1
1
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PH. ĂNGGHEN TRONG TÁC
PHẨM LÚT VÍCH PHOIƠBĂC VÀ SỰ CÁO CHUNG
CỦA TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
Để thực hiện việc thanh toán nhận thức triết học trước đây của mình, đặc
biệt là quan điểm đối lập của hai ông về chủ nghĩa duy vật lịch sử với quan điểm
triết học cổ điển đức. Vì vậy, từ năm 1845, ở Brucxen Bỉ, .Mác và Ăngghen
cùng nhau viết các tác phẩm, đề xuất nhiều quan điểm triết học đối lập với các
quan điểm tư tưởng của triết học cổ điển Đức lúc đó. Mặt khác, kể từ khi Mác
chưa qua đời, đã nhiều lần phê phán triết học của Hêghen và Phoiơbắc, nhưng
chưa có lần nào hệ thống và đày đủ. trong suốt thời gian đó thế giới quan của
.Mác được hình thành có hệ thống và ngày càng phát triển, có ảnh hưởng lớn đối
với các đảng cộng sản và giai cấp công nhân ở nhiều nước trên thế giới. Hơn nữa
các quan điểm triết học đó vẫn đang có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nước
Châu Âu, và ngay ở Đức các quan điểm triết học đó vẫn được giảng dạy như
những quan điểm triết học chính thống.
Trong hồn cảnh đó và sau khi Mác đã qua đời, Ăngghen muốn trình bày
một cách có hệ thống quan điểm của Mác và Ăngghen đối với triết học của
Hêghen và Phoiơbắc. Ăngghen thấy cần phải đánh giá một cách khách quan,
công bằng cả thành tựu và hạn chế trong triết học của Hêghen và Phoiơbắc.
.Mác và Ăngghen đã kế thừa và phát triển nền triết học đó, làm cho triết học trở
thành khoa học và cách mạng, thành thế giới quan chân chính của giai cấp vơ
sản, đồng thời phê phán một số luận điệu xuyên tạc quan điểm, tư tưởng triết học
của .Mác và Ăngghen.
Tác phẩm này được đăng trên tạp chí "Neue Zeit" trong số 4 và số 5,
năm 1886, và đến năm 1888 xuất bản thành sách, nguyên tác là tiếng Đức, về
sau được dịch ra nhiều thứ tiếng Nga, Bungari, Pháp và nhiều tiếng nước
1
2
2
khác. Tác phẩm được nhiều lần dịch ra tiếng Việt, hiện nay bản dịch mới nhất
được in trong Mác và .Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, H.1995, Tập
21.
Ăngghen viết tác phẩm "Lút-Vích L.Phoiơbắc và sự cáo chung của triết
học cổ điển Đức" một mặt, do yêu cầu đấu tranh chống lại sự xuyên tạc bảo
vệ sự trong sáng của triết học mácxít. Thơng qua phê phán những nhà triết
học cụ thể là Hêghen và Phoiơbắc để trình bày những quan điểm cơ bản của
triết học Mác, vạch rõ sự khác nhau cơ bản giữa triết học Mác và các thứ triết
học khác. Mặt khác, do nhu cầu đấu tranh của phong trào cộng sản và công
nhân thúc giục Ăngghen viết tác phẩm này để cung cấp cho phong trào thực
tiễn một thế giới quan khoa học và cách mạng, hồn bị và triệt để, là vũ khí tư
tưởng, lý luận sắc bén để đấu tranh cách mạng.
II KẾT CẤU VÀ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM
Kết cấu của tác phẩm: Tác phẩm được kết cấu gồm 4 chương và phần kết
luận
Chương I, .Angghen đánh giá triết học của Hêghen
Chương II và III, .Ăngghen đánh giá triết học của Phoiơbắc
Chương IV, .Ăngghen phân tích sự khác biệt giữa triết học Mác và triết
học Phoiơbắc
Phần kết luận, Ăngghen kết luận về triết học Mác, triết học cổ điển Đức
và thế giới quan của giai cấp công nhân.
Tư tưởng cơ bản của tác phẩm: Thông qua phê phán phép biện chứng
duy tâm của Hêghen, chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc, trình bày một
cách cơ bản, có hệ thống chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, làm cơ sở lý luận cho chiến lược, sách lược đấu tranh của giai cấp
công nhân và các Đảng Cộng sản
III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM
2
3
3
Tác phẩm tập trung phê phán triết học của Hêghen, vạch rõ mâu thuẫn
bên trong giữa hệ thống bảo thủ và phương pháp cách mạng của triết học
Hêghen.
