Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TIỂU LUẬN TÂM LÝ HỌC DÂN TỘC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.64 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
Dân tộc là vấn đề liên quan tới sự ổn định và phát triển của các nước trên
thế giới. Lịch sử và hiện tại ở một số quốc gia cho thấy, khi vấn đề dân tộc
không được giải quyết thấu đáo sẽ tạo ra nguy cơ bùng phát tình trạng xung đột,
ly khai. Cùng với các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc cũng là mối
quan tâm lớn của cộng đồng quốc tế; là một tiêu chí để đánh giá mức độ tiến bộ,
phát triển của mỗi nước. Do đó, nghiên cứu vấn đề dân tộc, tâm lý dân tộc là
một trong những vấn đề quan trọng, mối quan tâm của nhiều nhà khoa học
xã hội và nhân văn hiện nay, nhất là trong bối cảnh có nhiều diễn biến phức
tạp về dân tộc, mối quan hệ dân tộc như hiện nay.
Tâm lý dân tộc là những đặc điểm tâm lý tiêu biểu, đặc trưng nhất và có
tính bền vững của một dân tộc, được hình thành trong môi trường địa lý, tự nhiên,
xã hội của dân tộc đó, là cơ sở để xác định bản sắc của một dân tộc và phân biệt
dân tộc này với dân tộc khác. Tâm lý dân tộc được biểu hiện trên các nội dung
như: Đồng nhất dân tộc, định kiến dân tộc, định hình dân tộc, ý thức dân tộc...
Trong đó, vấn đề đồng nhất dân tộc giữ vị trí quan trọng đối với việc nghiên cứu
tâm lý dân tộc. Đó là một q trình hội nhập, thích nghi, nhận thức của cá nhân
hoặc nhóm vốn thuộc dân tộc này với một dân tộc khác.
Nghiên cứu lý luận về đồng nhất dân tộc là cơ sở quan trọng khẳng định
quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về chính sách dân tộc: “các dân
tộc bình đẳng, đồn kết, tương trợ nhau cùng phát triển, kiên quyết chống kỳ thị
và chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực
đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc”. Qua đó xây dựng và phát huy
khối đại đồn kết tồn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu xây dựng đất nước giàu
mạnh đồng thời là cơ sở để đấu tranh với các quan điểm sai trái lợi dụng vấn đề
dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam. Đối với hoạt động quân sự,
nghiên cứu tâm lý học dân tộc nói chung và vấn đề đồng nhất dân tộc nói riêng có
ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng tập thể quân nhân vững mạnh.
Với ý nghĩa đó, tôi chọn chủ đề: “ Lý luận về đồng nhất dân tộc, vận dụng
trong xây dựng tập thể quân nhân hiện nay” làm nội dung viết tiểu luận.
1




I. LÝ LUẬN VỀ ĐỒNG NHẤT DÂN TỘC
1. Khái niệm và các giai đoạn hình thành tính đồng nhất dân tộc
a, Khái niệm
Tính đồng nhất dân tộc nhiều khi được đánh giá như là một vấn đề trọng
tâm trong con người. Nhưng đối với nhiều người thì những vấn đề trong sinh
hoạt hàng ngày như việc làm, tiền lương, giáo dục con cái, sử dụng thời gian
rỗi... là quan trọng hơn cả. Tuy nhiên, khơng vì thế mà chúng ta lại bỏ qua
những yếu tố tâm lý của cá nhân với tư cách là thành viên của nhóm. Con người
- trong một cộng đồng thống nhất- bao giờ cũng quan tâm đến việc xác định "ta
là ai? " hoặc "chúng ta là ai?". Câu hỏi này cũng thường được đặt ra từ thủa bình
minh, trong buổi đầu của quá trình hình thành tính đồng nhất dân tộc. Vậy, đồng
nhất dân tộc là gì? Theo nghiên cứu của Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Long cho rằng:
Đồng nhất dân tộc là một q trình hội nhập, thích nghi, nhận thức của
cá nhân hoặc nhóm vốn thuộc dân tộc này với một dân tộc khác.
Hay nói cách khác đồng nhất dân tộc là quá trình đối chiếu và so sánh của
cá nhân hay nhóm người với các đặc điểm hay tính chất của dân tộc nào đó
nhằm xác định tính dân tộc của đối tượng.
b.Các giai đoan hình thành tính đồng nhất dân tộc
* Nghiên cứu của J. Piaget (1896-1980).
Một trong những tác giả nghiên cửu đầu tiên vể nhận thức của trẻ đối với
việc nó thuộc nhóm dân tộc nào là J. Piaget. Năm 1951, ơng đã phân tích sự
hình thành khái niệm "Tơ quốc" và hình ảnh "những nước khác", "người nước
ngồi" như là hai mặt của một q trình. Nhà tâm lý học người Thụy Sĩ này coi
sự phát triển tính đồng nhất là một q trình nhận thức về khái niệm "Tổ quốc"
và tình cảm đồng nhất dân tộc và ở một mức độ nhất định đã bổ sung cho những
giải thích về các hiện tượng dân tộc.
Các giai đoạn diễn ra trong q trình hình thành tính đồng nhất dân tộc
của trẻ em có liên quan nhiều đến những giai đoạn phát triển tâm lý của trẻ.

Piaget chia sự hình thành tính đồng nhất dân tộc thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn (6-7 tuổi): trẻ em được tiếp thu những kiến thức đầu tiên đứt
2


đoạn và khơng hệ thống về đặc tính dân tộc mình. Ở lửa tuổi này, đối với trẻ
điều có ý nghĩa hơn cả là gia đình và mơi trường xã hội trực tiếp, chứ khơng
phái là đất nước và nhóm dân tộc
Giai đoạn (8-9 tuổi): trẻ đã xác định được tính đồng nhất với nhóm dân tộc
mình, hình thành cơ sở đồng nhất: tính đồng nhất của cha mẹ, nơi ở, tiếng mẹ
đẻ và qua đó bắt đầu khơi dậy tình cảm dân tộc.
Giai đoạn (10-11) tuổi: trẻ hồn tồn đồng nhất với dân tộc mình. Trẻ em
nhận biết được tính đặc thù của lịch sử, văn hóa truyền thống của dân tộc mình
với tính cách là đặc tính dân tộc.
*Nghiên cứu của O.L.Romanova:
Cơng trình nghiên cứu về q trình phát triển tính đồng nhất dân tộc của
O.L.Romanova cho ta thấy rõ những nhận xét của trẻ em Belarut chưa đến tuổi
đi học về sự khác biệt giữa các nhóm dân tộc là khơng hồn tồn chính xác.
Các em cho rằng những người ở những nơi khác đến sống không giống chúng
ta, ứng xử khác chúng ta. Đối với chúng, những khái niệm khác nhau như dân
thành thị, công dân của một quốc gia, thành viên của một cộng dồng dân tộc là
những đồng nghĩa. Chỉ ở tuổi bắt đầu đi học thì những hiểu biết về dân tộc mới
được thế hiện và nâng cao. Ở đây không phải là sự nhắc lại giản đơn, mà là một
hệ thống thông tin nhận được từ người lớn. Lứa tuổi thiếu niên đã nêu ra được
những nhận xét rõ ràng, cụ thể về sự khác biệt vốn có trong văn hóa, trong vận
mệnh lịch sử và chế độ chính trị... giữa các dân tộc.
Sự phát triển những nhận thức về dân tộc, hiếu biết về dân tộc, vể những
khác biệt giữa các nhóm thường phụ thuộc vào hai yếu tố: Đó là nhận thức
được sự giống nhau giữa bản thân mỗi người với các thành vi của một nhóm
trong các nhóm dân tộc. Và đó cũng là nhận thức được sự khác nhau giữa các

