1
..
BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y - DƢỢC THÁI NGUYÊN
BÙI VĂN HỘI
ĐÁNH GIÁ
CƠNG TÁC DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HĨA GIA ĐÌNH
TỈNH HÀ GIANG GIAI ĐOẠN 2008-2012 VÀ ĐỀ XUẤT
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CAN THIỆP ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN BÁC SỸ CHUYÊN KHOA CẤP II
Chuyên ngành: Y tế công cộng
Mã số: 62 72 76 01
Hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Quỳnh Hoa
THÁI NGUYÊN - 2013
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cơng tác dân số - kế hoạch hóa gia đình của nước ta trong những năm
qua đã đạt được những kết quả nhất định, tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng
năm là 1.2% [4]. Tuy nhiên, vẫn cịn những tồn tại và hạn chế nhất định, quy
mơ dân số tiếp tục tăng, mức sinh giảm chậm, chưa bền vững, còn tiềm ẩn
nguy cơ tăng dân số trở lại, khu vực nông thôn chưa đạt mức sinh thay thế và
mức giảm sinh rất chậm. Về cơ cấu dân số, có sự mất cân bằng tỷ số giới tính
khi sinh đã và đang ở mức báo động. Chất lượng dân số được cải thiện, tuổi
thọ bình quân tương đối cao, tuy nhiên chất lượng tuổi thọ còn thấp. Tỷ lệ lao
động qua đào tạo còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa của đất
nước [5].
Hà Giang là một tỉnh miền núi vùng cao, biên giới, trình độ dân trí cịn
thấp khơng đồng đều giữa các vùng, kinh tế cịn gặp nhiều khó khăn tỷ lệ hộ
nghèo cịn cao, giao thơng đi lại khó khăn, diện tích tồn tỉnh là 7.914.9
quy mơ dân số không lớn, theo tổng điều tra dân số ngày 01 tháng 4 năm
2009 là 724.537 người cụ thể: dân tộc Mơng (chiếm 32,0 % tổng dân số tồn
tỉnh), Tày (23,3 %), Dao (15,1 %), Việt (13,3 %), Nùng (9,9 %)…[5]. Trong
những năm qua nền kinh tế đã có nhiều khởi sắc, đã có sự tăng trưởng đáng
kể, tuy vậy đời sống của người dân vẫn cịn gặp nhiều khó khăn, thu nhập
bình qn đầu người cịn thấp, Tỷ lệ hộ nghèo cịn cao 31,52% [8]. Cơng tác
DS – KHHGĐ tuy có đạt được những thành tích đáng kể về mục tiêu giảm
sinh, nhưng thiếu bền vững, còn tiềm ẩn nguy cơ tăng sinh trở lại. Sức khỏe
bà mẹ, trẻ em tuy có cải thiện nhưng rất chậm, hàng năm vẫn cịn tình trạng
3
chết mẹ đáng tiếc xảy ra. Chất lượng dân số ở Hà Giang còn chưa tốt, tỷ lệ trẻ
em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng còn cao 25% [5].
Kết quả thực hiện công tác DS – KHHGĐ của tỉnh Hà Giang trong
những năm qua chưa cao, chưa bền vững, cịn nhiều hạn chế, bất cập. Vì vậy
để thực hiện tốt cơng tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, chiến lược dân số và
sức khỏe sinh sản, chương trình mục tiêu quốc gia dân số và KHHGĐ, cần có
nghiên cứu đánh gía kết quả cơng tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, cũng
như chỉ ra những khó khăn bất cập trong cơng tác Dân số - Kế hoạch hóa gia
đình tỉnh Hà Giang trong 5 năm qua (2008-2012) , từ đó đề xuất một số giải
pháp can thiệp. Vì vậy chúng tơi đã chọn đề tài: “ Đánh giá thực trạng công
tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình tỉnh Hà Giang giai đoạn 2008 – 2012
và đề xuất một số giải pháp can thiệp đến năm 2015”
Mục tiêu của đề tài là:
1. Đánh giá kết quả cơng tác Dân số – Kề hoạch hóa gia đình tỉnh Hà
Giang trong giai đoạn 2008 – 2012.
2. Mơ tả một số khó khăn bất cập trong cơng tác dân số và kế hoạch hóa
gia đình của tỉnh Hà Giang hiện nay.
3. Đề xuất một số giải pháp can thiệp nâng cao công tác Dân số - Kế hoạch
hóa gia đình của tỉnh Hà Giang.
4
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Thực trạng công tác DS – KHHGĐ giai đoạn 2008 - 2012.
1.1.1. Thực trạng cơng tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình
1.1.1.1. Thực trạng công tác Dân số - KHHGĐ của một số nước trên thế giới
và khu vực
*Công tác Dân số - KHHGĐ của Trung Quốc. Trung Quốc xem dân số
lớn như là một tài sản quốc gia và đề ra kế hoạch đại nhảy vọt (1958 – 1960).
Bởi vậy giai đoạn đầu có những luật lệ chống nạo phá thai và triệt sản. Về sau
đã khơng kiểm sốt được tốc độ gia tăng dân số, nên đã quyết liệt trong chính
sách hạn chế sinh đẻ, với khẩu hiệu vận động sinh đẻ có kế hoạch là “chậm,
thưa và ít”. Hiện nay với chính sách cứng rắn mỗi gia đình chỉ có một con (trừ
người thiểu số, rất ít người). Kết quả tổng tỷ suất sinh từ 6,14 con (1949) còn
3,5 con (1962), tiếp đến còn 2,24 vào năm 1979. Với 1,8 con năm 1994 được
tiếp tục duy trì đến năm 2010. Việc duy trì tổng tỷ suất sinh ở mức 1,8 con
trong vòng 15 năm của Trung Quốc là một bài học kinh nghiệm quý báu cho
thế giới, về sự thành cơng trong chính sách giảm sinh. Tuy nhiên Trung Quốc
lại phải đối mặt với tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trầm trọng, với
118 bé trai trên 100 bé gái vào những năm 1980. Mặc dù vậy đến năm 2010
quy mô dân số Trung Quốc là 1,36 tỷ người, lớn nhất và chiếm 21% dân số
thế giới và nguy cơ già hóa dân số đang là vấn đề lớn của Chung Quốc hiện
nay [8], [37], [63].
*Công tác Dân số - KHHGĐ của Indonesia.Năm 1967, khi dân số thế
giới là 111 triệu người, Chính phủ Indonesia đã đề ra chính sách hạn chế sinh
5
đẻ và giảm sự gia tăng dân số. Kết quả tổng tỷ suất sinh từ 5,8 con 1970 đã
giảm xuống còn 2,8 con năm 1994. Mức sinh tiếp tục giảm xuống còn 2,4 còn
năm 2001 và đạt mức sinh thay thế 2,1 con năm 2009. Quy mô dân số từ 119
triệu người năm 1970 tăng lên 230 triệu người năm 2009 và dự báo sẽ lên tới
288 triệu người vào năm 2050. Sau 39 năm thực hiện chương trình KHHGĐ
(1970-2009), Indonesia đã đạt mức sinh thay thế là 2,1 con vào năm 2009 và
quy mô dân số đã tăng lên gấp đôi từ 119 triệu lên 230 triệu, đứng hàng thứ 4
trên thế giới (sau Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ). Tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm là
1,2 % (2009) [8], [37], [63].
