MỞ ĐẦU
Ngày nay, việc tiếp cận đến các tác phẩm giá trị khơng cịn là khó khăn với
cơng chúng, những người ham muốn tìm kiếm những thơng tin sáng tạo thơng
qua các loại hình tác phẩm. Điều này cũng thể hiện những quy định pháp luật
bên cạnh trao độc quyền cho chủ thể quyền cũng cố gắng dành lại những quyền
lợi cơ bản cho công chúng. Những hạn chế quyền tác giả được thể hiện rất rõ về
thời gian, về không gian và cả về phạm vi sử dụng các tác phẩm. Giới hạn quyền
tác giả là một khía cạnh thể hiện cho ngun tắc hài hịa lợi ích giữa chủ thể
quyền sở hữu trí tuệ và lợi ích cơng chúng. Điều này đã được thể hiện rõ trong
quy định của Luật.
Bài tiểu luận sau của em nghiên cứu về “Phân tích và nêu ví dụ các trường hợp
giới hạn quyền tác giả theo quy định của pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam” và
phân tích, nêu quan điểm về tình huống.
Với kiến thức chưa cao, bài làm sẽ cịn nhiều thiếu sót. Em mong thầy cơ sẽ
góp ý sửa chữa để em hoàn thiện kiến thức hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
1
NỘI DUNG
I. Phân tích và nêu ví dụ các trường hợp giới hạn quyền tác giả theo quy
định của pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam?
1. Quyền tác giả là gì ?
Theo Khoản 2, Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ : “Quyền tác giả là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Căn cứ vào
quy định trên quyền tác giả được hiểu theo hai phương diện:
Theo phương diện khách quan: Quyền tác giả là tổng hợp các quy định của
pháp luật về những điều mà tác giả, chủ sở hữu được làm đối với tác phẩm do
mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Các quy phạm này nhằm xác lập và bảo vệ
quyền của tác giả, của chủ sở hữu quyền tác giả, xác định các nghĩa vụ của
các chủ thể trong việc sáng tạo và sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học. Quy định trình tự thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi có hành vi
xâm phạm.
Về phương diện chủ quan: Quyền tác giả là quyền dân sự cụ thể, bao gồm
quyền tài sản và quyền nhân thân của chủ thể với tư cách là tác giả, chủ sở
hữu quyền tác giả đối với một tác phẩm văn học, nghệ thuật, công trình khoa
học và quyền khởi kiện, khiếu nại, tố cáo khi quyền của mình bị xâm phạm.
Ngồi ra, quyền tác giả còn được hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự giữa
tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả với các chủ thể khác trong xã hội thông qua
tác phẩm, dưới sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật, quan hệ giữa các
chủ thể nêu trên có thể hình thành, thay đổi hoặc chấm dứt.
2. Đặc điểm quyền tác giả
Đối tượng của quyền tác giả ln mang tính sáng tạo, được bảo hộ không
phụ thuộc vào giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật
Đối tượng của quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
Tác phẩm là thành quả lao động sáng, tạo của tác giả được thể hiện dưới hình
thức nhất định. Mọi cá nhân đều có quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa
học và khi cá nhân tạo ra tác phẩm trí tuệ, khơng phụ thuộc vào giá trị nội
dung và nghệ thuật đều có quyền tác giả đối với tác phẩm. Pháp luật về quyền
tác giả không bảo hộ hình thức thể hiện dưới dạng nào đó mà khơng phản ánh
hay không chứa đựng nội dung nhất định. Tác phẩm phải do tác giả trực tiếp
2
thực hiện bằng lao động trí tuệ của mình mà không phải sao chép từ tác phẩm
của người khác.
Quyền tác giả thiên về việc bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm
Pháp luật về quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức chứa đựng tác phẩm khi nó
được tạo ra và thể hiện dưới hình thức nhất định mà khơng bảo hộ nội dung
sáng tạo tác phẩm. Quyền tác giả đối với tác phẩm chỉ được giới hạn trong
phạm vi thể hiện cụ thể của tác phẩm mà không bao gồm ý tưởng của tác giả
thể hiện trong tác phẩm bởi vì khơng một ai có thể biết được một vấn đề đang
nằm trong suy nghĩ của người khác. Những ý tưởng, kể cả cách sắp xếp, trình
bày đã “có” trong suy nghĩ của tác giả nhưng chưa được thể hiện ra bên ngồi
bằng hình thức nhất định thì khơng có căn cứ để cơng nhận và bảo hộ nhũng
điều chưa được bộc lộ ra bên ngồi đó. Sự sáng tạo của tác giả không chỉ đem
lại cho tác giả quyền tác giả đối với tác phẩm mà còn nhằm chống lại sự sao
chép nó hoặc lấy và sử dụng hình thức trong tác phẩm gốc đã được thể hiện.