nhóm và khả năng tự định danh dân tộc một cách khẳng định.
Nghiên cứu nói trên của O.L. Romanova cho thấy trẻ từ 5-6 tuổi (thậm
chí lớn hơn) không phải lúc nào cũng xác định đúng bản thân mình, cha mẹ
mình thuộc dân tộc nào, đặc trưng đất nước mình đang sống, đặc điểm của ngơn
ngữ giao tiếp thuộc tộc người nào. Chỉ những thiếu niên đã được hình thành hệ
3


thống biếu tượng về các hiện tượng dân tộc mới có thế đồng nhất một cách rõ
ràng bản thân mình với một cộng đồng dân tộc xác định trên cơ sở đã biết lựa
chọn những dấu hiệu quan trọng để phân biệt tộc người này với tộc người khác.
Quá trình này có hai đặc trưng:
Một là, yếu tố nhận thức về tính đồng nhất dân tộc tạo nên khả năng hình
thành các thơng tin của trẻ về các đặc điểm dân tộc, ở trẻ trước đó đã có xu
hướng đánh giá về các nhóm dân tộc. Hiện nay, các nhà nghiên cứu khơng hồn
tồn thống nhất trong các quan điểm về đời sống cá nhân con người với tư cách
là những yếu tố tạo ra những biến đổi trong đời sống xã hội và điều này đã ảnh
hướng đến sự biến đổi về tính đồng nhất dân tộc.
Hai là, ở trẻ tính liên tục của các giai đoạn phát triển đồng nhất dân tộc
và phạm vi tạm thời giữa các giai đoạn đó khơng mang tính phổ biên đối với
mọi dân tộc và mọi hoàn cảnh xã hội. Tuỳ theo bối cảnh xã hội mà chúng có thể
phát triển nhanh hơn hoặc chậm hơn.
Ngày nay, trên thế giới có nhiều cơng trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ và
cụ thể hóa độ tuổi trong các giai đoạn phát triển tính đồng nhất dân tộc. Những
biểu hiện đầu tiên của tính đồng nhất được phần lớn các tác giả phát hiện ở trẻ
em từ 3-4 tuổi. Thậm chí trẻ 3 tuổi đã có những nhận biết đầu tiên về sự khác
biệt bên ngồi như màu da, màu tóc của nó và những người xung quanh. Tuy
nhiên, trong thực tế hầu hết các nhà tâm lý học đều đồng ý rằng trẻ em đã có
được tính đồng nhất "thực sự" ở lứa tuổi nhi đồng, khi sự tự phản ứng - như đã
biết - có ý nghĩa rất quan trọng đối với mỗi con người.

Cũng có thể nói đồng nhất dân tộc là một quá trình hình thành các thành
phần nhận thức và cảm xúc về một cá nhân, một nhóm người, một đối tượng
nhằm xác lập sự tương đồng thông qua đối chiếu và so sánh Tính đồng nhất
thường xuất hiện và liên tục diễn ra trong các giai đoạn của quá trình này. Một
số tác giả cho rằng, tình cảm dân tộc chỉ hình thành khi trẻ 9 - 10 tuổi, trên cơ
sở đã có những hiểu biết nào đó, mặc dù trong trường hợp này trẻ em trở nên
khác biệt hơn và có tinh thần đồn kết hơn so với lứa tuổi.
Nhiều nghiên cứu cho rằng quá trình hình thành tính đồng nhất dân tộc
4


khơng kết thúc ở lứa tuổi thiếu niên. Hồn cảnh bên ngồi có thể tác động đến
con người ở bất kỳ lứa tuổi nào, khi người đó nhận thức rõ hơn sự phụ thuộc
của mình vào đồng nhất dân tộc mình trong cuộc sống của mình và điều này tất
yếu dẫn đến sự biến đổi tính đồng nhất dân tộc. Trước sự tác động của các sự
kiện, các tình huống, ý thức đồng nhất dân tộc từ chỗ yếu có thể trở nên bền
vững hoặc ngược lại, tức là nó biến đổi. Do đó, khơng phải chỉ hồn cảnh bên
ngồi tác động đến q trình phát triển tính đồng nhất, mà còn cố sự am hiểu về
dân tộc từ những hiểu biết về nhóm dân tộc mình và các nhóm đồng nhất dân
tộc khác để từ đó có sự tự định danh dân tộc. Am hiểu dân tộc càng sâu hơn,
rộng hơn, tích luỹ được kinh nghiệm nhiều hơn, tiếp thu được thơng tin mới
hơn và nhờ đó mà khả năng nhận thức ngày một phát triển hơn.
Ban đầu tính đồng nhất ở trẻ dựa trên những yếu tố hiển nhiên như màu
da, hình dáng, ngơn ngữ và những yếu tố về văn hóa vật chất (thức ăn, quần
áo…) các phong tục tập quán. Sau đó là khả năng lĩnh hội, miêu tả, diễn giải
các dấu hiệu dân tộc và có sự kết hợp của các yếu tố mới như tính đồng nhất
của tổ tiên với lịch sử tơn giáo.
Vấn đề nêu trên vẫn còn đang được tranh luận, nhưng có một điều rõ ràng
là q trình phát triển tính đồng nhất dân tộc ở trẻ trải qua hàng loạt các giai đoạn
từ khuếch tán đến thực hành. Việc hình thành nhận thức về giá trị đạo đức cũng

phụ thuộc vào mỗi cộng đồng dân tộc và đó là kết quả của q trình đồng nhất.
2. Ảnh hưởng của hồn cảnh xã hội đối với đồng nhất dân tộc
a, Môi trường sống
Yếu tố có ảnh hưởng đáng kể đến nhận thức về đặc trưng dân tộc cùa con
người là môi trưòng sống đa sắc tộc hoặc môi trường dân tộc thuần nhất. Theo
O. L. Romanova thì mơi trường tiếp xúc giữa các dân tộc tạo cho mỗi cá nhân
khả năng cao hơn trong việc tiếp thu các kiến thức về đặc tính dân tộc mình và
các nhóm dân tộc khác, tạo ra những điều kiện cho sự hiểu biết giữa các dân tộc
và hình thành thói quen giao tiếp giữa họ ngày một tốt hơn. Trẻ em Nga sống ở
Matxcơva, nơi có nhiều dân tộc có khả năng nhận thức bản tính dân tộc của
mình nhanh hơn trẻ em vùng nông thôn hẻo lánh. Sự thiếu hụt kinh nghiệm về
5