*Công tác Dân số - KHHGĐ của Singapore. Tháng 1/1966, Singapore
chính thức triển khai chương trình KHHGĐ quốc gia “khá cứng rắn”, gắn liền
với lợi ích kinh tế và phúc lợi giành cho bà mẹ trẻ em. Nhờ đó tỷ suất sinh thơ
giảm từ 32% năm 1964 xuống còn 22,1 % năm 1970 và 17,6% năm 1980.
Tổng tỷ suất sinh từ 6 còn năm 1957 giảm nhanh xuống còn 2,1 còn năm
1975 và 1,8 con vào năm 1980 (dưới mức sinh thay thế). Tuy nhiên, tổng tỷ
suất sinh duy chỉ ở mức 1,8 còn chỉ trong vòng 1 thập kỷ sau đó tiếp tục giảm
xuống 1,6 cịn năm 2000 và xuống mức thấp báo động là 1,3 cịn vào năm
2007. Chương trình khuyến khích sinh đối với phụ nữ có học vấn, được tiến
hành đồng thời với dự án triệt sản có thưởng tiền nhằm làm giảm mức sinh ở
phụ nữ nghèo có trình độ học vấn thấp. Tuy nhiên, chương trình khuyến khích
sinh cho các bà mẹ đã tốt nghiệp đại học và triệt sản đối với người có học vấn
thấp khơng đạt được kết quả như mong muốn [8], [37], [63].
*Công tác Dân số - KHHGĐ của Thái Lan. Tháng 3 năm 1970, Chính
phủ Thái Lan tuyên bố ủng hộ chương trình DS-KHHGĐ và đã ban hành
chính sách giảm sinh. Trong 3 thập kỷ thực hiện thành cơng chương trình
KHHGĐ, tỷ lệ gia tăng dân số giảm nhanh, từ 3,5 % năm 1961 giảm xuống
6
còn 1,4% năm 1980, tổng tỷ suất sinh từ mức rất cao 6,6 còn giảm nhanh
xuống 3,7 còn năm 1991 và giảm xuống mức sinh thay thế 2,1 còn năm 1992.
Hiện nay tổng dân số của Thái Lan là 63,389 triệu người. Tỷ lệ người trên 60
tuổi chiếm 11,5 %, Dân số đô thị chiếm 36,1 %. Tổng tỷ suất sinh của Thái
Lan là 1, 5 con, tuổi thọ bình quân khoảng 73 tuổi (tương đương với VN), tỷ
lệ chết 12,5 % [8], [37], [63].
*Công tác Dân số - KHHGĐ Hàn Quốc. Từ năm 1960 Hàn Quốc thực
hiện chính sách hạn chế sinh đẻ, với tổng tỷ suất sinh ở mức sinh tiềm tàng là
6 con/phụ nữ (1960). Kể từ khi thực hiện chương trình KHHGĐ, mức sinh
giảm rất nhanh xuống 4,4 con năm 1971 xuống 1,58 con năm 1989. Hiện nay
chỉ có mức sinh 1,08 con ( 2005) mức sinh thấp nhất thế giới. Hiện nay Hàn
Quốc chuyển sang chính sách khuyến sinh, để ứng phó với mức sinh thấp,
thấp hơn Thụy Điển, Pháp, Hoa Kỳ và bước sang thời kỳ già hóa dân số [8],
[37], [63].
*Cơng tác Dân số - KHHGĐ của Ấn Độ. Ấn Độ hiện đứng thứ 2 thế giới
(Sau Trung Quốc) về quy mô dân số, với hơn 1,2 tỷ người, trong đó nữ chiếm
48,46% tổng dân số. Quy mô dân số hiện tại của Ấn Độ tương đương với tổng
dân số của các nước Mỹ, Indonesia, Brazil, Pakistan, Bangladesh và Nhật Bản
cộng lại. Ấn Độ đã xác định mục tiêu mỗi gia đình có 2 con và đạt mức sinh
thay thế vào năm 2000. Tỷ lệ sinh giảm từ 41,7 % năm 1961 xuống 31,5%
năm 1985, tỷ lệ chết giảm từ 22,8 % xuống 11,6%. Tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh
dưới 1 tuổi vẫn cịn cao, khoảng 10,5 %. Tuổi thọ trung bình lúc sinh của nam
là 56,75, của phụ nữ là 56,65 (1985). Ấn Độ vẫn còn tư tưởng nặng nề về
trọng nam khinh nữ, dẫn đến tỷ lệ chết của trẻ em nữ rất cao và tuổi thọ bình
quân của nữ thấp. Phụ nữ Ấn Độ lấy chồng sớm, tuổi kết hơn trung bình của
nữ giai đoạn 1951 đến 1961 là 15,5 tuổi, giai đoạn 1961 đến 1971 tăng lên
7
17,1 tuổi. Tổng tỷ suất sinh đã giảm từ 5,8 con (1965) xuống 4,2 con năm
1985 [8], [37], [63].
1.1.1.2. Thực trạng cơng tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam qua
các giai đoạn
Khi dân số thế giới đạt 3 tỷ người và dân số Việt Nam vượt qua 30 triệu
người thì Chính phủ Việt Nam ban hành Quyết định số 216/CP ngày
26/12/1961 về việc sinh đẻ có hướng dẫn, đó là văn bản có pháp quy đầu tiên
của nước ta về chính sách dân số. Theo thời gian, dựa vào đặc điểm của đất
nước và tính chất của cơng tác DS - KHHGĐ, q trình hình thành và phát
triển chính sách đã trải qua các giai đoạn lịch sử. Cũng từ năm 1961 đến nay,
thực hiện các chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước về DS-KHHGĐ
đặc điểm là sau 10 năm thực hiện chiến lược Dân số Việt Nam và chiến lược
quốc gia về CSSKSS, thực hiện cam kết Quốc tế về dân số phát triển và mục
tiêu phát triển thiên niên kỷ, công tác DS-KHHGĐ của Việt Nam đã đạt được
những kết quả quan trọng. Mức sinh và tỷ lệ tăng dân số đã giảm mạnh: Nếu
đầu kỷ nguyên dân số Việt Nam chỉ bằng 0,6% dân số thế giới thì nay đã gần
bằng 1,4%. Như vậy, tỷ lệ tăng dân số Việt Nam vượt xa tỷ lệ tăng bình quân
dân số thế giới. Mặc dù những năm qua, Việt Nam đã phấn đấu giảm tốc độ
tăng tự nhiên dân số (từ 3,4% năm 1955 xuống 2,2% năm 1990), nhưng vẫn
còn cao hơn tốc độ tăng bình quân dân số thế giới. Năm 1990, tỷ lệ tăng dân
số Việt Nam còn lớn hơn cả tỷ lệ tăng dân số của các nước chậm phát triển
(tốc độ tăng bình quân của các nước này thời kỳ 1985-1990 là 2,1%). Từ sau
nghị quyết Trung ương 4 tháng 1/1993, tỷ lệ tăng dân số của Việt Nam đã
giảm mạnh. Năm 2004, tỷ lệ tăng dân số chỉ còn là 1,4%, và đến năm 2006, tỷ
lệ tăng dân số của Việt Nam chỉ còn là 1,26%. Hiện nay, theo số liệu Tổng
8
điều tra dân số 2009, tỷ lệ tăng dân số bình quân trong 10 năm qua (19992009) của Việt Nam là 1, 2% [8].
