liên quan đến trầm cảm [99]. Tổ chức Y tế thế giới đã khẳng định rằng
trầm cảm là nguyên nhân hàng đầu gây ra khuyết tật được đo bằng số năm sống khỏe
mạnh bị mất đi do tàn tật (YLDs) [60]. Nghiên cứu do WHO đã tính tốn chi phí điều
trị và kết cục sức khỏe ở 36 quốc gia có thu nhập thấp và trung bình trong 15 năm từ
2016-2030, mức độ cơng nhận và tiếp cận chăm sóc rối loạn trầm cảm, lo âu, dẫn đến
tổn thất kinh tế toàn cầu 1.000 tỷ đơ la Mỹ mỗi năm. Chi phí ước tính cho việc mở
rộng quy mô điều trị, chủ yếu là tư vấn tâm lý xã hội và thuốc chống trầm cảm lên đến
147 tỷ đô la Mỹ [56]. Tổng chi phí cho trầm cảm tại Mỹ khoảng 53 tỷ đơ la Mỹ mỗi
năm bao gồm tất cả các khoản liên quan đến điều trị tâm lý, điều trị không liên quan
đến tâm lý, chi phí người thân chăm sóc, chi phí do giảm năng suất cơng việc và tử
vong [58]. Trầm cảm phải trở thành ưu tiên toàn cầu bởi vì nó khơng chỉ ảnh hưởng
đến sức khỏe, phúc lợi mà còn làm giảm năng suất lao động và sự phát triển kinh tế
của toàn cầu [76].
Rối loạn lo âu xếp thứ 6 trong chỉ số tàn tật DALYs (2010). Trên toàn cầu, lo
âu chiếm khoảng 390 DALYs trên 100.000 người [53]. Lo âu là một trong những
nguyên nhân gây nên tình trạng các bệnh lý thực thể như tăng huyết áp, đái tháo đường,
12
loét dạ dày [58]. Nữ giới chiếm khoảng 65% chỉ số DALYs do rối loạn lo âu; gánh
nặng cao nhất trong độ tuổi 15 đến 34 tuổi ở cả nam giới và nữ giới [53]. Hội chứng
rối loạn lo âu là bệnh tâm thần phổ biến nhất ở Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến 40 triệu người
lớn ở Hoa Kỳ từ 18 tuổi trở lên, hoặc 18,1% dân số mỗi năm [55]. Một nghiên cứu trên
514 triệu người ở 30 quốc gia khác nhau tại châu Âu cho kết quả: mỗi năm Châu Âu
có 38,2% dân số có rối loạn tâm thần trong đó lo âu chiếm ưu thế [71].
Năm 2002, tỉ lệ stress tại Hà Nội và TP.HCM lần lượt là 55% và 52%. Tỉ lệ stress
ở hai địa điểm này tập trung cao ở đối tượng học sinh, sinh viên và nhân viên văn
phòng [48]. Khi bị stress kéo dài, hệ miễn dịch bị tấn công, dễ mắc các bệnh mãn tính
như đau dạ dày, các bệnh đường ruột, tăng huyết áp, đau đầu và thường xuyên mất ngủ
[16]. Stress có thể làm tăng phản ứng viêm dị ứng của cơ thể, là một trong các nguy
cơ gây viêm loét dạ dày, bệnh mạch vành. Stress tâm lý cũng có mối liên quan đến
bệnh đái tháo đường, đặc biệt là đái tháo đường type 2. Mối liên quan giữa stress và
ung thư vú, sự tiến triển của ung thư giai đoạn sớm cũng đã được chứng minh bởi nhiều
nhiều cơng trình nghiên cứu [82].
Năm 2008, tại Việt Nam, rối loạn tâm thần được báo cáo là nguyên nhân hàng
đầu của gánh nặng bệnh tật theo dự án VINE – Trường ĐH Y Tế Công Cộng. Gần
15% dân số (khoảng 13,5 triệu người) đang mắc các rối loạn tâm thần phổ biến. Các
rối loạn tâm thần đã gây nên 14% gánh nặng bệnh tật toàn cầu và cũng gây nên tình
trạng nghèo đói cho cá nhân và gia đình, cản trở đến sự phát triển của kinh tế quốc gia
[45].
Trầm cảm ln nằm trong nhóm 10 ngun nhân hàng đầu gây gánh nặng bệnh
tật ở mọi nhóm tuổi. Ba nhóm tuổi có tỉ lệ mắc cao nhất là học sinh và thanh thiếu niên,
phụ nữ trước - sau sinh và nhóm người cao tuổi [45]. Năm 2015, theo thống kê của Tổ
chức Y tế thế giới, Việt Nam có khoảng 3.564.000 người mắc rối loạn trầm cảm (4,0%
dân số) với chỉ số YDLs là 7,4% [100]. Các rối loạn tâm lý như trầm cảm, lo âu, stress
làm tăng rất nhiều lần nguy cơ lây nhiễm các bệnh khác nhau thông qua các hành vi
khơng tự chăm sóc cho bản thân, thái độ chán nản, hay nhận thức đơn giản, bỏ điều trị
hoặc khơng tn thủ điều trị và thậm chí là tự tử [12].