giao tiếp giữa các dân tộc, một mặt, làm cho chất lượng giao tiếp kém hiệu quả.
mặt khác, ít tạo ra những quan tâm vê đặc trưng dân tộc.
So sánh những người Nga sống ở Bêlarut và những người Nga sống ở
Cadắxtan thì rõ ràng là tính đồng nhất dân tộc thể hiện rõ hơn những người
sông trong cùng một mơi trường văn hóa so với những người sống trong mơi
trường khác biệt về văn hóa. Theo Romanova với những đứa trẻ Belarut thì văn
hóa dân tộc các em có sự gần gũi với văn hóa dân tộc Nga nhiều hơn, nên việc
nhận thức tính đồng nhất dân tộc khơng phải là vấn để khó khăn.
Như vậy, tính đồng nhất dân tộc được nhặn thức rõ ràng hơn, kiến thức về
những khác biệt giữa các nhóm dân tộc được tiếp thụ sớm hơn và nhanh hơn.
Do đó q trình xã hội hóa của trẻ diễn ra trong mơi trường chính trị ổn định
của các dân tộc cũng diễn ra tốt hơn. Khơng chỉ phạm vi tạm thời của việc hình
thành tính đồng nhất dân tộc, mà mức độ hiểu biết về sự định danh của bản thân
đứa trẻ vào một cộng đồng dân tộc xác định cũng phụ thuộc vào việc đứa trẻ
thuộc nhóm tộc người nào và nhóm đó lớn hay nhỏ
b, Mối quan hệ về vị thế xã hội giữa các dân tộc

Hai nhà tâm lý học xã hội ngưòi Anh là G. Janoda và s. Thomson chỉ ra
rằng ỏ Scotlen các biểu tượng về nhóm dân tộc thường hình thành sớm hơn ở
một nhóm nhỏ những đứa trẻ nhập cư từ Pakitxtan so với trẻ Scotlen vốn thuộc
nhóm dân tộc lớn hơn. Những đứa trẻ ở nhóm tộc người nhỏ hơn hiểu về văn
hóa chủ yếu qua phương tiện thông tin đại chúng và tiếp xúc cá nhân. Trẻ cùng
độ tuổi ở nhóm tộc người lớn hơn, nói chung, có thể khơng có những kiến thức
về văn hóa Pakitxtan. Người Scotlen thừa nhận rằng giữa các nến văn hóa có sự
khác biệt về chuẩn mực, về giá trị và khuôn mẫu hành vi. Sự đồng nhất của họ
với những dân tộc nhỏ thường diễn ra trong môi trường kiểm sốt của các chuẩn
mực văn hóa của nhóm lớn. Nhưng, thậm chí nếu các thành viên của nhóm nhỏ
hiểu rõ sự khác biệt giữa hai dân tộc, hai nền văn hóa thì cùng khơng có nghĩa
là họ u thích nhóm mình hơn và thừa nhận bản thân mình thuộc về nhóm đó.
Các cơng trình nghiên cứu nói trên cho thấy những đứa trẻ Pakitxtan tỏ ra thích
thú những cái tên Scotlen, mang đặc trưng của một nhóm lớn hơn so với tộc
6


người Pakitxtan vơn một nhóm nhỏ hơn.
Nhiều cơng trình nghiên cứu về sự phát triển tính đồng nhất dân tộc đã
được tiến hành tại Mỹ, Anh, NiuDilan và một số nơi khác. Người ta đưa cho trẻ
em chưa đến tuổi đi học bộ búp bê hoặc bộ tranh mang những đặc trưng về con
người thuộc các dân tộc, chủng tộc khác nhau và yêu cầu chúng chọn búp bê
hoặc tranh mà chúng thích nhất. Nêu những đứa trẻ ở nhóm dân tộc lớn đều ưa
thích nhóm mình khi trả lời, thì ngược lại, những đứa trẻ ở nhóm dân tộc nhỏ
hơn cũng thường lựa chọn những nhân tố "không phù hợp". Ví dụ trẻ da đen
thường chọn những con búp bê da trắng, trong khi người ta yêu cầu chúng phải
chọn những con búp bê xinh nhất và màu da phải giống chúng nhất. Thực
nghiệm tại Mỹ năm 1950 cho thấy 92% trẻ da trắng và chỉ có 26% trẻ lai Mỹ Phi ở tuổi 3.5-5,5 là có sự lựa chọn đúng yêu cầu (Lepkevich. Pankôva, 1973).
Khuynh hướng trên phản ảnh một thực trạng là trẻ thường sớm có hiểu
biết về sự hiện hữu của một cấu trúc xã hội nhất định, rằng có một số nhóm này

trong xã hội được đánh giá cao hơn các nhóm khác. Những trẻ nhỏ chưa hình
thành tính đồng nhất thường mong ước được thuộc về nhóm có vị thế cao hơn
một khi được lựa chọn và chúng nhận thức mình là thành viên của nhóm đó.
Cùng với lứa tuổi và sự phát triển tính đồng nhất dân tộc, ở các thành viên
thuộc dân tộc nhỏ thường xảy ra sự chuyển dịch theo "khuynh hướng bên trong
nhóm". Trong q trình xã hội hóa khi tiếp nhận các giá trị mang tính chuẩn
mực của mơi trường văn hóa xã hội, trẻ em đồng thời tiếp nhận kiến thức mới
vê sự khác biệt giữa các dân tộc và xác định rõ ràng hơn sự lệ thuộc của mình
vào một nhóm nhất định. Kết quả là mỗi thành viên mới của xã hội đều “đăng
ký gia nhập” vào một dân tộc này hay một dân tộc khác.
Tuy nhiên đối với trẻ, nhóm lớn có vị thế cao, nhóm "xã hội mong muốn"
có thể vẫn là nhóm chuẩn mực. Việc “đăng ký" hồn tồn khơng có nghĩa là
vĩnh viễn không thay đổi. Đầu tiên trẻ nhỏ học hỏi ở những người khác để biết
chúng thuộc về nhóm nào và tiếp nhận vị thế dân tộc mà mình đồng nhất được
xã hội quy định. Đến lứa tuổi thiếu niên đứa trẻ này sẽ nhận thức rằng nó có thể
"lựa chọn tích cực". Theo E. Brichson, sự đồng nhất bản thân với nhóm sẽ diễn
7


ra khi nó được những người khác coi như một thành viên hoặc xác định nó là
thành viên của nhóm lớn. Một nghiên cứu về những thiếu niên Mỹ gốc Mehico
cho thấy có một số trẻ nói bằng ngơn ngữ mẹ đẻ, gìn giữ được phong tục của
cha mẹ và nhận thức được mình là người Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha, còn những
trẻ khác khơng nói tiếng Tây Ban Nha nữa, lại tự khẳng định bản thân là người
Mỹ da trắng “nói tiếng Anh”.Trong trường hợp gặp khó khăn phải so sánh các
nhóm với nhau, thành viên thuộc mỗi nhóm sẽ lựa chọn các giải pháp phù hợp
khi tính đồng nhất dân tộc của chúng đã được xác định
3. Các phương thức duy trì tính đồng nhất dân tộc