* Chính sách DS-KHHGĐ và kết quả đạt được ở giai đoạn 1961-1975
Trong giai đoạn này, đất nước tạm bị chia cắt thành 2 miền Nam, Bắc, hịa
bình được tái lập ở Miền Bắc và hiện tượng tăng bù dân số sau chiến tranh đã
xuất hiện. Chính sách DS-KHHGĐ trong giai đoạn này được thông qua cuộc
vận động (hướng dẫn sinh đẻ) đó là “sinh đẻ có kế hoạch” và được triển khai
ở các tỉnh Miền Bắc với nội dung quan trọng của 3 quyết định và chỉ thị chủ
yếu được chính phủ ban hành. Mục tiêu của cuộc vận động là hướng tới quy
mơ gia đình 3 con đẻ thưa, đẻ muộn nhằm bảo vệ sức khỏe bà mẹ, nuôi dậy
con cái được chu đáo bảo đảm hạnh phúc và sự hịa thuận của gia đình. Kết
quả thực hiện mục tiêu trong giai đoạn này là: Tỷ lệ sinh ở các tỉnh Miền Bắc
đã giảm từ 43, 9% năm 1960 xuống còn 33,2% năm 1975, mức giảm sinh
trong 15 năm là 10,7 % bình quân mỗi năm giảm được 0,71% tổng tỷ suất
sinh giảm từ 6,4 con năm 1960 xuống còn 5,2 con năm 1975. Tỷ lệ chết giảm
nhanh từ 11,7% năm 1960 xuống còn 7,5 % năm 1975. Số dân cả nước tăng
từ 30,17 triệu người năm 1960 lên 47,64 triệu người năm 1975 (tăng 1,58 lần)
[8], [37], [63]. Đối tượng vận động chủ yếu là phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã
đông con, những người đẻ quá dày sức khỏe kém, sinh hoạt gặp nhiều khó
khăn và trước hết là đối với nữ công chức, viên chức nhà nước, nữ trong các
lực lượng vũ trang và nữ ở các vùng đồng bằng đông dân. Phạm vi cuộc vận
động được triển khai ở các tỉnh Miền Bắc, tập trung chủ yếu ở vùng thành thị
vùng nông thôn đồng bằng sông hồng đồng bằng khu bốn cũ và giới hạn vào
chỉ tiêu số lượng người thực hiện các biện pháp tránh thai.
* Chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia đình và kết quả đạt được giai
đoạn 1975 – 1991. Sau ngày thống nhất đất nước số dân cả nước đã xấp xỉ 48
9
triệu người tăng gần gấp đôi số dân năm 1955 qua 20 năm đất nước bị chia
cắt. Chính sách DS-KHHGĐ trong giai đoạn này được triển khai trong phạm
vi cả nước với những nội dung chủ yếu được Chính phủ ban hành trong 5 văn
bản quan trọng nhằm đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch.
Sau một thời gian tạm lắng, cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch lại được phát
động sâu rộng và được triển khai rộng khắp trên toàn quốc, để chuẩn bị cho
một sự phục hưng nền kinh tế thông qua đại hội lần thứ IV, lần V và lần thứ
VI của Đảng. Công tác DS-KHHGĐ trong giai đoạn này được xác định là vị
trí quốc sách trong sự nghiệp phát triển đất nước. Mục tiêu cuộc vận động
trong giai đoạn này là đẻ ít (2,3 con), đẻ muộn từ 22 tuổi trở lên và đẻ thưa
(cách nhau từ 3 đến 5 năm), các mục tiêu cụ thể này đã được xác định tại đại
hội IV (1976). Tuy nhiên, kết quả thực sự trong giai đoạn này không đạt, tỷ lệ
sinh chỉ giảm từ 32,5% năm 1975 xuống còn 31% năm 1985. Tỷ lệ chết gần
như không giảm là 7,5 % năm 1975 và 7,3% năm 1989. Số dân từ 47,64 triệu
người vào năm 1975, tăng lên 67,24 triệu người năm 1991 tăng gấp 1,41 lần
so với số dân năm 1975 [8], [37], [63].
* Chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia đình và kết quả đạt được giai
đoạn 1991-2000. Năm 1991 là năm đánh dấu sự biến đổi xã hội của đất nước,
công cuộc đổi mới đã đi vào cuộc sống với nhiều chính sách kinh tế - xã hội
được ban hành và phát huy tác dụng. Năm có một tổ chức bộ máy chuyên
trách lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam về công tác DS-KHHGĐ. Trong giai
đoạn này, chính sách DS-KHHGĐ đã được thể hiện trong 7 văn bản quan
trọng của Chính phủ. Tại Đại hội Đảng lần thứ VII xác định vị trí, vai trị và
u cầu đối với công tác DS-KHHGĐ là “Giảm tốc độ gia tăng dân số là 1
quốc sách, và trở thành cuộc vận động rộng lớn, mạnh mẽ và sâu sắc trong
toàn dân”. Cùng với những quan điểm, giải pháp là chính sách đầu tư và tổ
chức bộ máy cho hoạt động DS-KHHGĐ. Với mục tiêu tổng quát của chính
10
sách DS-KHHGD là “thực hiện gia đình ít con, khỏe mạnh, tạo điều kiện để
có cuộc sống ấm no, hạnh phúc“ và mục tiêu cụ thể là “ mỗi gia đình chỉ có 1
hoặc 2 con. Kết quả thực hiện vượt rất xa so với mục tiêu đã đề ra. Tổng tỷ
suất sinh giảm nhanh từ 3,74 con từ 1992 xuống 2,28 con (2000), thấp hơn
0,62 con so với mục tiêu đề ra là 2,9 con vào năm 2000. Tỷ lệ sinh giảm từ
30,04% xuống 19,17%, bình quân mỗi năm giảm tới 1,35%. Tỷ lệ chết giảm
từ 7,3% (1989) xuống cịn 5.7% (1999). Quy mơ dân số tăng từ 67,24 triệu
người năm 1991 lên 77,64 triệu người năm 2000 thấp hơn 4,36 triệu người so
với mục tiêu đề ra là khoảng 82 triệu người năm 2000 [7], [36], [62]. Trong
những năm trước đây, vấn đề DS-KHHGĐ là vấn đề nóng bỏng ở nước ta.
Bởi vậy Đảng và Nhà nước đã đặt ra vấn đề DS vào vị trí chiến lược. Ngồi
những chính sách tích cực tun truyền vận động, động viên nhân dân và các
dân tộc tham gia hưởng ứng phong trào KHHGĐ, với khẩu hiệu “mỗi gia
đình chỉ đẻ 1 đến 2 con...” Chúng ta có những giải pháp cương quyết nhằm
thúc đẩy thực hiện triệt để chủ trương chính sách... do đó, chương trình DSKHHGĐ đã gặt hái được những thành cơng to lớn. Có được những thành tựu
đó chính là nhờ vào việc đầu tư đúng đắn và tập trung vào việc đào tạo cán
bộ, nghiên cứu lý luận và công tác thông tin, truyền thông đi đơi với dịch vụ
DS-KHHGĐ. Từ đó có thể thấy rằng khả năng kiểm soát mức sinh của nước
ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên vẫn còn nhiều tiềm ẩn
những nguy cơ, thách thức về tỷ lệ sinh và mất cân bằng giới tính khi sinh,
chất lượng Dân số và các vấn đề khác về DS.
* Chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia đình và kết quả đạt được giai
đoạn 2001-2010. Chính sách DS-KHHGĐ trong giai đoạn này thể hiện trong
18 văn bản quan trọng của trung ương Đảng và Chính phủ. Cho đến nay, công
tác DS-KHHGĐ của nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Xu thế
giảm sinh được duy trì và mục tiêu đạt mức sinh thay thế đã được thực hiện.
11
Mức sinh liên tục giảm trong 50 năm qua nhất là trong 10 năm gần đây. Kết
quả tổng điều tra 01/4/2009 cho thấy sau 10 năm dân số nước ta tăng thêm
9,47 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 947 nghìn người. Tỷ lệ tăng dân số
bình quân năm (gọi tắt là tỷ lệ tăng dân số) trong thời kỳ giữa 2 cuộc tổng
điều tra năm 1999 và 2009 là 1,2 % giảm mạnh so với thời kỳ 10 năm trước
(1989-1999) mỗi năm tăng gần 1.200 nghìn người với tỷ lệ tăng là 1,7%
/năm). Đó là thời kỳ có tỷ lệ tăng dân số thấp nhất trong thời kỳ qua. [8], [37],
[63]. Về cơ cấu dân số: Kết quả giảm sinh còn làm thay đổi rõ rệt cơ cấu dân
số theo tuổi. Việt Nam bước vào giai đoạn “cơ cấu dân số vàng” tạo lợi thế
về nguồn nhân lực, một điều kiện quan trọng để nền kinh tế tăng trưởng
nhanh và bền vững. Dân số trẻ (dưới 15 tuổi) giảm từ 33,1% tổng dân số năm
1999 xuống còn 24,5% năm 2009. Tỷ lệ dân số già (trên 65 tuổi) cũng tăng từ
5,8% năm 1999 lên 6,4% năm 2009. Mục tiêu đạt mức sinh thay thế đã trở
thành hiện thực (tổng tỷ suất sinh 2005 là 2,1 con vào năm 2009 là 2,03 con)
[8], [37], [63]. Chất lượng dân số được nâng lên, tuổi thọ bình quân năm 2009
đạt 72,8 tuổi tăng 4,3 tuổi so với năm 1999 đặc biệt tuổi thọ trung bình của
phụ nữ tăng 5,5 tuổi. Số năm đi học trung bình đã đạt 9,6 vào năm 2006. Chỉ
số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng từ 0,690 điểm năm 2000
lên 0,725 điểm năm 2009. [8], [37], [63]. Sức khỏe sinh sản được cải thiện, tỷ
suất chết trẻ em dưới 1 tuổi giảm mạnh ở tất cả các vùng. Bình quân cả nước
giảm từ 36,7% (1999) xuống còn 18,9% ( 2009). Tỷ lệ các cặp vợ chồng sử
dụng biện pháp tránh thai tăng 61% (2000) lên 68,8% (2009), một số biện
pháp tránh thai mới được thử nghiệm và đã được triển khai rộng trên toàn
quốc. [8], [37], [63].
Thế giới đánh giá cao về Việt Nam sau gần 50 năm hoạt động, chương
trình DS-KHHGĐ có lịch sử lâu đời trong khu vực. Mặc dù trải qua rất nhiều
biến động xã hội, với nhiều tổ chức và cách quản lý khác nhau, chương trình
12
dân số cũng được thế giới đánh giá là một chương trình thành cơng. Tuy
nhiên, cùng với những thành tựu đã đạt được, trong công cuộc đổi mới đất
nước, chương trình DS-KHHGĐ của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng
cịn nhiều khó khăn, thách thức [8], [37], [63].
* Chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia đình hiện nay. Quyết định số
248/QĐ-TCDS, ngày 29/7/2011 của Tổng cục DS/KHHGĐ về việc ban hành
Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ dân số-KHHGĐ cho cán bộ, công chức,
viên chức làm công tác DS-KHHGĐ. Thông tư số 12/TT-BNV ngày
04/8/2011 của Bộ Nội vụ về việc Ban hành chức danh, mã số các ngạch viên
chức dân số. Nghị định số 56/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ
Quy định chế độ phụ cấp ưu đãi nghề đối với công chức, viên chức công tác
tại các cơ sở y tế công lập.
. Quy mô dân số Việt Nam Năm 1921 dân số nước ta mới chỉ đạt 15
triệu rưỡi. Đến nay (tại thời điểm Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 1 tháng 4
năm 2009), dân số nước ta đã đạt 85,7 triệu người. Trong vòng nửa cuối của
thế kỷ thứ 20, từ 1945 đến 1999, dân số đã tăng từ 23 triệu lên 76,5 triệu (tăng
hơn 3 lần). [8].
.Cơ cấu dân số Việt Nam
Ở Việt Nam, cơ cấu dân số trẻ nên tỷ số phụ thuộc trẻ em lớn hơn tỷ số
phụ thuộc người già. Tuy nhiên, tỷ số phụ thuộc trẻ em đang giảm dần vì mức
sinh của Việt Nam đã giảm thấp trong những năm gần đây:
Tỷ số phụ thuộc trẻ (0-14) năm 1979 là: 81,3; Năm 1989 là: 69,8; Năm
2999 là: 54,2; Năm 2009 là: 36,6. Tỷ số phụ thuộc già (65+) năm 1979 là:
13,6; Năm 1989 là: 8,4; Năm 2999 là: 9,4; Năm 2009 là: 9,7. Tỷ số phụ thuộc
chung năm 1979 là: 95,0; Năm 1989 là: 78,2; Năm 2999 là: 63,6; Năm 2009
là: 46,3 [8].
13
Dân số Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ chuyển từ dân số trung
gian giữa trẻ và già sang dân số già. Số liệu sau đây cho thấy điều đó:
Nhóm tuổi 0 - 4 tuổi năm 1979 là: 42,5; Năm 1989 là: 39,2; Năm 2999
là: 33,1; Năm 2009 là: 24,5. Nhóm tuổi 15 - 64 tuổi năm 1979 là: 53,1; Năm
1989 là: 56,1 ; Năm 2999 là: 61,1; Năm 2009 là: 69,1. Nhóm tuổi 65+, năm
1979 là: 4,4; Năm 1989 là: 4,7; Năm 2999 là: 5,8; Năm 2009 là: 6,4 [8].
Theo số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở ngày 1/4/2009, trong tổng
số 63 tỉnh/thành phố của Việt Nam, 20 tỉnh/thành phố có người từ 60 tuổi trở
lên chiếm trên 10%, trong đó cao nhất là tỉnh Thái Bình (14,1%), tiếp đến là
Hà Tĩnh (13,3%). Có 6 tỉnh/thành phố có tỷ trọng người từ 60 tuổi trở lên trên
9% tổng số dân. Số lượng các tỉnh/thành phố có tỷ lệ người già dưới 6% là 7
tỉnh, trong đó tỷ trọng này thấp nhất là ở tỉnh Đăk Nông (4,0%) và Lai Châu
(4,8%). Theo số liệu của các Tổng điều tra Dân số và Nhà ở các năm 1979,
1989, 1999, 2009, tỷ số giới tính của trẻ em khi sinh như sau: Năm 1979:
105.0; Năm 1989: 106.0; Năm 1999: 107.0; Năm 2009: 110.6. [8].