Pháp luật về quyền tác giả không quy định điều kiện về nội dung đối với tác
phẩm được bảo hộ, tronq khi đó quyền sở hữu cơng nghiệp bảo hộ nội dung
của đối tượng. Đối tượng sở hữu công nghiệp phải đáp ứng được các điều
kiện nhất định. Điều này lí giải nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học
có cùng nội dung nhưng có sự sáng tạo trong hình thức thể hiện đều được
pháp luật bảo vệ.
Hình thức xác lập quyền theo cơ chế bảo hộ tự động
Quyền tác giả được xác lập dựa vào chính hành vi tạo ra tác phẩm của tác giả,
không phụ thuộc vào thể thức, thủ tục nào. Nhưng đối với quyền sở hữu công
nghiệp, được xác lập dựa trên quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thơng qua việc xét và cấp văn bằng bảo hộ cho chủ sở hữu các đối
tượng đó (trừ các đối tượng sở hữu cơng nghiệp được xác lập một cách tự
động).
Từ thời điểm tạo ra tác phẩm, tác giả được bảo hộ về mặt pháp lí và có các
quyền của người sáng tạo mà khơng phụ thuộc vào thể thức, thủ tục đăng kí
nào. Quyền tác giả phát sinh một cách mặc nhiên và nó được thiết lập từ thời
điểm tác phẩm đó được thể hiện dưới hình thức khách quan mà người khác có
3
thể nhận biết được. Luật bảo hộ quyền tác giả của các nước đều quy định về
việc bảo hộ tự động (bảo hộ không phụ thuộc vào thủ tục đăng kí). Như vậy,
pháp luật về quyền tác giả khơng quy định bắt buộc đối với các tác giả nghĩa
vụ đăng kí và nộp đon yêu cầu bảo hộ quyền tác giả, bởi quyền này là một
loại quyền “tuyên nhận”, quyền tự động phát sinh khi ý tưởng, của tác giả đã
được thể hiện dưới hình thức nhất định – tác phẩm. Việc đăng kí quyền tác giả
khơng phải là căn cứ làm phát sinh quyền tác giả, mà chỉ có giá trị là chứng
cứ chứng minh của đương sự khi có tranh chấp về quyền tác giả và một bên
khởi kiện tại toà án nhân dán hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giải quyết.
Quyền tác giả khơng được bảo hộ một cách tuyệt đối
Đối với các tác phẩm đã được công bố, phổ biến và tác phẩm khơng bị cấm
sao chụp thì cá nhân, tổ chức được phép sử dụng tác phẩm của người khác
nêu việc sử dụng đó khơng nhằm mục đích kinh doanh, khơng làm ảnh hưởng
đến việc sử dụng, khai thác bình thường của tác phẩm, khơng xâm hại đến các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả, chẳng
hạn như việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích tuyên truyền, cổ động; phục
vụ cho chính sách kinh tế, văn hóa, chính trị cho người dân ở vùng sâu, vùng
xa; cá nhân đọc truyện, nghe nhạc, xem phim để thưởng thức nghệ thuật, âm
nhạc, hiểu biết khoa học, cuộc sống v.v. thì khơng bị coi là hành vi xâm phạm
quyền của tác giả và của chủ sở hữu quyền tác giả.
3. Các trường hợp giới hạn quyền tác giả theo quy định của pháp luật Sở
hữu trí tuệ Việt Nam.
Các quyền tài sản mang lại cho chủ thể sở hữu quyền được hưởng lợi ích vật
chất khi người khác khai thác, sử dụng tác phẩm, họ giữ độc quyền cho phép
người khác khai thác, sử dụng tác phẩm của mình. Điều này tạo nên bất lợi
cho bên khai thác, sử dụng tác phẩm. Việc dự liệu cho những quy định giới
hạn quyền tác giả nhằm cân đối giữa một bên là bảo hộ quyền tác giả và một
bên là quyền thụ hưởng của công chúng. Bản chất của việc giới hạn quyền tác
giả là hạn chế một số quyền lợi vật chất của tác giả hay là quyền được sử
dụng hợp lý tác phẩm của người khác trong một số trường hợp nhất định mà
4
không phải xin phép, không phải trả thù lao, đảm bảo cân bằng lợi ích của tác
giả, người sử dụng tác phẩm và công chúng . Cùng với Công ước Berne, pháp
luật các nước khác trên thế giới đều có quy định về giới hạn quyền tác giả.