1. Mối liên hệ giữa triết học với những điều kiện kinh tế- xã hội, lịch sử
Giai cấp tư sản Đức vừa có mặt cách mạng, vừa có mặt bảo thủ, điều
đó phản ánh bộ mặt nước Đức lúc bấy giờ là một nước tư sản trẻ, ra đời sau
Anh và Pháp. Chính tính hai mặt đó đã làm cho cuộc cách mạng tư sản Đức
không triệt để, họ vừa muốn làm cách mạng vừa muốn thoả hiệp, mặt khác
lại sợ phong trào quần chúng nên có xu hướng cải lương. Do đó, giai cấp tư
sản Đức khơng đảm đương được vai trị cách mạng của mình mà, lịch sử
Đức lúc này đặt ra.
Trong cách mạng xã hội thì cách mạng trong triết học diễn ra trước cuộc
cách mạng chính trị, sau đó mới đến cách mạng kinh tế. Nhưng triết học chỉ là
sự phản ánh, triết học phản ánh một tiến trình lịch sử, phản ánh nguyện vọng
và lợi ích giai cấp nhất định. "Và cách mạng lại phải núp sau những giáo sư
ấy (giáo sư do Nhà nước Phổ bổ nhiệm (tác giả), sau những lời thông thái
rởm và tối nghĩa của họ, trong những câu văn nặng nề và buồn tẻ của họ" 1.
Triết học G.Ph. Hêghen là triết học chính thống, triết học nhà nước của
Vương quốc Phổ, phản ánh tính hai mặt của giai cấp tư sản do đó đã trở nên
bảo thủ, khơng thể hiện vai trị cách mạng, không trở thành lý luận thúc đẩy
cách mạng. Tuy nhiên, triết học G.Ph. Hêghen vẫn có những yếu tố cách
mạng nhưng bị mặt bảo thủ che lấp.
2. Về luận điểm nổi tiếng của Hêghen: "Tất cả cái gì là hiện thực,
đều là hợp lý và tất cả cái gì là hợp lý, đều là hiện thực"
Đây là luận điểm có tính chất giảng hồ: Người cách mạng cũng hiểu
được và bọn phản động cũng dễ thừa nhận. Với luận điểm này của Hêghen,
1 C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG-ST, H.1995, tr.391-392.
3
4
4
thực chất đã bênh vực tính hợp lý của Nhà nước Phổ, xác nhận về mặt triết
học cho sự tồn tại của chế độ chuyên chế, của nhà nước cảnh sát, chế độ kiểm
duyệt khắt khe của Nhà nước Phổ. Tuy vậy, ngay ở đây Hêghen cũng đã thừa
nhận cái hiện thực đang tồn tại phải là cái có tính tất yếu. Ăngghen nhận xét:
"Nhưng theo Hêghen thì tuyệt nhiên khơng phải tất cả những gì hiện đang tồn
tại cũng đều là hiện thực. Theo ơng, thuộc tính hiện thực chỉ thuộc về những
gì đồng thời là tất yếu"2.
Ăngghen phân tích: Cái lạc hậu, cái lỗi thời phải diệt vong, nhường chỗ
cho cái tiến bộ, cái hợp lý. Như vậy, theo Hêghen sẽ khơng có cái gì tồn tại
vĩnh viễn, chỉ có những cái hợp lý, hợp qui luật mới là hiện thực, cịn tất cả
những cái khơng hợp lý, trái qui luật thì đều mất tính hiện thực của nó, mặc
dù nó vẫn cịn đang tồn tại, nhưng nó đã mất tính tất yếu, mất quyền tồn tại và
nhất định sẽ bị tiêu diệt. Ăngghen so sánh Cộng hoà La Mã với Đế quốc La
Mã, nền quân chủ Pháp với đại cách mạng Pháp năm 1789. Ăngghen nói: "Và
cũng như vậy, trong quá trình phát triển, tất cả những gì trước đây là hiện
thực thì hiện nay trở thành khơng hiện thực, mất tính tất yếu, mất quyền tồn
tại, mất tính hợp lý của chúng; và hiện thực mới, đầy sinh lực, thay thế cho
hiện thực đang tiêu vong..."3.
Như vậy, theo Ăngghen thì luận điểm trên của Hêghen đã dẫn đến một
luận điểm khác: Mọi cái đang tồn tại đều đáng tiêu vong. Luận điểm này rất
phù hợp với qui tắc của phương pháp tư duy của Hêghen.