. Phân bố dân số Việt Nam. Ở Việt Nam, tổng dân số trước hết được
chia theo các đơn vị hành chính, như tỉnh/thành phố, quận/huyện,
xã/phường... Nước ta hiện nay được chia thành 63 tỉnh và thành phố trực
thuộc Trung ương. Theo số liệu thống kê ngày 1/4/2009, đơn vị hành chính có
số dân lớn nhất nước ta là thành phố Hồ Chí Minh với 7.123 nghìn người, tiếp
đến là thành phố Hà Nội với 6.449 nghìn người, Thanh Hố với 3.400 nghìn
người, Nghệ An với 2.913 nghìn người... Các tỉnh có số dân thấp nhất là Bắc
Cạn với số người là 293.826 người và Lai Châu với 370 502 người. [8]. Do
điều kiện tự nhiên và lịch sử, dân số Việt Nam phân bố không cân đối theo
các vùng địa lý-kinh tế (xét về phương diện tiềm năng đất đai và tài nguyên
thiên nhiên với nguồn nhân lực). Do đó, việc xác định số dân theo các vùng
địa lý-kinh tế có ý nghĩa quan trọng phục vụ cho việc phân bố và tái phân bố
14
lực lượng sản xuất, lao động và dân cư. Dưới tác động của tăng tự nhiên dân
số và di dân việc phân bố lại dân cư theo vùng địa lý - kinh tế trong thời gian
qua đã có những thay đổi đáng kể.
.Chất lượng dân số Việt Nam. Chỉ số HDI của Việt Nam xếp hàng 116
trên tổng số 182 nước, tương đương với mức trung bình của các nước đang
phát triển. Đáng lưu ý, thứ tự của chỉ tiêu HDI cịn cao hơn thứ tự về GDP bình
qn đầu người tới 13 bậc (GDP tính theo PPP Việt Nam năm 2007 là 2.600
USD, chỉ số GDP năm 2007 của Việt Nam xếp thứ 129 trong 182 nước), chứng
tỏ nước ta đã kết hợp tốt các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế với việc giải quyết
các vấn đề xã hội theo hướng lấy con người làm trung tâm của sự phát triển [8].
1.1.2. Mơ hình tổ chức Dân số - Kế hoạch hóa gia đình hiện nay
1.1.2.1. Một số quy định về Dân số - Kế hoạch hóa gia đình trong giai đoạn
hiện nay
- Tuyến Trung ương.Thực hiện Nghị quyết số 01/2007/QH12 ngày
31/7/2007 của Quốc hội về cơ cấu Chính phủ khố 12, ngày 8/8/2007, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1001/QĐ-TTg về việc giải thể Uỷ
ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (DSGĐTE), chuyển các chức năng của Uỷ
ban này sang các bộ có liên quan thực hiện. Do vậy chức năng, nhiệm vụ
quản lý nhà nước về dân số và nguyên trạng về tổ chức, biên chế, cán bộ,
công chức, viên chức làm công tác dân số thuộc Uỷ ban DSGĐTE đã được
chuyển sang Bộ Y tế.
Ngày 27/12/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 188/2007/NĐCP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế,
trong đó, Tổng cục DS-KHHGĐ là một tổ chức thuộc Bộ y tế.
Ngày 29/2/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
18/2008/QĐ-TTg về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Tổng cục DS-KHHGĐ thuộc Bộ Y tế, trong đó quy định Tổng cục có 6 tổ
15
chức hành chính và 3 đơn vị sự nghiệp trực thuộc thực hiện chức năng tham
mưu giúp Bộ trưởng Bộ Y tế quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ bao gồm các
lĩnh vực: Quy mô dân số, cơ cấu dân số và chất lượng dân số; chỉ đạo các hoạt
động chuyên môn, nghiệp vụ về DS-KHHGĐ trong phạm vi cả nước.
Ngày 12/3/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
17/2013/QĐ-TTg về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Tổng cục DS-KHHGĐ thuộc Bộ Y tế, trong đó quy định Tổng cục có 7 tổ
chức hành chính giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước
và 4 đơn vị sự nghiệp trực thuộc. Tổng cục thực hiện chức năng tham mưu
giúp Bộ trưởng Bộ Y tế quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ bao gồm các lĩnh
vực: Quy mô dân số, cơ cấu dân số và chất lượng dân số; chỉ đạo các hoạt
động chuyên môn, nghiệp vụ về DS-KHHGĐ trong phạm vi cả nước.
- Tuyến Địa phương
Ngày 04/02/2008 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2008/NĐ-CP
và Nghị định số 14/2008/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện, trong đó quy định rõ Sở Y tế, phòng Y tế
tham mưu giúp UBND cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, bao gồm cả lĩnh vực DSKHHGĐ.
Ngày 14/5/2008 Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 05/2008/TT-BYT
hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy DS-KHHGĐ ở địa
phương. Trên cơ sở đó, Chi cục DS-KHHGĐ ở cấp tỉnh và Trung tâm DSKHHGĐ đặt tại cấp huyện đã được hình thành. Đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ
được kiện toàn, đặc biệt đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác DS-KHHGĐ
cấp xã đang từng bước được tuyển dụng thành viên chức thuộc trạm y tế.
1.1.2.2.Cơ cấu tổ chức bộ máy DS - Kế hoạch hóa gia đình trên tồn quốc
16
*Cấp tỉnh. Chi cục DS-KHHGĐ các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung
ương (tỉnh/TP) 63/63 tỉnh, thành phố trên cả nước đã kiện toàn và từng bước
ổn định. Hầu hết các tỉnh đều thành lập 3 phòng tại Chi cục theo đúng hướng
dẫn tại Thơng tư số 05/2008/TT-BYT; có 4 tỉnh/TP thành lập 4 phịng. (Hà
Nội, TP.Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hậu Giang) [18], [20]
08 tỉnh/TP (Hà Nội, Hồ Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Bình
Dương, Tiền Giang và Kiên Giang). thành lập Trung tâm Tư vấn, dịch vụ DSKHHGĐ (các Trung tâm được thành lập trên cơ sở Trung tâm Tư vấn dịch vụ
Dân số, Gia đình và Trẻ em thuộc Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em trước
đây); Trung tâm là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Chi cục DS-KHHGĐ, với
tổng số biên chế được giao của 8 Trung tâm là 59 chỉ tiêu. Số cán bộ hiện có
là 59, trong đó 54 biên chế và 05 hợp đồng. [18], [20]
Về đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức:
+ Tổng số chỉ tiêu biên chế được phân bổ của 63 Chi cục DS-KHHGĐ
là 1.110 người (bình quân 17,6 người/Chi cục), trong đó có: 16 Chi cục được
phân bổ từ 20 chỉ tiêu biên chế trở lên; 21 Chi cục được phân bổ từ 16 đến 19
chỉ tiêu biên chế, 26 Chi cục được phân bổ từ 10 đến 15 chỉ tiêu biên chế.
+ Tổng số cán bộ hiện có của các Chi cục là 1.133 người trong đó: 919
biên chế và 214 hợp đồng lao động.
+ Về chất lượng đội ngũ cán bộ của các Chi cục như sau: 68,3% có
trình độ đại học và trên đại học, 27.4% có trình độ trung học chun nghiệp;
4.2% có trình độ sơ cấp (chủ yếu là lái xe và phục vụ).