Quyền tác giả nằm trong quyền sở hữu trí tuệ nói chung nên bị giới hạn
chung về quyền sở hữu trí tuệ, theo đó tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả
cũng chỉ được thực hiện quyền của mình trong phạm vi và thời hạn bảo hộ
theo quy định của Luật này. Việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ khơng được
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân khác và không được vi phạm các quy định khác của pháp
luật có liên quan. Điều đó có nghĩa việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ nằm
trong khn khổ và khơng được làm thiệt hại đến lợi ích của bên thứ ba.
Trường hợp giới hạn quyền tác giả theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ
Việt Nam có những trường hợp sau:
* Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép,
không phải trả tiền nhuận bút, thù lao.
Tổ chức, cá nhân muốn sử dụng tác phẩm thuộc trường hợp này thì phải
trong khuôn khổ không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường
tác phẩm, khơng gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Tuy
nhiên, mọi người không thể áp dụng quyền này đối với tác phẩm kiến trúc, tác
phẩm tạo hình, chương trình máy tính.
Theo quy định tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ, các trường hợp sử dụng dụng
các phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù
lao bao gồm:
- Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá
nhân (trừ tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính).
- Trích dẫn hợp lí tác phẩm mà khơng làm sai ý tác giả để bình luận hoặc
minh họa trong tác phẩm của mình.
- Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác
giả, không nhằm mục đích thương mại.
- Sao chép 1 bản tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu
(trừ tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính).
5
- Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các
buổi sinh hoạt văn hóa, tun truyền cổ động khơng thu tiền dưới bất kì hình
thức nào.
- Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng
dạy
- Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng
dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm
đó.
- Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị.
- Nhập khẩu một bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.
Trong các trường hợp này cần lưu ý việc "Sao chép tác phẩm" là nhằm mục
đích ngiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân hoặc sao chép để lưu trữ
trong thư viện. Việc sao chép không quá một bản và không áp dụng đối với
tác phẩm tạo hình và chương trình máy tính. Thư viện không được sao chép
nhiều bản nhưng người mượn sao chép nhiều bản để phục vụ việc ngiên cứu
giảng dạy thì được phép.
Theo quy định điều luật này, ngoại lệ chỉ dành cho một số trường hợp sử
dụng tác phẩm, sử dụng quyền liên quan đáp ứng được ba điều kiện sau:
Thứ nhất, việc sử dụng hoàn toàn vào mục đích phi thương mại như: nghiên
cứu khoa học, giảng dạy, sử dụng riêng hay để cung cấp thông tin;
Thứ hai, việc sử dụng không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường
tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi, chương trình phát sóng, khơng gây phương
hại đến quyền tác giả và quyền liên quan;
Thứ ba, khi sử dụng phải tôn trọng các quyền của tác giả, chủ thể của quyền
liên quan (như: thông tin về tác giả, tác phẩm, người biểu diễn . . . ). Quy định
về giới hạn quyền tác giả, quyền liên quan trong Luật sở hữu trí tuệ đã tạo cơ
chế pháp lí để giải quyết mối quan hệ giữa chủ thể của quyền tác giả, quyền
liên quan với các chủ thể khác trong việc sử dụng tác phẩm, quyền liên quan.
Ví dụ: Năm 2005, ông A có cuốn sách được NXB Hội nhà văn xuất bản. Sau
đó cuốn sách này được tái bản năm 2007. Trong cuốn sách này, ơng A đã trích
dẫn ngun văn bài viết của ông B đã được in ở số báo trước đó để nghiên
cứu, bình luận. Tuy nhiên, ông B cho rằng ông A đã vi phạm quyền tác giả khi
6
sử dụng các tác phẩm của ông để xuất bản mà khơng xin phép và khơng trả
tiền. Sau đó ơng B đã khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Tuy
nhiên, tịa án cho rằng việc ơng A trích dẫn bài viết đã cơng bố của ơng B
trong cuốn sách của mình là hợp pháp vì mục đích nghiên cứu, thảo luận chứ
khơng vì mục đích kinh doanh.
* Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép
nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao.