Nhu cầu bảo vệ và khơi phục tính đồng nhất dân tộc tích cực là nhu cầu

mang tính tự nhiên. Tính đồng nhất này tạo cảm giác tâm lý an toàn và ổn định
ở trẻ. Để thực hiện điều này phải sử dụng các phương thức khác nhau:
Phương thức duy trì tính đồng nhất dân tộc tích cực có thế thấy trong các
nội dung về các định khuôn tự xác định. Định khn nghĩa là xác định những
phẩm chất, thuộc tính ở dân tộc mình khác với những phẩm chất và thuộc tính ở
dân tộc khác. Chúng ta biết rằng các nhóm có vị thế thấp hơn thường có khuynh
hướng xác định bản thân theo quan điểm lỏng lẻo, dễ dài. Ví dụ, trong các
nghiên cứu vào những năm 80, các sinh viên Matxcơva đã đánh giá những
người thuộc cộng đồng dân tộc mình là mến khách, thân thiện, nhân từ, hiền
hậu và tốt bụng. Còn những người Mỹ thì tháo vát, nhanh trí, cần cù, tận tâm.
Đây là những phẩm chất có khả năng tạo điều kiện để đạt hiệu quả cơng việc
cao. Nhưng theo truyền thống Nga thì những phẩm chất này có vị trí thấp trong
thang bậc các đặc điểm nhân cách được coi là có giá trị.
Một ví dụ khác về việc sử dụng các tiêu chuẩn mới để so sánh là phương
châm hành động của những người Mỹ gốc Phi “đen là tuyệt vời” xuất hiện vào
những năm 70 ở Mỹ. Đây là một điều kiện hình thành tính đồng nhất tích cực.
Trong thời gian này các nhà nghiên cứu là người Mỹ thấy rằng trẻ da đen trở
nên tách bạch hơn khi lựa chọn búp bê màu trắng như là những thứ hấp dẫn và
giống chúng hơn.
8


Phương thức tạo lập tâm lý an toàn một cách chủ quan được thực hiện
bằng việc lựa chọn để so sánh với các nhóm ít thành đạt hơn hoặc yếu hơn. Một
nghiên cứu cho thấy sau khi nước Đức hợp nhất, người Đông Đức rơi vào đẳng
cấp thấp hơn so với người Tây Đức. Nhưng họ không hướng sự bất mãn và
những hành vi cơng kích của mình về phái nhà nước Đức và nhóm những
người Tây Đức, mà họ hướng vào nhóm người di cư từ những nước nghèo và
những cơng dân nước khác để đả kích và chê bai.
Nếu so sánh liên nhóm trỏ nên bất lợi khi thành viên của nhóm nhỏ bị

kỳ thị có thể chọn cách khác để tiếp nhận sự tự đồng nhất đúng đắn. Trong
trường hợp này, tính đồng nhất dân tộc tiêu cực sẽ hình thành. Nó có thể đi
kèm với cảm giác kém giá trị, bị chèn ép và thậm chí hổ thẹn về người đại
diện cho dân tộc mình. Kiểu đồng nhất dân tộc này là bất lợi đối với các mối
quan hệ liên nhóm, làm cho sự kỳ thị dân tộc trở nên sâu sắc và làm cho
khoảng cách văn hóa với nhóm lớn càng nhiều hơn. Các nghiên cứu thực
nghiệm đã nhiều lần khẳng định rằng những đứa trẻ thuộc về một dân tộc
chiếm một sô lượng thiểu số so với đa số các thành viên khác trong nhóm sẽ
dẫn đến chỗ tự đánh giá thấp bản thân mình. Trường hợp các nhóm đang xung
đột với nhau, thành phần dân tộc của giai cấp không ảnh hưởng đên sự tự
đánh giá. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự tự đánh giá thấp thể hiện như nhau
ở thiếu niên Palettxtin trong các trường phổ thông Ảrập - Do Thái và trường
thuần Ảrập. Khi tự cho mình là thành viên của một nhóm nhỏ, trẻ em thường
so sánh bản thân mình với nhóm lớn (xét về tồn diện) chứ khơng phải với
những người Do Thái cùng học.
Khi tiếp nhận tính đồng nhất tiêu cực từ phía những người đại diện cho
nhóm mình, người ta có thể phản ứng lại những đánh giá tiêu cực về dân tộc
mình, củng có nghĩa là về chính bản thân mình. Khi đó con người có khả năng
thốt khỏi cảm giác kém giá trị và duy trì sự tự đánh giá cao thơng qua sự phản
ứng lại.
Con người có thể có ý kiến tiêu cực về các thành viên khác trong nhóm,
nhưng khơng thể làm như vậy đối với bản thân. Khuynh hướng này bộc lộ rõ ở
9


những thiếu niên Do Thái hiện nay. Khi lan truyền dư luận ầm ĩ rằng: ở Nga
khơng có tương lai cho người Do Thái, thì số trẻ em Do Thái lạc quan về tương
lai của mình khơng những khơng giảm đi mà càng tăng thêm. Nói cách khác,
những đứa trẻ đã bộc lộ "sự đồng nhất khác nhau" giữa bản thân và dân tộc.
Khi so sánh liên nhóm trở nên bất lợi, người ta có thể lựa chọn phương

thức năng động cá nhân. Phương thức này tạo điều kiện làm cho nhóm biến đổi.
Những thay đổi vế nhận thức của nhóm có thể có ảnh hưởng khơng tốt đến sự
hình thành tính đồng nhất và tính ổn định của nó. Tính khơng ổn định này bộc
lộ ở những trẻ nhỏ khi chúng mới chỉ nhận thức được mình là một thành viên
của nhóm chính, chứ chưa hình thành được tính đồng nhất dân tộc.
Vê phía nhóm nhỏ, khi có sự đánh giá bất lợi thì cần tạo ra khả năng
khách quan để trẻ em có thể chuyển sang nhóm khác. Thơng thường việc
chuyển sang các nhóm có vị thế cao sẽ rất phức tạp bởi quy tắc tâm lý về sự gia
tăng hoạt động, bởi những người có sự giống nhau trong nhóm và có sự khác
biệt giữa các nhóm. Khi đánh giá về những người có kỳ vọng tham gia "câu lạc
bộ dành cho các cử tri", thì các thành viên của câu lạc bộ lập tức cho rằng thà
để "người thích hợp" ở ngồi câu lạc bộ, còn hơn là cho "người khơng thích
hợp" gia nhập. Tương tự như vậy, những người sống ở vùng biên giới giữa
Pháp và Italia có thể khơng dứt khốt cho rằng họ thuộc về dân tộc nào. Nhưng
nếu dưa họ vào sâu trong biên giới Italia 60km thì người ta đã cho rằng họ là
người Pháp và nếu đưa họ qua biên giới Pháp 60km thì họ được xem như là
người Italia.
Có những giới hạn khơng thể vượt qua và chỉ có trẻ em mới có thể khơng
nhận thấy những yếu tố tự nhiên như giới tính hay bản tính dân tộc. Nhưng
trong xã hội hiện đại có một người đã "nhảy qua" giới hạn "cao nhất" đó. Sau
khi được phẫu thuật tạo hình, ca sỹ M. Jackson đã thay đổi từ da đen thành da
trắng. Đây là ngoại lệ và chỉ mang tính chất cá biệt.
Khi xem xét dân tộc như là một thực thể sinh học - xã hội thì sự thay đổi
nhóm bằng khơng: tính dân tộc được kế thừa và khơng ai có thể lựa chọn định
danh nhóm dân tộc cho mình mà mình muốn. Thế nhưng hiện nay rất ít nhà
10