3. Mâu thuẫn giữa hệ thống triết học duy tâm và phương pháp biện
chứng cách mạng trong triết học Hêghen
Ăngghen đã đánh giá một cách khoa học triết học của Hêghen. Trước
hết, Ăngghen đã chỉ ra mâu thuẫn cơ bản của triết học Hêghen, đó chính là
2 Sđd, tr.392
33 Sđd, tr.393
4
5
5
mâu thuẫn giũa phép biện chứng với hệ thống triết học. Nếu phép biện chứng
là hạt nhân hợp lý, là mặt tiến bộ của triết học Hêghen, thì ngược lại, hệ thống
triết học của Hêghen lại duy, tâm siêu hình. Chính yêu cầu của hệ thống đã
dẫn đến việc Hêghen thừa nhận điểm cuối cùng trong nhận thức triết học và
thực tiễn lịch sử. Ăngghen chỉ rõ : “ Tuyên bố rằng toàn bộ nội dung giáo
điều của hệ thống Hêghen đều là chân lý tuyệt đối, vậy là trái với phương
pháp biện chứng của ông ta, phương pháp đã phá bỏ mọi cái có tính chất
giáo điều. Như thế nghĩa là mặt cách mạng của học thuyết Hêghen đã bị đè
bẹp bởi sự trưởng thành quá khổ của mặt bảo thủ của nó. Và điều mà đúng
với nhận thức triết học thì cũng lại đúng với cả thực tiễn lịch sử nữa’’ 4. Theo
Ăngghen đặc điểm đó của triết học Hêghen thể hiện tính thoả hiệp của giai
cấp tư sản Đức nhỏ bé về kinh tế và yếu hèn về chính trị khơng đủ sức làm
cách mạng tư sản trong hiện thực như cách mạng tư sản pháp(1789), mà chỉ
nong muốn có những cuộc cải cách ơn hồ của giai cấp thơng trị. Song
Ăngghen cũng chỉ rõ những đóng góp to lớn của Hêghen trong sự phát triển
tư tưởng triết học nhân loại :“ nhưng tất cả những diều đó khơng ngăn trở hệ
thống của Hêghen bao trùm một lĩnh vực hết sức rộng hơn lĩnh vực của bất
cứ hệ thống nào trước kia, và phát triển, trong lĩnh vực đó ; một sự phong
phú về tư tưởng mà ngày nay người ta vẫn còn ngạc nhiên. Hiện tượng học
tinh thần (... ), lơgích học, triết học tự nhiên, triết học tinh thần, triết học này
lại được nghiên cứu theo các bộ mơn lịch sử riêng biệt của nó : triết học lịch
sử, triết học pháp quyền, triết học tôn giáo, lịch sử triết học, mỹ học, v.v...trong từng lĩnh vực lịch sử khác nhau ấy, Hêghen cố gắng phát hiện ra và
chứng minh sự tồn tại của sợi chỉ xuyên suốt, tức là của sự phát triển và vì
4 Sđd, tr.396.
5
6
6
Hêghen không nhưng chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà cịn là một nhà bác
học có tri thức bách khoa, nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại. ”5
Chính mâu thuẫn cơ bản nói trên của triết học Hêghen đã làm nảy sinh
những trường phái khác nhau trong số những học trị của ơng. Phái Hêghen
già là phái bảo thủ bám lấy hệ thống của Hêghen, ngược lại phái Hêghen trẻ
lại bám lấy phương pháp biện chứng là chủ yếu. Cuộc đấu tranh của hai phái
này xoay quanh hai vấn đề tơn giáo và chính trị. Mặc dù là cấp tiến, nhưng
phái Hêghen trẻ vẫn chưa thoát khỏi mâu thuẫn cố hữu của triết học Hêghen,
vì những người thuộc phái này đề cao vai trò của “ tự ý thức”, coi tự ý thức có
vai trị to lớn đối với hiện thực. Và theo Ăngghen : “đông đảo những người
kiên quyết nhất trong phái Hêghen trẻ bị những tất yếu thực tiễn của cuộc
đấu tranh của họ chống lai tơn giáo hiện có, kéo trở về chủ nghĩa duy vật
anh-pháp”6. Một trong những đại diện của phái Hêghen trẻ, theo Ăngghen, đó
chính là Phoiơbắc với tác phẩm bản chất đạo cơ đốc đã giải quyết được mâu
thuẫn trên và phục hồi chủ nghĩa duy vật.
4. Ăngghen đánh giá chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc
Ăngghen đã đánh giá cao vai trò của Phoiơbắc trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm, phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật. Ăngghen
coi tác phẩm bản chất đạo cơ đốc của phoiơbắc “ có tác dụng giải phóng và
đưa một cách không úp mở chủ nghĩa duy vật trở lại ngơi vua”. Tư tưởng duy
vật của phoiơbắc có ảnh hưởng to lớn đối với thế giới quan triết học của Mác
và Ăngghen lúc bấy giờ và “ là khâu trung gian” giữa triết học của Hêghen và
triết học của Mác và Ăngghen.