Theo quy định tại Điều 26, Luật Sở hữu trí tuệ, các trường hợp sử dụng tác
phẩm đã cơng bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
bao gồm:
Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã cơng bố có tài trợ, quảng cáo hoặc
thu tiền dưới bất kì hình thức nào khơng phải xin phép, nhưng phải trả tiền
nhuận bút hoặc thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng.
Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã cơng bố để phát sóng khơng có tài
trợ, quảng cáo hoặc khơng thu tiền dưới bất kì hình thức nào khơng phải xin
phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể
từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ.
Đây là ngoại lệ dành riêng cho những trường hợp mà do đặc thù của lĩnh vực
hoạt động, những chủ thể này thường xuyên sử dụng tác phẩm, bản ghi âm,
ghi hình để phục vụ nhu cầu giải trí của cơng chúng như: các tổ chức phát
sóng sử dụng tác phẩm, bản ghi để phát sóng; các chủ thể sử dụng bản ghi âm
trong hoạt động kinh doanh, thương mại như vũ trường, nhà hàng, khách sạn,
quán karaoke, các trang web nhạc... Để tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể
này trong quá trình sử dụng tác phẩm, quyền liên quan, pháp luật quy định họ
không phải xin phép tác giả, chủ thể của quyền liên quan nhưng vẫn phải trả
nhuận bút, thù lao khi sử dụng.
II. Ông Nam là tác giả hai bài báo phân tích về tính " thanh thanh tục tục"
trong thơ Hồ Xuân Hương được đăng trên Tạp chí Văn Nghệ số ngày
03/06/2015 và ngày 03/08/2015. Ông Quân là tác giả cuốn sách " Bình
luận Thơ Hồ Xuân Hương" xuất bản ngày 20/11/2017. Trong cuốn sách
của mình, ơng Qn đã tự ý trích dẫn nguyên văn hai bài báo của ơng
Nam, có đề tên tác giả và nguồn gốc tác phẩm rõ ràng, sau đó phân tích
7
và chỉ ra 20 điểm không hợp lý của ông Nam khi phân tích về thơ Hồ
Xn Hương. Ơng Nam cho rằng ơng Qn có hành vi xâm phạm quyền
tác giả của mình khi sử dụng tác phẩm mà khơng xin phép, không trả
tiền. Tuy nhiên, ông Quân cho rằng ông trính dẫn hợp lý tác phẩm nên
không cần xin phép và trả tiền cho ông Nam. Anh chị hãy phân tích và
đưa ra quan điểm cá nhân trong vụ việc nói trên.
• Phân tích tình huống
Xác định: Trong vụ việc trên, chúng ta thấy ông Quân đã sử dụng ngun
văn tác phẩm của ơng Nam để phân tích và chỉ ra điểm khơng hợp lý. Ơng
Nam cho rằng ơng Quân có hành vi xâm phạm quyền tác giả của mình khi sử
dụng tác phẩm mà khơng xin phép, khơng trả tiền. Tuy nhiên, ơng Qn cho
rằng ơng trính dẫn hợp lý tác phẩm nên không cần xin phép và trả tiền cho
ông Nam.
Hành vi xâm phạm quyền tác giả được quy định tại Điều 28 Luật sở hữu trí
tuệ như sau:
“Hành vi xâm phạm quyền tác giả:
1. Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
2. Mạo danh tác giả.
3. Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả.
4. Cơng bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà khơng được phép của
đồng tác giả đó.
5. Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây
phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
6. Sao chép tác phẩm mà khơng được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật
này.
7. Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ
trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 25 của Luật này.
8. Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả,
không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của
pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 25 của Luật này.
9. Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật
chất khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.
8
10. Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác
phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số
mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
11. Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
12. Cố ý huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền
tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.
13. Cố ý xố, thay đổi thơng tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong
tác phẩm.
14. Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc
cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vơ hiệu các biện
pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả
đối với tác phẩm của mình.
15. Làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo.
16. Xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép
của chủ sở hữu quyền tác giả.”
Và căn cứ vào Khoản 1 Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ có quy định:
“Điều 25. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép,
không phải trả tiền nhuận bút, thù lao
1. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không
phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:
a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của
cá nhân;
b) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà khơng làm sai ý tác giả để bình luận hoặc
minh họa trong tác phẩm của mình;
c) Trích dẫn tác phẩm mà khơng làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn
phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;
d) Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác
giả, không nhằm mục đích thương mại;
đ) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;
e) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong
các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động khơng thu tiền dưới bất kỳ
hình thức nào;
g) Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng
dạy;
9
h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật
ứng dụng được trưng bày tại nơi cơng cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác
phẩm đó;
i) Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngơn ngữ khác cho người khiếm thị;
k) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.”