nghiên cứu lưu tâm đến quan điểm này và thường xác định bản tính dân tộc của
cá nhân theo "huyết thống". Phần lớn các học giả cho rằng bản tính dân tộc là

phẩm chất được xã hội quy định sẽ được gia tăng, nó khơng phải là phẩm chất
được kế thừa. Họ xem xét dân tộc trong một phạm vi nào đó là mắt xích liên kết
hai loại nhóm: nhóm tộc người không thể thay đổi và con người tự lựa chọn
nhóm cho mình.
Ỏ Nga hiện nay, việc hiểu tính dân tộc như là một tính chất được bổ sung
thêm và chỉ dừng lại ớ mức độ nhận thức thông thường.Theo kết quả nghiên
cứu xã hội học dân tộc năm 1995, có 48.6% số người được hỏi đã quan niệm
bản tính dân tộc được quy định bởi tự nhiên, được tạo hóa ban cho con người và
khơng nên thay đổi nó. Chỉ có 9.7% cho rằng con người có quyền lựa chọn tính
dân tộc một cách có ý thức.
Những kết luận này có cơ sở từ nhiều phương diện: cơ chế cấp chứng
minh thư tại nước Nga đã giới hạn con người và dân tộc, trong khi dân tộc đã
quy định bản tính dân tộc của con người theo quan hệ họ hàng.
Nhưng dẫu sao thì quá trình xã hội hố và văn hóa đã có tác dụng xác
định cá nhân vào một dân tộc nhất định. Do đó, đa số mọi người khơng có sự
lựa chọn nào khác. Nhưng trước hết những thành viên của nhóm nhỏ và những
người xuất thân từ các cuộc hôn nhân giữa các dân tộc đã phải trải qua cuộc
trưng cầu dần ý" trong bản thân mình về cộng đồng thật sự của mình. Đối với
người Mỹ, không kể các tiêu chuẩn lựa chọn bên trong (cá nhân tự nhận thức
bản thân mình là ai) thì còn tiêu chuẩn bổ sung thêm (những người khác xem
họ là ai) và điều này có vai trò to lớn trong qua trình đồng nhất hóa dân tộc.
Tiêu chuẩn bên ngoài như một dấu hiệu để bổ sung thêm là đặc biệt quan
trọng, khi tính dân tộc đã thể hiện rõ ràng trong các đặc điểm thể chất. Ví dụ:
trường hợp các cá nhân đã đồng nhất mình với nhóm lớn. Người ta gọi ngưòi
Mỹ gốc Phi là "Opeo". Thật ra trong suy nghĩ và hành động họ giống người da
trắng hơn là người da den. Họ cho rằng bên ngoài, họ là người da đen, nhưng
bên trong, họ đã là người da trắng. Nhưng như thế không có nghĩa là những
người da trắng đã tiếp nhận họ vào nhóm người mình.
11



Thậm chí, những người đã có cơ sở khách quan để xếp mình vào một
cộng đồng nào đó, ví dụ: trẻ em xuất thân từ những cuộc hôn nhân giữa các sắc
tộc vẫn còn là những người xa lạ đối với cộng đồng ấy. Những đứa trẻ này
không nhận thức được mình là người lai. Đối với người da trắng thì họ là người
da đen, còn đối với người da đen thì họ là da trắng. Chúng ta thấy những câu
chuyện trong văn học đã minh hoạ rất rõ hậu quả của sự thiếu hụt các tiêu
chuẩn cần được bổ sung thêm. Nhân vật chính - Hyrotanaka - trong tác phẩm
“Phương Đông là phương Đông” - không biết rằng cha mình là người Mỹ, mẹ
là người Nhật và bà đã mất trong thời thơ ấu của em.Ở Nhật, Hyrotanaka hoàn
toàn xa lạ. "Mũi lỏ, đồ bỏ thừa" là những lời nhục mạ đã ám ảnh cậu bé suốt cả
cuộc đời. Mỗi lần từ nhà trẻ về, cậu lại khóc trong vòng tay bà nội. Là một vật
hy sinh, trong những năm học đầu tiên ở trường trung học cậu thường bị đánh
đập. Rốt cuộc, cậu phải bỏ trường Trung cấp Hàng hải vì bị trẻ cùng học ức
hiếp. Chúng gọi cậu là "người nước ngoài". Trong xã hội Nhật Bản người ta
không thể chấp nhận sự xuất hiện các dòng máu lạ. Cậu bé cho rằng ở nước Mỹ
có thể có một phần là người da đen, hai phần là người Nam Tư, ba phần là
người Eskimo và khi dạo chơi trên phố họ đều tự ngẫng cao đầu và cậu cố gắng
đồng nhất mình với dân tộc Mỹ gồm nhiều chủng tộc. Nhưng khi đến nước Mỹ,
những người Mỹ cũng thù ghét cậu, xua đuổi cậu như một con thú dữ.
Tính đồng nhất dân tộc tuyệt đối với nhóm dân tộc khác như đã nhận xét có thể xảy ra khi nhóm đó được đánh giá là có vị thê kinh tế- xã hội, chính trị...
cao hơn nhóm mình. Sự đồng nhất tuyệt đối với nhóm khác, có nghĩa là tiếp
nhận hoàn toàn những truyền thống, giá trị, chuẩn mực, ngơn ngữ của nhóm đó
cho đến khi bị hòa tan hồn tồn. Ví dụ, vị trí ưu tiên của tiếng Nga ở
Cadacxtan như là cơng cụ giao tiếp chính trong thời kỳ Xô viết đã đưa đến việc
hạ thấp một cách đáng kể giá trị của ngôn ngữ Codac - trước hết là những
người ở thành thị. Một nghiên cứu xã hội học thực hiện ở Cadacxtan tiến hành
vào giữa những năm 90 của thế kỉ XX cho thấy 74.5% người Codac thông thạo
tiếng Nga và 71% người thông thạo tiếng Codac. Việc đồng nhất một phần
ngôn ngữ của người dân Codac đã thể hiện một phương thức năng động của cá