+ Về chuyên ngành đào tạo: 32.2% được đào tạo chuyên môn y tế;
25.1% được đào tạo chuyên môn về kinh tế; 19.2% được đào tạo chuyên môn
về khoa học xã hội và 23.5% được đào tạo chuyên ngành khác. [18], [20]
*Cấp huyện
17
+ Hiện nay đã có 62/63 tỉnh/TP thành lập Trung tâm DS-KHHGĐ
cấp huyện. Các Trung tâm đã từng bước triển khai chức năng và nhiệm vụ
được giao. Một số tỉnh/TP, có mơ hình tổ chức khác với hướng dẫn tại
Thơng tư số 05/2008/TT-BYT: (TP Hồ Chí Minh giao việc thực hiện cơng tác
DS-KHHGĐ ở cấp huyện cho một nhóm cơng chức của Phịng Y tế và phân
cơng 01 Phó phịng Y tế phụ trách cơng tác DS-KHHGĐ.
+ Có 4 tỉnh/TP: TP Hà Nội, Gia Lai, Bình Phước và Quảng Trị thành
lập Trung tâm DS-KHHGĐ trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện.
+ Một số tỉnh như Đồng Nai, Cà Mau, … đã sát nhập Khoa Chăm sóc
sức khỏe sinh sản thuộc Trung tâm y tế vào Trung tâm DS-KHHGĐ cấp
huyện để gắn việc triển khai sự nghiệp DS-KHHGĐ với công tác chăm sóc
sức khỏe sinh sản của địa phương). [18], [20]
* Về đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức:
+ Tổng số chỉ tiêu biên chế sự nghiệp được phân bổ của Trung tâm
DS-KHHGĐ cấp huyện của 62 tỉnh/TP là 3.867 người; bình qn 5,7
người/Trung tâm. (TP Hồ Chí Minh sử dụng biên chế hành chính tại các
phịng Y tế huyện). Số chỉ tiêu biên chế sự nghiệp của các Trung tâm được
phân bổ như sau: 38 tỉnh được phân bổ từ 6 chỉ tiêu biên chế trở lên/huyện;
15 tỉnh được phân bổ 5 chỉ tiêu biên chế/huyện; 7 tỉnh được phân bổ 4 chỉ
tiêu biện chế/huyện; 02 tỉnh được phân bổ 3 chỉ tiêu biên chế/huyện.
+ Tuy nhiên, số cán bộ hiện có tại các Trung tâm của 62 tỉnh/TP còn
thấp hơn số biên chế được giao, chỉ là 3.657 người (trong đó 3.150 biên
chế và 507 hợp đồng), số cán bộ trong biên chế hiện có đạt 81% chỉ tiêu
biên chế được giao.
+ Về trình độ cán bộ: 44.0% cán bộ có trình độ đại học và sau đại học;
51.7% cán bộ có trình độ trung cấp chun nghiệp; 4.3% có trình độ sơ cấp.
18
+ Về chuyên ngành đào tạo có: 40.7% được đào tạo chuyên môn y tế;
26.8% được đào tạo chuyên môn về kinh tế; 13.3% được đào tạo chuyên môn
về khoa học xã hội và 19.2% được đào tạo chuyên ngành khác. [18], [20]
1.2. Khó khăn, bất cập trong cơng tác dân số - kế hoạch hóa gia đình
1.2.1. Sự biến động về tổ chức
Từ năm 1961 đến nay, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ
ở nước ta đã 6 lần thay đổi bộ máy tổ chức theo các giai đoạn.
1. Giai đoạn 1961-1970: Năm 1961 Ban vận động sinh đẻ có kế hoạch
do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban. Cơ quan thường trực được giao
làm công tác DS-KHHGĐ là Bộ Y tế.
2. Giai đoạn 1970-1974: Năm 1971 thành lập Ủy ban Bảo vệ Bà mẹ Trẻ
em và Sinh đẻ có kế hoạch để đảm nhiệm cơng tác chăm sóc, bảo vệ bà mẹ trẻ
em, trong đó sinh đẻ có kế hoạch được coi là một chức năng quan trọng của Ủy
ban. Công tác DS-KHHGĐ được chuyển giao cho cơ quan này. Tổ chức bộ
máy của Ủy ban được hình thành từ Trung ương đến cấp huyện và toàn bộ hệ
thống tổ chức, cán bộ được tách khỏi Bộ Y tế.
3. Giai đoạn 1974-1984: Năm 1974 giải thể Ủy ban BV BM&TE, hệ thống
dịch vụ KHHGĐ được sát nhập vào Bộ Y tế, phần nuôi dạy trẻ được chuyển
sang Bộ Giáo dục, Công tác DS-KHHGĐ được giao lại cho Bộ Y tế đảm nhiệm.
4. Giai đoạn 1984-2002: Năm 1984 thành lập Ủy ban Quốc gia Dân số
và sinh đẻ có kế hoạch hay được gọi là Ủy ban quốc gia DS-KHHGĐ. Ngày
19/6/1991 Chính phủ ban hành Nghị định số 193/HĐBT, kiện toàn bộ máy
của Ủy ban DS-KHHGĐ từ trung ương đến cấp cơ sở.
5. Năm 2002: Thành lập Ủy ban Dân số-Gia đình và Trẻ em các cấp trên
cơ sở hợp nhất Ủy ban DS-KHHGĐ và Ủy ban Bảo vệ BM và CSTE.
19
6. Năm 2007-2008: Giải thể Ủy ban quốc gia Dân số - Gia đình và Trẻ em;
sát nhập bộ phận DS-KHHGĐ vào Bộ Y tế. Thành lập Tổng cục DS-KHHGĐ là
tổ chức thuộc Bộ Y tế. Ở địa phương thành lập Chi cục DS-KHHGĐ trực thuộc
Sở Y tế và Trung tâm DS-KHHGĐ cấp huyện trực thuộc Chi cục DS-KHHGĐ.
1.2.2. Chế độ chính sách dân số
- Nghị định số 92/2009/NĐCP, ngày 22 tháng 10 năm 2009 về việc quy
định về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công
chức ở xã, phường, thị trấn, và những người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã.
- Thông tư số 05/2008/TT-BYT, ngày 14/5/2008 Bộ Y tế hướng dẫn
chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy DS-KHHGĐ ở địa phương.
1.2.3. Nguồn lực
Cơ sở vật chất, trang thiết bị còn thiếu, chưa đồng bộ. Chưa tuyển đủ
cán bộ chuyên trách dân số xã theo quy định, cán bộ trạm y tế xã cịn đang
phải khiêm nghiệm cơng tác dân số. Kinh phí chương trình mục tiêu cấp hàng
năm chậm, ngân sách địa phương thấp.
1.2.4. Những hạn chế trong công tác DS-KHHGĐ
+ Về mức sinh thay thế, đến năm 2009 cịn có 28/63 tỉnh thành phố
thuộc các vùng trung du và miền núi phía bắc, bắc trung bộ và duyên hải miền
trung, tây nguyên chưa đạt mức sinh thay thế.