Trong khi đánh giá công lao to lớn của Phoiơbắc đối với việc đấu tranh
chống lại chủ nghĩa duy tâm, phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật, Ăngghen
5 Sđd, tr. 397.
6 Sđd, tr. 401.
6
7
7
cũng khẳng định rằng Phoiơbắc vẫn chưa vượt khỏi những hạn chế lịch sử của
chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII. Ăngghen đã chỉ ra ba hạn chế lớn như sau :
Thứ nhất, chủ nghĩa duy vật đó chủ yếu là có tính chất máy móc.
Thứ hai, chủ nghĩa duy vật đó có đặc trưng siêu hình, có nghĩa là khơng
biện chứng.
Thứ ba, chủ nghĩa duy vật đó khơng triệt để, duy tâm trong cách hiểu về
các hiện tượng xã hội.
Ăngghen, chỉ rõ rằng Phoiơbắc có cơng lao phê phán chủ nghĩa duy tâm
của Hêghen, song thiếu sót lớn của Phoiơbắc là đã không kế thừa những hạt
nhân hợp lý của Hêghen là phép biện chứng. “ Phoiơbắc đã đập tan hệ thống
của Hêghen và chỉ đơn giản gạt nó ra một bên thôi. song chỉ tuyên bố một
triết học nào đó là sai lầm thì chưa có nghĩa là thắng được nó” 7.Ăngghen
cũng địi hỏi“phải tiêu diệt hình thức của nó bằng phê bình, nhưng cứu lấy
nội dung mà nó đã đạt được”8.
Ăngghen khẳng định, vượt xa phoiơbắc, trên cơ sở chủ nghĩa duy vật,
Mác đã phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, nhưng kế thừa hạt nhân hợp
lý của triết học Hêghen là phép biện chứng, cải tạo nó thành phép biện chứng
duy vật, biến chủ nghĩa duy vật thành chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Trong khi chỉ ra những hạn chế của triết học Phoiơbắc, Ăngghen cũng
phân tích những nguyên nhân đẫn đến những hạn chế đó của phoiơbắc :“Đó
là lỗi tại những điều kiện thảm hại ở Đức hồi đó, những điều kiện đã khiến
cho nhưng ghế giáo sư triết học đều do bọn chiết trung chủ nghĩa chuyên giết
rệp chiếm đoạt hết, còn Phoiơbắc, người vượt tát cả những bọn đó một trời
một vực, lại buộc phải nơng dân hoá và rầu rĩ trong một làng nhỏ. Nếu như
7 Sđd, tr.402.
8 Sđd, tr.402.
7
8
8
phoiơbắc vẫn không tiếp thu được quan điểm về lịch sử về tự nhiên... và đã
trút bỏ được tất cả những gì là phiến diện trong chủ nghĩa duy vật Pháp, thì
đó khơng phải là lỗi tại ơng”9.Chính trong điều kiện xã hội và điều kiện sống
như thế, nên chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là không biện chứng và về xã
hội cũng khơng thốt khỏi chủ nghĩa duy tâm cổ truyền. Ăngghen đã trích lời
của Phoiơbắc như sau :“Đi lùi lại đằng sau tơi hồn tồn nhất trí với các nhà
duy vật chủ nghĩa, nhưng tiến lên phía trước, tơi khơng nhất trí với họ” 10.
Cho nên, Phoiơbắc là nhà duy vật ở nửa dưới, cịn nửa trên ơng lại là duy tâm.
Ông phê phán chủ nghĩa duy tâm, coi nó là tư biện, trừu tượng, nhưng sang
lĩnh vực lịch sử ông xem xét con người và xã hội cũng trừu tượng không kém.
Trong tác phẩm này, Ăngghen cũng tập trung làm rõ quan điểm duy tâm của
phoiơbắc trong các vấn đề về tôn giáo và đạo đức.
Về vấn đề tôn giáo, Ăngghen chỉ rõ, phoiơbắc không đặt ra vấn đề xố
bỏ tơn giáo, mà muốn hồn thiện nó. Triết học cũng phải hồ tan vào tơn giáo.
Ơng cịn coi các thời đại loài người chỉ khác nhau ở sự thay đổi về phương
diện tôn giáo. Tôn giáo theo ông là mối quan hệ thương yêu giữa người với
người và tình yêu nam nữ là hình thức cao nhất. Từ khi có lồi người, mặc dù
có những quy định của nhà nước về hơn nhân, song tình u và tình bạn là
khơng thay đổi. Như vậy, chủ nghĩa duy tâm của phoiơbắc, theo Ăngghen là ở
chỗ ông coi các mối quan hệ thuần tuý giữa người với người là tôn giáo.