12


nhân muốn được liên kết vào nhóm chính nhờ đó mà có sự đồng nhất xã hội
tích cực.
Trong một xã hội đa dân tộc mang sắc thái chính trị thống nhất, tính đồng
nhất dân tộc tạo thuận lợi hơn cho con người, vì nó cho phép tiếp thu những giá
trị của một nền văn hóa chung mà khơng gây tổn hại đến những giá trị văn hóa
riêng. Từ quan điểm này việc thử phân chia các giai đoạn phát triển nhân cách
đã được chú ý trong nhiều cơng trình nghiên cứu. Các cá nhân thường có tương
tác với những đại diện của các nền văn hóa khác và họ nhận được sự giúp đỡ
của xã hội. Ứng với mơ hình này, trong trường hợp thích nghi thành cơng, cá
nhân phải trải qua 3 giai đoạn mang tính vị chủng, phủ nhận sự khác biệt: bảo
vệ và chống lại sự khác biệt bằng việc đánh giá có lợi cho nhóm mình và tiếp
nhận sự khác biệt. Thích nghi với sự khác biệt văn hóa hoặc thích nghi với sự
khác biệt nhóm -nghĩa là khơng chỉ tiếp nhận nó mà còn tác động theo những
phương thức nhất định.
Việc nhận thức và chấp nhận sự lệ thuộc của mình vào hai cộng đồng dân
tộc có ảnh hưỏng tốt đến sự phát triển nhân cách của những người vốn xuất
thân từ các cuộc hôn nhân của hai người thuộc hai tộc danh. Một người có cha
là người Acmenia và mẹ là người Nga đã nói rằng từ lâu họ cảm thấy mình
đứng giữa hai nhóm, có cảm giác thân thể mình khơng phải là bị cắt đơi, mà
giống như một cái áo có chung một đường khâu. Rằng nhờ đường khâu này,
tạm thời họ sống và có cái gì đó được liên kết lại giữa hai người. Sự liên kết
thống nhất, dung hoà, cân đối do chính họ tự khâu lấy làm cho họ sống n
bình, thanh thản và cam thấy có ích hơn.
Đáng tiếc là "những tạp chủng văn hóa" - những thành viên của các nhóm
nhỏ và những người xuất thân từ rác cuộc hôn nhân giữa các dân tộc - thường
cảm thấy rằng họ chính là chỗ đứt gãy của một dải đất, chứ không phải là
đường khâu của một cái áo. Họ là các cá nhân với tính đồng nhất dân tộc giáp

ranh. Các cá nhân này có thể cân bằng được hai nền văn hóa. Nếu họ khơng lĩnh
hội đầy đủ các chuẩn mực và giá trị của một trong hai nhóm vốn thuộc người
cha hoặc người mẹ thì trường hợp này có thể làm phức tạp hóa tính đồng nhất
13


và gây ra xung đột trong nội tâm con người. Với sự rối loạn cảm giác, với cảm
giác không thể thích nghi, những trạng thái lạnh nhạt, tuyệt vọng, sự sinh tồn
ngu ngốc và tính xâm kích, dữ dằn, bạo lực... có thê xuất hiện trong cuộc sống
chung của họ.
Những mơ thức nêu trên cho phép đo được tính đồng nhất dân tộc nhưng
không mô tả được tất cả các hình thức có thể xảy ra và tương ứng với nó là các
phương thức bảo vệ sự an tồn cúa các cá nhân và nhóm. Trong thực tế có thế có
tính đồng nhất yếu, khống thể hiện rõ ràng, hoặc thậm chí khơng có tính đồng
nhất. Để bảo vệ sự an toàn cá nhân, giá trị của nhân tố dân tộc và bản tính dân
tộc trong cuộc sơng cá nhân người đó trong một số trường hợp đã bị loại trừ.
II. VẤN ĐỀ ĐỒNG NHẤT DÂN TỘC Ở VIỆT NAM
1. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc

Việt Nam là quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc cùng sinh sống, kề vai
sát cánh với nhau trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Các dân tộc thiểu
số nước ta cư trú xen kẽ trên địa bàn rộng lớn, có vị trí đặc biệt quan trọng về
chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái. Trong
điều kiện đất nước đang đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế sâu rộng, các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà
nước thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã và đang đi
vào cuộc sống, tạo sự đồng nhất trong đồng bào các dân tộc thiểu số cũng như
đoàn kết các dân tộc Việt Nam.
Cả nước hiện có 54 dân tộc anh em. Trong số 54 dân tộc, có những dân
tộc vốn sinh ra và phát triển trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thửa ban đầu, có

những dân tộc từ nơi khác lần lượt di cư đến nước ta. Do vị trí nước ta giao lưu
hết sức thuận lợi nên nhiều dân tộc ở các nước xung quanh vì nhiều nguyên
nhân đã di cư từ Bắc xuống, từ Nam lên, từ Tây sang, chủ yếu từ Bắc xuống, rồi
định cư trên lãnh thổ nước ta.
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân số giữa các dân tộc rất khơng đều
nhau, có dân tộc có số dân trên một triệu người như Tày, Thái... nhưng cũng có
14


dân tộc chỉ có vài trăm người như PuPéo, Rơ-măm, Brâu... Trong đó, dân tộc
Kinh là dân tộc đa số, chiếm tỷ lệ lớn nhất trong dân cư nước ta, có trình độ phát
triển cao hơn, là lực lượng đồn kết, đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong quá
trình đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước, góp phần to lớn vào việc hình
thành, củng cố và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam.Tuy số dân có sự
chênh lệch đáng kể, nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh em một nhà, quý
trọng, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cả
khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn. Ở nước ta khơng có tình trạng dân tộc đa
số cưỡng bức, đồng hố, thơn tính các dân tộc ít người, do đó cũng khơng có
tình trạng dân tộc ít người chống lại dân tộc đa số. Ngày nay, trước yêu cầu phát
triển mới của đất nước, các dân tộc anh em trên đất nước ta tiếp tục phát huy
truyền thống tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng một nước
Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2. Các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống đồn kết trong đấu tranh
dựng nước và giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất.
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhiều dân tộc có chung cội nguồn.
Nói về nguồn gốc dân tộc Việt Nam đã có nhiều truyền thuyết như truyện "Quả
bầu mẹ" giải thích các dân tộc có chung nguồn gốc; truyện "Ðơi chim" đẻ ra
hàng trăm, hàng ngàn trứng nở ra người Kinh, người Mường, người Thái, người
Khơ-mú...; truyện của dân tộc Ba-na, Ê-đê kể rằng người Kinh, người Thượng là

anh em một nhà; đặc biệt là truyện Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ đẻ ra một bọc
trăm trứng nở ra trăm người con, một nửa theo cha xuống biển trở thành người
Kinh, một nửa theo mẹ lên núi thành các dân tộc thiểu số. Vua Hùng được coi là
Tổ tiên chung của cả nước.
Còn các tài liệu lịch sử cũng cho thấy, người Việt, người Mường là con
cháu của người Lạc Việt, là chủ nhân của nền văn hố Ðơng Sơn. Theo nhiều
nhà nghiên cứu, việc tách nhóm Việt -Mường thành các dân tộc là một quá trình
lâu dài, bắt đầu vào cuối thiên niên kỷ I, đầu thiên niên kỷ II sau công nguyên.
Người Tày, Thái, Nùng là những bộ phận của người Tày, Thái cổ, trong quá
15