+ Chất lượng dân số còn hạn chế và chậm được cải thiện. Mặc dù tuổi
thọ bình quân đạt 72,8 tuổi (2009) chỉ số phát triển con người tăng, nhưng
Việt Nam chưa cải thiện được thứ hạng trong nhóm các nước có chỉ số phát
triển con người ở mức trung bình, tuổi thọ khỏe mạnh chỉ đạt 66 tuổi và đứng
thứ 116/182 nước trên Thế giới. Tỷ lệ dân số đã qua đào tạo chun mơn kỹ
thuật cịn rất thấp, tính đến 2009 chỉ cịn 13,4% dân số từ 15 tuổi trở lên được
đào tạo về chuyên môn kỹ thuật. Tỷ lệ vô sinh, nhất là vô sinh thứ phát khá
20
cao trong đó nguyên nhân chủ yếu là do viêm nhiễm sinh dục. Khả năng tiếp
cận các dịch vụ hỗ trợ các dịch vụ sinh sản còn hạn chế. Nhiễm khuẩn đường
sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, tỷ lệ nhiễm HIV và ung thư
đường sinh dục vẫn có xu hướng ra tăng. Tỷ lệ phá thai cịn khá phổ biến và
có xu thế tăng ở vị thành niên và thanh niên. Tình trạng phá thai cịn nhiều ở
mức 29 ca phá thai trên 100 trẻ sinh ra sống, trong đó phá thai nhiều lần cịn
phổ biến.
+ Tư tưởng chủ quan, một số cấp lãnh đạo của Đảng và chính quyền
cịn có tư tưởng thỏa mãn, bng lỏng trong lãnh đạo, chỉ đạo, công tác DS KHHGĐ, chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng, ý nghĩa chiến lược của
công tác này đối với sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước.
+ Thiếu sự ổn định trong tổ chức; trong nhiều thập niên qua sự thay đổi
về phương thức tổ chức bộ máy làm công tác dân số đã bộc lộ những bất cập:
Không ổn định và thiếu hồn thiện, đã tác động khơng nhỏ đến việc tổ chức
thực hiện công tác DS-KHHGĐ. [27]
1.2.5. Thách thức
Mặc dù Việt Nam đã đạt mức sinh thay thể, nhưng dân số nước ta vấn
đang trong giai đoạn nhạy cảm với những yếu tố tác động, chưa loại trừ được
khả năng mức sinh tăng trở lại. Mặt khác cịn có sự khác biệt về mức sinh
giữa các vùng, với 1/5 số tỉnh có mức sinh cịn khá cao, đặc biệt vùng sâu
vùng xa vùng dân tộc thiểu số, vùng kinh tế chậm phát triển.
Sự đối mặt với đà tăng DS trong gian đoạn 2011-2020 chúng ta sẽ phải
đối mặt với hiện tượng mà các nhà nhân khẩu gọi là đà tăng DS nữ được sinh
ra trong những năm 80/90 của thế kỷ trước có quy mơ lớn sẽ bước vào độ tuổi
mắn đẻ nhất. Tổng số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15 đến 49) tiếp tục tăng
nhanh và đạt được mức khoảng 25,1 triệu người vào năm 2020. Nếu mỗi
21
người phụ nữ sinh 2 con theo chính sách dân số hiện hành thì tỷ lệ tăng dân số
giai đoạn này sẽ cao hơn giai đoạn 10 năm trước. Nếu duy trì được ở những
nỗ lực trong cơng tác DS-KHHGĐ như thời gian qua thì bình quân mỗi năm
tăng thêm gần 1 triệu người tương đương với dân số của một tỉnh trung bình
Mật độ dân số cao, Việt Nam có mật độ gần 260 người/
thuộc
nhóm các nước có mật độ dân số cao nhất TG, gấp hơn 2 lần mật độ dân số
của châu Á và gấp 1,86 lần mật độ DS của Trung Quốc. Dự báo mật độ sẽ
tăng lên 298 người/
vào năm 2020 và ổn định ở 350 người/
vào
năm 2050 trở về sau. Đây là một thách thức rất lớn khi đất nước vấn còn trên
70% dân số nơng nghiệp, diện tích đất canh tác thấp dưới mức đảm bảo an
ninh lương thực rất nhiều, đất rừng mất nhiều, đất ở và môi trường sống ngày
một cạn kiệt.
Đơ thị hóa và giảm sinh, trong những năm tới, chúng ta cũng phải tích
cực chuẩn bị để ứng phó với xu hướng giảm sinh quá mức trong tương lai do
tác động của đơ thị hóa và phổ biến lối sống công nghiệp. Kinh nghiệm của 1
số nước và vùng lãnh thổ như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan... cho thấy nếu
chậm điều chỉnh chính sách có thể dẫn đến mức sinh giảm xuống đến mức
quá thấp dẫn đến việc khuyến khích tăng mức sinh lên hết mức khó khăn.
Mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng trở nên cấp bách, trong vòng
mấy năm trở lại đây, tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam tăng đột biến, năm
2009 là 111,5 có một số tỉnh cịn cao hơn. Nếu xu hướng này tiếp tục tăng
nhanh và không sớm đưa trở lại mức bình thường, thì sẽ tác động mạnh đến
cơ cấu giới tính của dân số trong khoảng hai thập niên tiếp theo dẫn đến tình
trạng dư thừa nam giới so với phụ nữ cùng độ tuổi. Sự khan hiếm phụ nữ
trong độ tuổi kết hôn sẽ gây áp lực đối với việc kết hơn đồng thời có nguy cơ
làm gia tăng các tệ nạn xã hội như mại dâm, buôn bán phụ nữ. [27]
22
1.3. Các giải pháp về chiến lƣợc dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam
giai đoạn 2011-2020
1.3.1. Lãnh đạo, tổ chức và quản lý
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền
đối với cơng tác dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Cơng tác dân số, chăm
sóc sức khỏe sinh sản là một nội dung trọng tâm trong các chương trình, kế
hoạch cơng tác thường xun của cấp ủy Đảng, chính quyền. Hồn thiện tổ
chức bộ máy làm cơng tác này ở các cấp theo hướng chuyên nghiệp hóa, đảm
bảo triển khai có hiệu quả các chương trình, đề án, dự án về dân số, chăm sóc
sức khỏe sinh sản, bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Ổn định, nâng cao năng
lực đội ngũ cán bộ làm công tác dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản ở cơ sở
để đưa công tác truyền thông, giáo dục, cung cấp các dịch vụ dân số, chăm
sóc sức khỏe sinh sản; theo dõi, quản lý đối tượng đến từng hộ gia đình, nhất
là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng ven biển và hải đảo. Nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý cơng tác dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản, thực hiện
quản lý cơng tác này theo chương trình mục tiêu quốc gia; từng bước áp dụng
mơ hình chi trả phí dịch vụ dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho đối tượng
được miễn chi phí thơng qua các phương tiện thanh toán trung gian (thẻ khách
hàng, thẻ bảo hiểm y tế). Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành để thực hiện
có hiệu quả cơng tác dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Tăng cường kiểm
tra, thanh tra, đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về dân số, sức khỏe sinh
sản, đặc biệt là kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân làm
dịch vụ chẩn đoán và lựa chọn giới tính thai nhi; Nâng cao vai trị giám sát
của cộng đồng trong việc thực hiện chính sách, pháp luật. [46]