Ăngghen viết :“chủ nghĩa duy tâm của phoiơbắc là ở chỗ ông ta xét các mối
quan hệ giữa người với người, dựa trên cảm tình đối với nhau... khơng phải
chỉ đơn giản đúng y như bản thân chúng là như vậy... đối với ông ta, điều chủ
yếu không phải ở chỗ những quan hệ thuần tuý giữa người với người tồn tại,
mà là ở chỗ những quan hệ ấy phải được coi là một thứ tôn giáo mới, chân
9 Sđd, tr. 412
10 Sđd, tr. 413.
8
9
9
chính”11. Phoiơbắc muốn xây dựng một thứ tơn giáo khơng cần thượng đế đó
là tơn giáo tình u. Ăngghen cũng phê phán luận điểm sai lầm của phoiơbắc
coi các thời đại của loài người chỉ khác nhau bởi những thay đổi về phương
diện tôn giáo mà thôi.
Trong vấn đề đạo đức theo Ăngghen, phoiơbắc hồn tồn duy tâm khi
coi lịng mong muốn hạnh phúc là bẩm sinh của con người, do đó nó phải là
cơ sở của đạo đức. Và để thực hiện lịng mong muốn đạo đức đó, phoiơbắc
địi hỏi phải có sự tự hạn chế hợp lý bản thân mình và tình yêu giữa người với
người lại trở thành những quy tắc cơ bản của đạo đức trong xã hội áp bức bóc
lột, trong xã hội có đối kháng giai cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội, thì
điều đó thật là khơng tưởng. Ăngghen đã phê phán quan điểm về đạo đức của
phoiơbắc như sau :“Nó được gọt giũa cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi dân
tộc, mọi hồn cảnh, và chính vì thế mà khơng bao giờ nó có thể đem áp dụng
được ở đâu cả... trong thực tế, mỗi giai cấp và ngay cả mỗi nghề nghiệp đều
có đạo đức riêng của mình...”12. Như vậy, quan niệm về đạo đức của
phoiơbắc vẫn chưa thốt khỏi sự trừu tượng, vì ơng hiểu con người một cách
trừu tượng phi lịch sử, không thấy con người là sản phẩm của xã hội, của
hoàn cảnh lịch sử và con người cũng là chủ thể của hoạt động. Điều đó được
Ăngghen nhận xét rằng, Phoiơbắc “bám hết sức chặt lấy giới tự nhiên và con
người ; song đối với ông, cả tự nhiên lẫn con người vẫn chỉ là những danh từ
mà thơi. Ơng khơng biết nói với chúng ta một cái gì chính xác về tự nhiên
hiện thực, cũng như về con người hiện thực"13
11 Sđd, tr. 417.
12 Sđd, tr. 425.
13 Sđd, tr. 426.
9
10
10
Trên cơ sở phê phán một cách khoa học triết học của hêghen và triết học của
Phoiơbắc, Ăngghen đã chỉ ra cho chúng ta thực chất cuộc cách mạng trong
lịch sử triết học do Mác và Ăngghen thực hiện.
5. Thực chất cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do Mác và
Ăngghen thực hiện
Trước hết, Ăngghen khẳng định sự hình thành chủ nghĩa duy vật biện
chứng là kết quả của quá trình cải tạo căn bản phép biện chứng của Hêghen
và khắc phục tính phiến diện, khơng triệt để của chủ nghĩa duy vật nhân
bản của Phoiơbắc.