Giai đoạn 2000-2002, theo thống kê của Bệnh viện Tâm thần Trung ương, lo âu
ở Việt Nam chiếm 2,7% trong nhóm 10 rối loạn tâm thần thường gặp trong cộng đồng
13
[3], và có đến 1.941.166 người mắc rối loạn lo âu vào năm 2015 với chỉ số YLDs là
2,2% [100].
1.3 Chiến lược ứng phó với stress
Ứng phó – “Cope” xuất phát từ tiếng Anh, có nghĩa là ứng phó, đương đầu, đối
mặt, thường là trong những tình huống bất thường, những tình huống khó khăn và
stress [41]. Theo nghĩa rộng, ứng phó bao gồm tất cả các dạng tương tác của chủ thể
với những yêu cầu của thế giới bên ngoài và nội tâm - nắm bắt làm chủ hay làm suy
giảm, làm quen hay lảng tránh khỏi những yêu cầu của hồn cảnh có vấn đề. Những
điều kiện bên ngoài - yêu cầu của hoàn cảnh, hay bên trong - đặc điểm tâm lý của
chủ thể, tạo nên nội dung của cách ứng phó, làm chúng hồn tồn khác biệt với với
sự thích ứng đơn giản [46]. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “ứng phó là hành động đáp
lại nhanh nhạy, kịp thời, trước những tình huống mới, bất ngờ” [49]. Vậy theo từ điển
Tiếng Việt, thuật ngữ ứng phó ở đây được hiểu như là cách thức thích nghi với những
sự thay đổi bất ngờ của cuộc sống hàng ngày.
Một vài nghiên cứu về chiến lược ứng phó cho thấy nữ giới thích tìm kiếm sự
giúp đỡ hơn ở nam giới. Điều đó cịn phụ thuộc vào người giúp đỡ và vấn đề cần được
giúp đỡ nhưng nhìn chung phái nữ rất thích nhận được sự giúp đỡ và lời khuyên từ
người khác trong các vấn đề sức khỏe tâm thần [64] [101].
Phân loại chiến lược ứng phó
Tùy theo đối tượng và mục đích nghiên cứu, có thể phân loại chiến lược ứng phó
chứ khơng có một bảng chung phân loại nào được xác định [15].
Theo tác giả Folkman và Lazarus (1984)
Đây được xem là cách phân loại ứng phó phổ biến nhất. Theo Folkman và
Lazarus, những nỗ lực ứng phó có thể hoặc tập trung vào cảm xúc (emotion-focused)
hoặc tập trung vào vấn đề (problem-focused). Ứng phó tập trung cảm xúc nhằm vào
việc giảm bớt sự khuấy động cảm xúc gây nên bởi stress. Ứng phó tập trung vào vấn
đề nhằm vào việc thay đổi sự kiện được xem là có hại. Đặc biệt, cả hai hướng ứng phó
có thể được thực hiện đồng thời, hoặc riêng biệt, và cũng có khi là khơng tương hợp
với nhau [87].
14
Theo tác giả Ferguson và Cox (1991)
Theo Ferguson và Cox, có ba nhóm ứng phó chính: [93]
Ứng phó định hướng vào nhiệm vụ (task - oriented): là những nỗ lực nhằm thay
đổi mơi trường khách quan bên ngồi, thường bao gồm những hành động được lên
kế hoạch.
Ứng phó định hướng vào cảm xúc (emotion - oriented): là chiến lược trong đó con
người cố gắng thay đổi suy nghĩ và cảm giác của mình về sự kiện xảy ra bằng cách
rút một số kinh nghiệm, bài học qua tình huống, nhìn về khía cạnh tích cực của
vấn đề hoặc thể hiện những cảm xúc âm tính của mình.
Lảng tránh: là cách thức nhằm chạy trốn khỏi vấn đề bằng cách che giấu suy nghĩ
thực về vấn đề hoặc tập trung vào những hoạt động khác tích cực hơn nhằm thốt
ra khỏi tình huống.
Theo tác giả Tobin và cộng sự
Tác giả Tobin và các cộng sự chia chiến lược ứng phó thành 2 nhóm lớn: [92]
Nhóm đối đầu (engagement): gồm “đối đầu tập trung vào vấn đề” và “đối đầu
tập trung vào cảm xúc”.