1.3.2. Truyền thông, giáo dục chuyển đổi hành vi
Tăng cường phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về dân số, sức
khỏe sinh sản, đặc biệt là chính sách, pháp luật về kiểm soát mất cân bằng
23
giới tính khi sinh. Thường xuyên cập nhật, cung cấp thơng tin về dân số, giới
tính khi sinh, sức khỏe sinh sản tới các cấp ủy Đảng, chính quyền, tổ chức
chính trị - xã hội và những người có uy tín trong cộng đồng. Triển khai mạnh,
có hiệu quả các hoạt động truyền thơng, giáo dục với nội dung, hình thức và
cách tiếp cận phù hợp với từng nhóm đối tượng; ưu tiên các đối tượng khó
tiếp cận thơng tin và dịch vụ dân số, sức khỏe sinh sản. Mở rộng và nâng cao
chất lượng giáo dục về dân số, sức khỏe sinh sản, bao gồm cả giáo dục về
phòng ngừa nhiễm HIV, bình đẳng giới, mất cân bằng giới tính khi sinh và
sức khỏe tình dục trong và ngồi nhà trường. Kết hợp tốt truyền thông đại
chúng với truyền thông trực tiếp thông qua mạng lưới cộng tác viên dân số,
tuyên truyền viên của các ngành, đoàn thể; tăng cường sử dụng các phương
tiện truyền thông hiện đại như internet, truyền thông đa phương tiện, điện
thoại di động. [46]
1.3.3. Dịch vụ dân số, sức khỏe sinh sản
Kiện toàn mạng lưới cung cấp dịch vụ theo phân tuyến kỹ thuật, tập
trung cho vùng khó khăn, đảm bảo cung cấp các gói dịch vụ dân số, chăm sóc
sức khỏe sinh sản thiết yếu ở tất cả các tuyến, đặc biệt là tuyến cơ sở. Tăng
cường hỗ trợ cho tuyến xã bằng nhiều hình thức, bao gồm cả đội lưu động,
xây dựng hệ thống hỗ trợ chuyển tuyến thích hợp cho từng vùng, từng khu
vực. Nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua việc hồn thiện các quy định,
quy trình kỹ thuật; tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện các
quy định chun mơn và quy trình kỹ thuật đối với các cơ sở cung cấp dịch
vụ; Nâng cấp cơ sở hạ tầng, bổ sung trang thiết bị và tập huấn cập nhật kiến
thức cho những người cung cấp dịch vụ dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Nâng cao chất lượng công tác dự báo, lập kế hoạch về phương tiện
tránh thai và hàng hóa sức khỏe sinh sản. Hoàn thiện hệ thống hậu cần và tăng
cường quản lý theo phân khúc thị trường, đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời
24
các phương tiện tránh thai và hàng hóa sức khỏe sinh sản cho chương trình
dân số - kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản; Đẩy mạnh tiếp
thị xã hội và bán rộng rãi các phương tiện tránh thai.
Mở rộng cung cấp các dịch vụ tư vấn và kiểm tra sức khỏe tiền hôn
nhân, sàng lọc, chẩn đoán và điều trị sớm một số bệnh, tật trước khi sinh và
sơ sinh trên cơ sở xây dựng hệ thống các trung tâm sàng lọc, chẩn đoán trước
sinh và sơ sinh theo quy hoạch, kế hoạch; hoàn thiện quy trình, quy chuẩn kỹ
thuật tư vấn và kiểm tra sức khỏe tiền hơn nhân, sàng lọc, chẩn đốn trước
sinh và sơ sinh, chuyển giao kỹ thuật cho các trung tâm tuyến tỉnh; từng
bước đưa các dịch vụ này vào danh mục các dịch vụ y tế được bảo hiểm y
tế chi trả. [46]
1.3.4. Xây dựng, hồn thiện hệ thống chính sách về dân số, sức khỏe sinh
sản: Tích cực rà sốt, nghiên cứu bổ sung, hồn thiện hệ thống pháp luật,
chính sách về dân số, kiểm sốt mất cân bằng giới tính khi sinh, sức khỏe sinh
sản, đặc biệt là các chính sách tác động nhằm giảm thiểu mất cân bằng giới
tính khi sinh, nâng cao chất lượng dân số, duy trì mức sinh thấp hợp lý, chăm
sóc sức khỏe sinh sản đối với thanh niên và người chưa thành niên, bảo vệ và
phát triển các dân tộc có nguy cơ suy thối về chất lượng giống nịi. [46]
1.3.5. Xã hội hóa, phối hợp liên ngành và hợp tác quốc tế
Huy động rộng rãi các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng
tham gia công tác truyền thông, giáo dục, cung cấp dịch vụ dân số, sức khỏe
sinh sản. Xây dựng và thực hiện lộ trình giảm dần mức độ bao cấp của Nhà
nước. Chuyển dần phương thức chi trả phí dịch vụ dân số, sức khỏe sinh sản
từ việc cấp kinh phí cho cơ sở cung cấp dịch vụ sang việc thanh toán qua các
phương tiện trung gian. Tăng cường hợp tác quốc tế, chủ động tham gia
các tổ chức, chương trình quốc tế về dân số, sức khỏe sinh sản; tích cực
25
tranh thủ sự giúp đỡ về tài chính, kỹ thuật và kinh nghiệm của các nước, các
tổ chức quốc tế. [46]
1.3.6. Tài chính
Tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước; đẩy mạnh việc đa dạng hóa
các nguồn đầu tư từ cộng đồng, doanh nghiệp và tư nhân cho công tác dân số,
kiểm sốt mất cân bằng giới tính khi sinh, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Ngân
sách nhà nước đảm bảo đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của cơng tác dân số,
chăm sóc sức khỏe sinh sản và thực hiện chính sách đối với các đối tượng
được Nhà nước chi trả. Tiếp tục thực hiện chương trình dân số - kế hoạch hóa
gia đình theo cơ chế chương trình mục tiêu quốc gia, phân bổ kinh phí cơng
khai, có định mức rõ ràng, tập trung cho cơ sở, phù hợp với các vùng, miền,
địa phương. Quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà
nước đầu tư cho cơng tác dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản. [46]
1.3.7. Đào tạo, nghiên cứu khoa học và thông tin số liệu
Tăng cường đào tạo, tập huấn về quản lý, chuyên môn nghiệp vụ cho
cán bộ làm cơng tác dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản trên cơ sở quy hoạch
và phân tuyến kỹ thuật, với chương trình, nội dung và tài liệu được chuẩn
hóa. Ưu tiên hồn thành việc đào tạo trình độ trung cấp dân số - Y tế cho cán
bộ dân số - kế hoạch hóa gia đình cấp xã; đào tạo cơ đỡ thơn, bản ở vùng khó
khăn; đào tạo kỹ thuật sàng lọc trước sinh và sơ sinh. Từng bước thực hiện
đào tạo chuyên sâu, đào tạo đại học và sau đại học về dân số, sản khoa, nhi
khoa, lão khoa. Tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học, phổ biến và
ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học, cơng nghệ và kỹ thuật về dân số,
kiểm sốt mất cân bằng giới tính khi sinh, sức khỏe sinh sản.
Nâng cao chất lượng thu thập, xử lý thông tin số liệu về dân số, sức
khỏe sinh sản trên cơ sở áp dụng cơng nghệ thơng tin và hồn thiện hệ thống
các chỉ báo, chỉ tiêu; cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thơng tin, số liệu