Phép biện chứng duy vật đã kế thừa tất cả những yếu tố tiến bộ của
các hình thức trước đó của nó, trong đó trực tiếp là phép biện chứng của
Hêghen. Nhưng phép biện chứng của triết học Mác hoàn toàn đối lập với
phép biện chưng duy tâm của hêghen. Ăngghen viết :“ở Hêghen, sự phát
triển biện chứng biểu hiện trong giới tự nhiên và trong lịch sử... chỉ là sự
sao chếp lại sự tự vận đông của ý niệm, một sự tự vận động diễn ra vĩnh
viễn, không biết ở đâu, nhưng dù sao cũng độc lập với mọi bộ óc đang tư
duy của con người. Sự xuyên tạc có tịnh chất tư tưởng hệ ấy là cái cần
phải gạt bỏ. Chúng tôi lại xem xét một lần nữa một cách duy vật rằng
những ý niệm trong đầu óc của chúng ta, coi đó là những phản ánh của sự
vật hiện thực, chứ khơng xem xét những sự vật hiện thực, coi đó là những
phản ánh của giai đoạn này hay giai đoạn khác của ý niệm... ” 14 . Trên cơ
sở đó , Ăngghen nhắc lại định nghĩa kinh điển về phép biện chứng :“phép
biện chứng được quy thành khoa học về các quy luật chung của sự vận
động của thế giới bên ngoài cũng như của tư duy con người...” 15 và chỉ ra
tính thứ nhất của biện chứng khách quan và tính thứ hai của biện chứng
14 Sđd, tr. 429.
15 Sđd, tr. 429.
10
11
11
chủ quan, biện chứng của ý niệm chỉ là sự phản ánh vào ý thức sự vận động
biện chứng của thế giới hiện thực, cho nên quá trình cải tạo phép biện
chứng duy tâm của Hêghen bằng cách “đặt đầu lên trên hay nói đúng hơn,
từ chỗ trước kia nó đứng bằng đầu, bây giờ người ta đặt nó đứng bằng
chân”16
Ăngghen nhắc lại cơ sở khoa học tự nhiên dẫn đến sự các chung của
phép siêu hình và sự hình thành phép duy vật biện chứng.chính việc phát triển
của khoa học, từ khoa học sưu tập về những vật chất bất biến sang khoa học
hệ thống hoá, khoa học về quá trình dẫn đến làm sụp đổ phương pháp tư duy
siêu hình và khẳng định phương pháp tư duy biện chứng. Ăngghen cũng
khẳng định lai ba phát minh vĩ đại của thời kỳ đó là phát minh ra tế bào, phát
minh ra định luật bảo tồn và chuyển hố năng lượng, và thuyết tiến hoá của
Đácuyn. Ăngghen cho rằng nhờ ba phát minh vạch thời đại đó của khoa học
tự nhiên “có thể chứng minh những nét lớn của mối liên hệ giữa các q trình
của tự nhiên khơng những trong các lĩnh vực riêng biệt, mà cả mối liên hệ
giữa các lĩnh vực riêng biệt ấy nói chung và có thể trình bày một bức tranh
bao qt về mối liên hệ trong tự nhiên”17
Về sự hình thành các quan điểm duy vật lịch sử cũng tương tự, Ăngghen
coi “cái đã đúng với giới tự nhiên mà do đó chúng ta coi là một quá trình
phát triển lịch sử, thì cũng đúng với tất cả cá bộ môn lịch sử xã hội và cũng
đúng với toàn bộ các khoa học nghiên cứu những cái thuộc về con người (và
thuộc về thần thánh”18. Theo Ăngghen, phải loại bỏ những mối liên hệ nhân
tạo và phải tìm ra những mối liên hệ hiện thực, nhất là phải phát hiện ra các
quy luật chung chi phối sự phát triển của lịch sử. Đấy chính là nhiệm vụ của
16 Sđd, tr. 430.
17 Sđd, tr. 433.
18 Sđd, tr. 434.
11
12
12
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ăngghen phân biệt sự khác nhau giữa quy luật lịch
sử - đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật lịch sử với các quy luật tự
nhiên - đối tượng nghiên cứu của các khoa học tự nhiên. Trong giới tự nhiên,
các quy luật diễn ra tự động bên ngoài ý thức của con người cịn các quy luật
xã hội diễn ra thơng qua hoạt động có ý thức của con người. Nhưng cũng
giống như các quy luật của tự nhiên, quy luật xã hội cũng bị chi phối bởi vô
số những ngẫu nhiên, thơng qua vơ số ngẫu nhiên đó, chùng ta phát hiện ra
quy luật nội tại bị che giấu. Đặc trưng của quy luật xã hội theo Ăngghen
là :“con người làm ra lịch sử của mình... bằng cách là mỗi người theo đuổi
những mục đích riêng, mong muốn một cách có ý thức, và chính kết quả
chung của vơ số những ý muốn tác động theo nhiều hướng khác nhau đó và
của những ảnh hưởng muôn vẻ của những ý muốn đó vào thế giới bên ngồi
đã tạo nên lịch sử ”19.
Trong tác phẩm này, Ăngghen xem xét một vấn đề rất quan trọng của
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đó là vấn đề động lực của lịch sử. Theo Ăngghen,
chủ nghĩa duy vật cũ không bao giờ đặt vấn đề đó ra cả và vì vậy quan điểm
của họ về lịch sử, về bản chất là quan điểm thực dụng chủ nghĩa, nó đánh giá
mọi cái theo động cơ của hành động, Ăngghen đã phê phán quan điểm trên và
cho rằng “chủ nghĩa duy vật cũ không trung thành với bản thân mình, vì nó
coi những động lực lý tưởng tác động trong lĩnh vực lịch sử là những nguyên
nhân cuối cùng, chứ khơng phải nghiên cứu xem cai gì ẩn sau những động
lực đó và những động lực của những động lực đó là những gì”20.
Hêghen cũng đặt ra vấn đề này, nhưng Hêghen khơng tìm những động
lực đó trong bản thân lịch sử mà lại du nhập những động lực đó từ ngồi, từ
hệ tư tưởng triết học vào trong lịch sử.