- Nhóm “đối đầu tập trung vào vấn đề” : gồm “Giải quyết vấn đề” và “Cấu trúc
lại nhận thức”. Giải quyết vấn đề là nỗ lực nhằm thay đổi các tác nhân gây stress
bằng cách quyết tâm, kiên trì và trực tiếp hành động. Cấu trúc lại nhận thức là q
trình “nói chuyện với bản thân” về vấn đề xảy ra để thay đổi ý nghĩa của các sự
kiện căng thẳng, nhìn nhận các sự kiện theo chiều hướng tích cực hơn và có tính
xây dựng hơn.
- Nhóm “đối đầu tập trung vào cảm xúc”: gồm “Tìm kiếm chỗ dựa xã hội” và
“Bộc lộ cảm xúc”. Tìm kiếm chỗ dựa xã hội là nỗ lực tìm đến sự giúp đỡ để giải
quyết vấn đề bằng cách tìm lời khuyên và chia sẻ cảm xúc, tâm sự với người thân
hay bạn bè. Bộc lộ cảm xúc là những cố gắng đối diện với cảm xúc, khơng né tránh
nó và giải tỏa cảm giác căng thẳng, lo lắng ra bên ngồi.
Nhóm lảng tránh (disengagement): gồm có “lảng tránh tập trung vào vấn đề” và
“lảng tránh tập trung vào cảm xúc”.
- Nhóm “lảng tránh tập trung vào vấn đề”: gồm có “Lảng tránh vấn đề” và “Mơ
tưởng”. Lảng tránh vấn đề liên quan đến những nỗ lực của cá nhân nhằm chạy trốn
15
khỏi vấn đề bằng cách cố gắng khơng có bất cứ suy nghĩ hoặc hành động nào liên
quan đến sự kiện căng thẳng. Mơ tưởng phản ánh những suy nghĩ mang tính tơ
hồng sự kiện, tưởng tượng, hy vọng, mong đợi những điều kỳ diệu xảy ra để tình
trạng có thể chuyển biến tốt hơn và cá nhân có thể sớm thốt khỏi hoản cảnh ấy.
- Nhóm “lảng tránh tập trung vào cảm xúc”: gồm “Đổ lỗi cho bản thân” và “Cô
lập bản thân”. Đổ lỗi cho bản thân phản ánh việc cá nhân tự chỉ trích mình, dằn
vặt, giày vị mình vì những gì đã xảy ra, đi kèm với cảm giác nuối tiếc, ân hận. Cô
lập bản thân đề cập đến các nỗ lực của cá nhân nhằm thu hẹp thế giới của chính
mình, tránh giao tiếp và che giấu cảm xúc đối với các tình huống gây stress trước
bạn bè và người thân.
ĐỐI ĐẦU
LẢNG TRÁNH
LẢNG
TRÁNH TẬP
TRUNG VÀO
VẤN ĐỀ
LẢNG TRÁNH
TẬP TRUNG
VÀO CẢM
XÚC
ĐỐI ĐẦU TẬP
TRUNG VÀO
VẤN ĐỀ
ĐỐI ĐẦU TẬP
TRUNG VÀO
CẢM XÚC
Giải quyết
vấn đề
Bộc lộ cảm
xúc
Lảng tránh
vấn đề
Đổ lỗi cho
bản thân
Cấu trúc lại
nhận thức
Tìm kiếm hỗ
trợ xã hội
Mơ tưởng
Cơ lập bản
thân
Biểu đồ 1.1: Mơ hình ứng phó với stress của Tobin và cộng sự
1.4 Thang đo Stress – Lo âu – Trầm cảm và chiến lược ứng phó với stress
1.4.1 Thang đo Stress – Lo âu – Trầm cảm (DASS-21)
Trên thế giới có nhiều cơng cụ đo lường sức khỏe tâm thần được sử dụng cho đến
bây giờ như thang đo stress PSS, thang đo trầm cảm BECK (BID-D), thang tự đánh
giá lo âu của ZUNG (SAS) và thang đo DASS đánh giá Trầm cảm – Lo âu – Stress
của Lovibond. Riêng thang đo DASS, có hai phiên bản: thang đo gồm 42 câu và thang
đo ngắn gọn hơn gồm 21 câu. Cả hai thang đo đều được đánh giá là đáng tin cậy và có
giá trị cho nhóm dân số lâm sàng và cộng đồng kể cả khác biệt về văn hóa, dân tộc.
Thang đo có thể được sử dụng bởi những bác sĩ không thuộc chuyên ngành tâm thần.
16
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng thang đo Trầm cảm – Lo âu – Stress DASS21 [42].