trình lịch sử đã tách thành các dân tộc Tày, Thái, Nùng. Người H'mơng, Dao xưa
kia có cùng nguồn gốc, sau tách thành các dân tộc H'mông, Dao và Pà Thẻn.
Cũng có những dân tộc khác nhau về nguồn gốc lịch sử như các dân tộc La Hủ,
Lô Lô, Vân Kiều, Sán Dìu...
Các dân tộc có cùng nguồn gốc lịch sử, có nhiều điểm tương đồng là điều
kiện thuận lợi dễ gần gũi gắn bó với nhau. Song dù cùng hoặc khơng cùng một
nguồn gốc sinh ra, có sự khác nhau về tâm lý, phong tục, tập quán... thì đều là
người trong một nước, con trong một nhà, vận mệnh gắn chặt với nhau, các dân
tộc nước ta luôn kề vai sát cánh bên nhau, thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Nước ta ở khu vực địa lý có nhiều thuận lợi song điều kiện tự nhiên cũng
rất khắc nghiệt. Do nắng lắm mưa nhiều nên hàng năm thường bị hạn hán, lũ lụt.
Do yêu cầu tồn tại và phát triển ở một nước nơng nghiệp, trồng lúa nước là
chính, cư dân ở Việt Nam phải liên kết nhau lại, hợp sức để khai phá đất hoang,
chống thú dữ, xây dựng các hệ thống thuỷ lợi (mương, phai), đê, đập, nhằm đảm
bảo phát triển sản xuất. Trải qua nhiều thế kỷ dựng nước và giữ nước, sự gắn bó,
giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất của đồng bào các dân tộc đã được coi như
một tiêu chuẩn đạo đức.
Ngày nay, trước những biến đổi bất lợi về khí hậu, thời tiết có tính tồn

cầu, càng đòi hỏi nhân dân các dân tộc nước ta chung lòng hợp sức phòng tránh,
giảm nhẹ thiên tai cũng như khắc phục hậu quả do bão lụt, hạn hán gây ra. Cuộc
đấu tranh chinh phục thiên nhiên vẫn đòi hỏi tiếp tục phát huy sức mạnh của
khối đồn kết dân tộc và thơng qua cuộc đấu tranh đó, đại gia đình các dân tộc
Việt Nam càng thêm gắn bó chặt chẽ.
Cùng với lịch sử chinh phục thiên nhiên, nhân dân ta còn có lịch sử chống
giặc ngoại xâm vô cùng oanh liệt. Ðất nước ta ở vào nơi thuận tiện trên trục
đường giao thông Bắc - Nam, Ðơng - Tây của thế giới, có tài nguyên thiên nhiên
phong phú và vị trí địa lý - chính trị có tính chiến lược. Do đó, các thế lực bành
trướng và xâm lược ln nhòm ngó và tìm cách thơn tính nước ta. Ðặc điểm nổi
bật của lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm liên tục và nhiều lần, trong
đó có nhiều cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch hùng mạnh, giàu có
16


và hung bạo nhất thế giới. Chính vì vậy mà cộng đồng các dân tộc Việt Nam
luôn sát cánh bên nhau, liên tục đứng lên chống giặc ngoại xâm, đánh thắng
quân xâm lược.
Ðoàn kết trong lao động và trong chiến đấu là truyền thống nổi bật nhất
của các dân tộc Việt Nam được hun đúc qua mấy ngàn năm lịch sử. Trong sự
nghiệp cách mạng do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, truyền thống đoàn kết
dân tộc được phát huy cao độ, là một trong những nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng nước ta. Những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới
rất to lớn và đáng tự hào cho thấy khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta đã có tầm
cao mới và chiều sâu mới, là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nước,
làm cho thế và lực của cách mạng nước ta ngày càng được tăng cường.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt đồn kết là cơ bản, có nơi, có lúc vẫn xảy ra
những va chạm trong quan hệ dân tộc, còn có những biểu hiện mặc cảm, thành
kiến dân tộc. Chính vì thế ở một số nơi, các lực lượng thù địch đã lợi dụng để
kích động chia rẽ dân tộc. Do đó việc tăng cường đồn kết, nâng cao cảnh giác,

kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết
dân tộc là nhiệm vụ của mỗi người dân Việt Nam.
3. Các dân tộc ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ nhau.
Ở một số vùng nhất định có dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song nhìn
chung các dân tộc nước ta sống xen kẽ nhau, khơng có lãnh thổ riêng biệt như
một số nước trên thế giới. Ðịa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng,
ven biển và trung du; còn các dân tộc ít người cư trú chủ yếu ở các vùng miền
núi và vùng cao, một số dân tộc như Khơ me, Hoa, một số ít vùng Chăm sống ở
đồng bằng.
Các dân tộc thiểu số có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không cư trú
thành những khu vực riêng biệt mà xen kẽ với các dân tộc khác trong phạm vi
của tỉnh, huyện, xã và các bản mường. Cách đây chưa lâu (khoảng bốn, năm
chục năm), Tây Nguyên nói chung, Ðắc Lắc nói riêng, hầu hết cư dân vẫn là
người tại chỗ, mỗi dân tộc đều có khu vực cư trú riêng, ranh giới giữa các tộc
người, giữa các bản làng còn rõ ràng thì nay tình hình đã khác xa và xu hướng
17


này còn tiếp tục gia tăng. Hiện nay dân tộc Kinh cư trú ở Ðắc Lắc chiếm tỷ lệ
khá lớn. Cùng với người Kinh, các dân tộc ít người miền Bắc gần đây cũng di
chuyển vào khu vực này ( kể cả di chuyển theo kế hoạch và không kế hoạch) với
số lượng khá lớn. Tới nay, ở miền núi hầu như khơng có tỉnh, huyện nào chỉ có
một dân tộc cư trú. Nhiều tỉnh có tới trên 20 dân tộc cư trú như Lai Châu, Lào
Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Lâm Ðồng... Phần lớn các huyện có từ 5
dân tộc trở lên cư trú. Nhiều xã, bản có tới 3-4 dân tộc cùng sinh sống.
Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, một mặt có
điều kiện để tăng cường hiểu biết nhau, hồ hợp và xích lại gần nhau; mặt khác
cần đề phòng trường hợp do chưa thật hiểu nhau, khác nhau về phong tục tập
quán nên xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, dẫn
đến va chạm giữa những người thuộc các dân tộc cùng sống trên một địa bàn.

Ngày nay, tình trạng cư trú xen kẽ của các dân tộc chủ yếu dẫn tới sự giao lưu
kinh tế - văn hoá giữa các dân tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Do sống
gần nhau, việc kết hôn giữa thanh niên nam nữ thuộc các dân tộc khác nhau
ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đồn kết và hoà hợp giữa các dân
tộc anh em.
4, Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất trong đa dạng,
mỗi dân tộc anh em có những giá trị và sắc thái văn hoá riêng.
Cùng với nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc
đều có một nền văn hố mang bản sắc riêng từ lâu đời, phản ánh truyền thống,
lịch sử và niềm tự hào dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc là tất cả những giá trị
vật chất và tinh thần, bao gồm tiếng nói, chữ viết, văn học, nghệ thuật, kiến trúc,
y phục, tâm lý, tình cảm, phong tục, tập qn, tín ngưỡng... được sáng tạo trong
q trình phát triển lâu dài của lịch sử. Sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hoá mỗi
dân tộc càng làm phong phú nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Thống nhất trong đa dạng là nét riêng, độc đáo của nền văn hoá các dân tộc Việt
Nam. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam trong thời kỳ mới
phải hướng vào việc củng cố và tăng cường sự thống nhất, nhân lên sức mạnh
tinh thần chung của toàn dân tộc. Ðồng thời phải khai thác và phát triển mọi sắc
18


thái và giá trị văn hoá của các dân tộc, đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần ngày
càng cao và nhu cầu phát triển từng dân tộc
III. VẬN DỤNG LÝ LUẬN VỀ ĐỒNG NHẤT DÂN TỘC TRONG
XÂY DỰNG TẬP THỂ QUÂN NHÂN HIỆN NAY
1. Đặc điểm tập thể quân nhân