19 Sđd, tr. 436.
20 Sđd, tr. 437.
12
13
13
Đối lập với quan điểm của chủ nghĩa duy vật cũ và chủ nghĩa duy tâm
của Hêghen, Ăngghen cho rằng để xác định động lực thực tế cuối cùng của
lịch sử thì khơng thể nghiên cứu những động cơ của các cá nhân, mà phải
nghiên cứu “những động cơ của những người đã lay chuyển những quần
chúng đông đảo, những dân tộc trọn vẹn ; rồi đến những giai cấp trọn vẹn
trong mỗi dân tộc ; những động cơ đã đẩy họ... đến chỗ tiến hành những
hành động lâu dài đưa đến những biến đổi lịch sử vĩ đại”21. Và Ăngghen đã
chỉ ra rằng, động lực của toàn bộ lịch sử hiện đại chính là cuộc đấu tranh giữa
ba giai cấp lớn và những xung đột về quyền lợi của họ : giai cấp địa chủ quý
tộc, giai cấp tư sản và giai cấp vơ sản. Để tìm ra động lực của động lực,
Ăngghen đi sâu vào xem xét nguồn gốc của giai cấp và đấu tranh , ông chỉ ra
rằng, nguồn gốc của giai cấp và kết cấu giai cấp trong xã hội là do nguyên
nhân thuần tuý kinh tế quy định và cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp
chiếm hữu ruộng đất và giai cấp tư sản, cũng như cuộc đấu tranh giữa giai
cấp tư sản và giai cấp vơ sản, thì trước hết là ở những lợi ích kinh tế. Chính
mâu thuẫn trong kinh tế phản ánh qua mâu thuẫn giai cấp. Ăngghen
viết :“Những lực lượng sản xuất, do giai cấp tư sản đại biểu, nổi đậy chống
lại chế độ sản xuất do bọn chiếm hữu ruộng đất phong kiến và bọn trùm
phường hội đại biểu... ngày nay đại công nghiệp cũng lại đi đến chỗ xung đột
với chế độ sản xuất tư sản là chế độ đã thay thế chế độ sản xuất phong
kiến”22. Mâu thuẫn đó tất yếu sẽ dẫn đến phải phá gơng xiềng cho lực lượng
sản xuất bằng cách thay đổi phương thức sản xuất. Từ những phân tích trên,
Ăngghen đi đến kết luận :“tất cả các cuộc đấu tranh chính trị đều là đấu
tranh giai cấp, và tất cả các cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, dù hình thức
chính trị tất yếu của chúng là thế nào đi nữa - vì bất cứ cuộc đấu tranh giai
21 Sđd, tr. 438.
22 Sđd, tr. 440.
13
14
14
cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị - xét đến cùng, đều xoay quanh vấn
đề giải phóng về kinh tế”23.
Với phương pháp như trên, Ăngghen tiếp tục xem xét mối quan hệ với
cơ sở kinh tế của một số yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước và
pháp luật, chính trị và hệ tưởng chính trị, triết học và tôn giáo. Khi xem xét
mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội công dân, ăngghen khẳng định nhà nước
là yếu tố tuỳ thuộc , còn xã hội công dân tức là lĩnh vực của những quan hệ
kinh tế là yếu tố quyết định. Nhà nước và pháp luật là do các quan hệ kinh tế
hiện có quy định. Về vấn đề chính trị và hệ tư tưởng chính trị cũng vậy, nhưng
dường như trong thực tế ý thức về mối liên hệ giữa chính trị và hệ chính trị
với cơ sở kinh tế bị mờ dần đi và thậm chí có thể hồn tồn biến mất. Còn
những hệ tưởng cao hơn, xa hơn kinh tế như triết học và tơn giáo thì do những
khâu trung gian mà mối liên hệ đó bị lãng quên. Song dù sao theo Ăngghen
mối quan hệ đó vẫn tồn tại và những tư tưởng triết học từ thế kỷ XV trở đi
qua triết học Pháp, triết học Anh và đến triết học Hêghen đều phản ánh sự
phát triển của giai cấp tư sản.
Về tôn giáo, ăngghen cho rằng tôn giáo là hình thái ý thức xã hội xa đời
sống vật chất hơn cả và hình như nó xa lạ với đời sống vật chất. Nhưng thực
ra xét đến cùng tôn giáo cũng như các hình thái ý thức xã hội khác đều gắn
liền với những điều kiện sinh hoạt vật chất của con người. Để làm rõ luận
điểm ấy, Ăngghen chỉ ra sự phát triển của tơn giáo có nguồn gốc ban đầu
nguyên thuỷ của nó“từ những khái niệm hết sức sai lầm, nguyên thuỷ của con
người về bản chất của chính họ và về giới tự nhiên bên ngồi xung quanh họ”.