Như vậy, trong trường hợp này, ơng Qn trích dẫn ngun văn hai bài báo
của ơng Nam, có đề tên tác giả và nguồn gốc tác phẩm rõ ràng thuộc quy định
tại Điểm b Khoản 1 Điều 25 "Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà khơng làm sai ý
tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình”. Đây là một
trong những trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép,
không phải trả tiền nhuận bút, thù lao.
Khi nghiên cứu bài của ông Nam, ông Quân trích và chỉ ra 20 điểm khơng
hợp lí trong bài viết của ơng Nam thì ơng Qn phải in bài của ông Nam một
cách đầy đủ để người đọc mới hiểu hết được những nội dung cần tranh luận.
Các bài của ông Nam không bị cắt xén, nối ghép, xuyên tạc, và tên tác giả vẫn
được đề vào cuốn sách rõ ràng thể hiện nguồn gốc tác phẩm, tác giả. Ơng
Qn trích ngun văn bài viết của ơng Nam mục đích là để người đọc dễ đối
chiếu và nhận ra những sai sót trong các bài của ơng Nam. Như vậy, đây là
một tác phẩm nghiên cứu khoa học, một chỉnh thể sáng tạo của ông Quân.
Điều 24 Nghị định số 100 ngày 21 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ hướng
dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ về
quyền tác giả và quyền liên quan, trong đó “phần trích dẫn này chỉ giới hạn
trong phạm vi giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề trong tác phẩm
của mình”.
Như vậy, việc ơng Qn đưa bài của ơng Nam nhằm mục đích phê bình
trong phần thảo luận là khơng vi phạm bản quyền tác giả.
• Quan điểm cá nhân
Theo ý kiến cá nhân mình, em có quan điểm và một số vướng mắc:
Thứ nhất, Điểm b Khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ có quy định trường
hợp: “Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà khơng làm sai ý tác giả để bình luận
hoặc minh họa trong tác phẩm của mình” thì khơng phải xin phép và trả tiền
nhuận bút, thù lao cho tác giả. Tuy nhiên trường hợp này, ơng Qn đã trích
10
dẫn nguyên văn hai báo của ông Nam, luật cũng khơng quy định rõ thế nào là
trích dẫn hợp lý tác phẩm là thế nào. Do đó, việc xác định ơng Qn có trích
dẫn hợp lý hay khơng sẽ được xác định như thế nào?
Thứ hai, Theo Khoản 6 và Khoản 8 Điều 28 quy định về các hành vi xâm
phạm quyền tác giả:
“6. Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều 25 của
Luật này.
8. Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả,
không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của
pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 25 của Luật này”
Nếu xác định hành vi của ông Quân là hành vi sao chép, cuốn sách của ông
Quân sẽ được xác định như thế nào? Bản sao hay là tác phẩm gì?
Như vậy, theo Khoản 6 Điều 28 và quy định tại Khoản 8 Điều 28 thì hành vi
của ơng Qn liệu có được coi là hành vi sao chép tác phẩm như quy định hay
không?
KẾT LUẬN
11
Có thể thấy, pháp luật hiện nay thừa nhận và bảo hộ cho tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả những quyền mang tính độc quyền. Tuy nhiên, tính độc quyền
này của các chủ thê nói trên có thể làm ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận của
cộng đồng đối với các sản phẩm sáng tạo, làm cản trở sự phát triển của xã hội.
Do đó, việc ban hành các quy định pháp luật về các trường hợp hạn chế quyền
tác giả là vô cùng cần thiết để nhằm đảm bảo lợi ích giữa chủ sở hữu, tác giả
quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích của cộng đồng. Đánh giá tổng quan, những
quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam về các trường hợp hạn chế
quyền tác giả hiện nay tương đối hoàn thiện, phù hợp với quy định trong các
công ước quốc tế mà chúng ta là thành viên, góp phần thúc đẩy q trình sáng
tạo của tác giả và tiếp cận tác phẩm của cơng chúng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam / Trường Đại học Luật Hà Nội
2) Bàn về quy định của luật sở hữu trí tuệ Việt Nam liên quan đến giới hạn
quyền tác giả, quyền liên quan / Vũ Thị Hải Yến // Luật học. Số 7/2010, tr.
37 - 45, 59.
3) Nghị định 100/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của bộ luật dân sự luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền
liên quan
12
13