Thang đo DASS-21 là một bộ câu hỏi tự điền, được thiết kế để đo lường trạng
thái cảm xúc tiêu cực của trầm cảm, lo âu, stress. DASS-21 là phiên bản rút gọn của
DASS-42. Theo nghiên cứu của các tác giả Oei, T. P. Sawang, S. Goh, Y. W. Mukhutar
vào năm 2013 về việc sử dụng thang đo DASS-21, kết quả nghiên cứu khuyến cáo
rằng thang đo DASS-21 phù hợp với người châu Á hơn là thang đo DASS-42 [94]. Từ
khi ra đời, thang đo DASS-21 đã được sử dụng rộng rãi trong nhiều nghiên cứu ở nhiều
quốc gia để đánh giá mối quan hệ và ảnh hưởng của trầm cảm, lo âu và stress trong
nhiều nhóm dân cư, nhóm tuổi, lâm sàng hay cộng đồng và phân biệt stress và trầm
cảm [80] [84] [85]. Một nghiên cứu về chứng trầm cảm, lo âu và căng thẳng trong số
các học sinh ở Ấn Độ thuộc các gia đình giàu có và các yếu tố liên quan được tiến hành
trên 242 học sinh trung học từ lớp 9 đến lớp 12 [88]. Một nghiên cứu khác ở Malaysia
được thực hiện bởi tác giả Khadijah và cộng sự vào năm 2013 trên 506 sinh viên thuộc
trường đại học công lập tại Klang Valley, Malaysia [90]. Nghiên cứu về stress, lo âu
và trầm cảm của tác giả Trần Kim Trang trên 483 sinh viên Y đa khoa và Răng hàm
mặt năm hai tại ĐH Y Dược TP.HCM [39]. Nghiên cứu trên 346 sinh viên khoa Y tế
Công cộng – ĐH Y Dược TP.HCM của tác giả Lê Hoàng Thanh Nhung về stress và
các yếu tố liên quan theo thang đo DASS-21 vào năm 2017 [29].
Một nghiên cứu đánh giá độ tin cậy của thang đo DASS-21 trên thanh thiếu niên
Việt Nam được thực hiện bởi tác giả Lê Thị Minh Hồng, Nguyễn Thanh Hương và các
cộng sự. Nghiên cứu thực hiện trên 1.745 học sinh trung học ở Hà Nội, Việt Nam. Kết
quả nghiên cứu đã chứng minh được tính thích hợp và kiên định của thang đo
(Cronbach α: 0,761 đến 0,906). Giá trị hội tụ của thang đo DASS-21 đã được xác nhận
với các hệ số tương quan trung bình (-0,47 đến -0,66) giữa các điểm số của các yếu tố
và các lĩnh vực liên quan đến sức khỏe tâm thần [77]. Thang đo DASS-21 đã được
chứng minh là có tính thống nhất nội bộ cao và mang lại sự phân biệt có ý nghĩa trong
một loạt các môi trường, thang đo đáp ứng các nhu cầu của các nhà nghiên cứu và các
nhà lâm sàng, những người muốn đo lường trạng thái hiện tại hoặc thay đổi trong trạng
thái theo thời gian về stress, lo âu, trầm cảm [12].
17
Bảng 1.1 Thang đo DASS-21
NỘI DUNG CÂU HỎI
STT
ĐIỂM
DAS
1
Tôi cảm thấy khó mà thoải mái được
2
Tơi bị khơ miệng
A
3
Tơi dường như chẳng có chút cảm xúc tích cực nào
D
1
2
3
4
S
Tơi bị rối loạn nhịp thở (thở nhanh, thở gấp, khó thở
4
5
dù chẳng làm việc gì nặng)
Tơi cảm thấy khó bắt tay vào cơng việc
A
D
Tơi có xu hướng phản ứng thái q với mọi tình
6
S
huống
7
Tơi bị run (tay, chân,…)
A
8
Tơi thấy mình đang suy nghĩ q nhiều
S
Tơi lo lắng về những tình huống có thể làm tơi
9
hoảng sợ hoặc biến tơi thành trị cười
A
10
Tơi thấy mình chẳng có gì để mong đợi cả
D
11
Tơi thấy bản thân dễ bị kích động
S
12
Tơi thấy khó thư giãn được
S
13
Tôi cảm thấy chán nản, thất vọng
D
Tôi không chấp nhận được việc có cái gì đó xen vào
14
cản trợ việc tơi đang làm
S
15
Tơi thấy mình gần như hoảng loạn
A
16
Tơi khơng thấy hăng hái với bất kỳ việc gì nữa
D
17
Tơi thấy mình chẳng đáng làm người
D
18
Tơi thấy mình khá dễ phật ý, tự ái
S
Tôi nghe thấy rõ tiếng nhịp tim dù chẳng làm việc
19
gì cả (tăng nhịp tim, tiếng tim loạn)
A
20
Tơi hay sợ vô cớ
A
21
Tôi thấy cuộc sống vô nghĩa
D