Khi xem xét tôn giáo phát triển từ tôn giáo dân tộc thành tôn giáo thế giới,
đạo cơ đốc phát triển từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang xã hội phong kiến, sự ra
đời của giai cấp tư sản gắn liền với cải cách tôn giáo, đạo tin lành ra đời đối
23 Sđd, tr. 441.
14
15
15
lập với đạo thiên chúa phong kiến, Ăngghen đi đến kết luận “Tơn giáo, một
khi đã hình thành, ln ln chứa đựng một truyền thống, cũng như trong tất
cả các lĩnh vực tư tưởng, truyền thống là một lực lượng bảo thủ lớn. Song
những sự biến đổi xảy ra trong chất liệu đó, đều nảy sinh ra từ những quan
hệ giai cấp, do đó từ những quan hệ kinh tế giữa những người gây ra những
sự biến đổi ấy”.24
Cuối cùng, Ăngghen khái quát lại và đưa ra một nguyên tắc phương pháp
luận cơ bản định hướng cho việc nghiên cứu giới tự nhiên và lịch sử: “Bằng
chứng phải được rút ra từ bản thân lịch sử.... bây giờ thì bất cứ ở đâu, vấn đề
khơng cịn là tưởng tượng ra những mối liên hệ từ trong đầu óc, mà là phát
hiện ra chúng từ những sự thật”25.
IV. ý nghĩa của tác phẩm
Tác phẩm lútvích phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức là
một trong những tác phẩm quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác. Trong tác
phẩm này, Ăngghen đã trực tiếp phê phán đánh giá triết học cổ điển Đức, đặc
biệt là những tư tưởng triết học của Hêghen và Phoiơbắc, tuyên bố về sự cáo
chung của triết học cổ điển Đức, Ăngghen khẳng định triết học này phải được
thay thế bằng hệ thống triết học khoa học và cách mạng, đó chính là triết học
Mác. Ở đây, Ăngghen đã trình bày một cách có hệ thống những cơ sở của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ơng đánh giá có phê
phán nguồn gốc triết học của chủ nghĩa cộng sản khoa học, chỉ ra những hạn
chế trong triết học của Hêghen và Phoiơbắc, giúp các nhà khoa học đương thời phân
biệt được sự khác nhau căn bản giữa triết học Mác với triết học của Hêghen và triết
học của Phoiơbắc, Ăngghen chỉ rõ với triết học của Mác, cả phép biện chứng duy
tâm của Hêghen và chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc đều sẽ được khắc phục
24 Sđd, tr. 449
25 Sđd, tr. 449.
15
16
16
và bị xoá bỏ. Với tác phẩm này, Ăngghen đã góp phần cống hiến vơ giá vào việc đưa
chủ nghĩa Mác thâm nhập vào phong trào công nhân quốc tế. Tác phẩm này đã góp
phần quyết định vào việc trang bị cho giai cấp công nhân ý thức rằng giai cấp công
nhân với thế giới quan khoa học và đảng cách mạng của nó là một thể thống nhất
khơng thể tách rời. Tác phẩm là cơ sở lý luận sắc bén trong cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân chống lại triết học của giai cấp tư sản
Ngày nay đọc lại tác phẩm này của Ăngghen chúng ta vẫn thấy nguyên ý
nghĩa thời sự của nó. Tác phẩm giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác, định hướng
cho chúng ta phương pháp luận khoa học khi nghiên cứu những vấn đề của
lịch sử xã hội, nghiên cứu lịch sử xã hội phải luôn bám vào mảnh đất hiện
thực của nó, phải ln qn triệt mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội, giữa kinh tế và chính trị, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần,...
Nghiên cứu nắm vững những nội dung triết học cơ bản của tác phẩm, là
cơ sở lý luận sắc bén để chúng ta đấu tranh bảo vệ và phát triển triết học .Mác
- Lênin trước những biến động của thời đại ngày nay, thấy rõ sự khác nhau về
bản chất của triết học Mác so với triết học của Hêghen và triết học của
Phoiơbắc, chứ khơng phải như một số người nói rằng triết học Mác là sự cộng
lại một cách giản đơn của phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật
nhân bản của Phoiơbắc, thấy được thiên tài và công lao vĩ đại của Mác và
Ăngghen trong việc tiếp thu có phê phán những giá trị tư tưởng của nhân loại
mà trực tiếp là triết học cổ điển Đức, để xây dựng nên thế giới quan khoa học
và cách mạng của giai cấp công nhân.
16