Thứ nhất, tập thể quân nhân là một nhóm xã hội đặc thù, là tổ chức của
các quân nhân được có mục đích hoạt động chung thống nhất là vũ trang bảo vệ
Tổ quốc và xây dựng đất nước. Quân đội nhân dân Việt Nam là một tập thể lớn,

được hợp thành bởi nhiều tập thể quân nhân thuộc các qn, binh chủng, qn
khu, qn đồn, sư đồn, tổng cơng ty,binh đoàn, học viện nhà trường... và các
đơn vị cơ sở trong tồn qn. Mục đích và nhiệm vụ hoạt động của tập thể quân
nhân có ý nghĩa xã hội to lớn nó thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nó quyết định tới sự mất còn của Tổ quốc, nó ảnh
hưởng trực tiếp tới từng cá nhân, từng gia đình. Sự thống nhất mục đích hoạt
động trong tập thể quân nhân được thể hiện ở sự đồng thuận cao về định hướng
giá trị giá trị,, khơng có sự đối lập nhau về lợi ích, về mục tiêu, lý tưởng chiến
đấu Đây chính là đặc điểm thuận lợi cho việc hình thành nên tính đồng nhất trong
thực hiện nhiệm vụ của quân nhân trong tập thể.
Thứ hai, thành phần xuất thân của quân nhân trong quân đội nhân dân
Việt Nam rất phong phú đa dang: nơng dân, cơng nhân, trí thức….trong đó, phần
lớn xuất thân từ nơng dân nhưng phần lớn vẫn là con em nông dân. Bởi vậy,
trong nhân cách của quân nhân còn mang nhiều dấu ấn tâm lý nơng dân. Những
dấu ấn đó có nhiều nét tích cực thuận lợi cho việc hình thành thành tính đồng
nhất trong tập thể như như: sự chân thành, mộc mạc, thật thà, chất phác trong
quan hệ, sự khiêm tốn giản gị trong lối sống…Tuy nhiên, trong nhân cách của
họ còn tồn tại khơng ít những nét tâm lý tiêu cực gây khó khăn cho việc hình
thành tính đồng nhất trong tập thể, đó là: tư tưởng độc đốn, cục bộ, gia trưởng,
thiếu mạnh dạn thẳng thắn trong đấu tranh phê bình và tự phê bình…
Thứ ba, quân nhân trong quân đội nhân dân Việt Nam đến từ khắp mọi
19


miền của Tổ quốc với các dân tộc khác nhau. Ở mỗi vùng miền có phong tục, tập
quán, nền nếp, lối sống khác biệt nhất định và in đậm trong đời sống tâm lý của
mỗi quân nhân. Chính sự đa dạng, phong phú về nền văn hóa của vùng miền đã
tạo nên những nét riêng về tính cách, phong cách sống, phong cách hoạt động ở
từng học viên. Đặc điểm này ảnh hưởng đến tính đồng nhất dân tộc trong tập thể
theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Ở khía cạnh tích cực, sự phong phú,

đa dạng về phong tục, tập quán, lối sống tạo ra trong tập thể những nét đa dạng về
tình cảm, tình yêu quê hương.Song, cũng tạo ra những khó khăn trong việc thiết
lập, giao lưu tình cảm, hình thành các mối quan hệ qua lại tốt đẹp giữa các quân
nhân với nhau. Trong một số trường hợp, quân nhân chỉ thiết lập mối quan hệ,
giao lưu với những người cùng quê, cùng vùng miền, tạo ra tính cục bộ địa
phương. Chính điều này đã gây nên sự thiếu thống nhất trong thực hiện nhiệm vụ
chung của tập thể và ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành, xây dựng các
mối quan hệ qua lại tích cực giữa các thành viên trong tập thể.
Thứ tư, mối quan hệ giữa các thành viên trong tập thể quân nhân là mối
quan hệ đặc biệt là quan hệ đồng chí đồng đội cùng chung mục tiêu, lý tưởng
chiến đấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, đồn kết gắn bó, phối hợp và giúp đỡ nhau hồn thành nhiệm vụ. Mối quan
hệ này là biểu hiện rõ nét nhất cho tính đồng nhất trong tập thể quân nhân.
Mối quan hệ giữa các quân nhân trong tập thể được hình thành, phát triển
trong quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, chiến thắng của quân đội ta.
Một mặt, nó dựa trên chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, chức năng,
nhiệm vụ, điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định của quân đội; mặt khác, dựa trên
tình thương yêu giai cấp, tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, đồn kết gắn bó chặt
chẽ keo sơn như ruột thịt trong “lúc thường cũng như lúc ra trận” giữa những
con người cùng chung lý tưởng, mục tiêu, cùng thực hiện nhiệm vụ cao cả của
người quân nhân cách mạng-một nhiệm vụ hết sức nặng nề, nhưng rất vinh
quang và cao quý: Sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
chủ nghĩa xã hội, vì dân giàu, nước mạnh, cơng bằng, dân chủ, văn minh.
20


Tuy nhiên, thời gian qua trong tập thể quân nhân còn tồn tại những hạn chế
về tính đồng nhất, như: ở một số đơn vị xảy ra tình trạng vi phạm nguyên tắc
tập trung dân chủ, quân phiệt, bè phái, cục bộ địa phương dẫn đến mất đoàn kết,

biểu hiện bằng mặt mà khơng bằng lòng… Sự suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên đang là nhân tố hiện hữu tác
động xấu đến sự đoàn kết, thống nhất trong cơ quan, đơn vị. Có người tuy là cán
bộ, đảng viên nhưng có tư tưởng thực dụng, toan tính cá nhân, thiếu trung thực,
gây bè kéo cánh, phá vỡ sự đồn kết nhất trí trong nội bộ đơn vị…Do đó, để xây
dựng tính đồng nhất trong tập thể quân nhân cần thực hiện một số biện pháp tâm
lý như sau:
2.Một số pháp tâm lý - xã hội xây dựng tính đồng nhất trong tập thể
quân nhân
a, Cần thống nhất mục đích hoạt động trong tập thể quân nhân.
Mục đích hoạt động của tập thể cơ sở quân nhân là cơ sở tạo nên sự thống
nhất về tư tưởng và hành động của mọi quân nhân. Vì vậy, thống nhất mục đích
hoạt động cho tập thể cơ sở quân nhân và nhanh chóng chuyển nó thành mục
đích hoạt động của mỗi quân nhân hướng vào nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, bảo
vệ Tổ quốc là vấn đề quan trọng hàng đầu, tạo cơ sở phát huy tính tích cực, tự
giác cho mỗi quân nhân trong quá trình xây dựng và thực hiện thắng lợi các
chức năng, nhiệm vụ của tập thể để xây dựng tập thể cơ sở quân nhân vững
mạnh toàn diện.
Thực hiện biện pháp trên, người chỉ huy cần thường xuyên làm tốt công tác
giáo dục nâng cao giác ngộ chính trị, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân nhân
đối với Tổ quốc. Đồng thời quán triệt sâu sắc quan điểm, nghị quyết của Đảng về
bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ chính trị trên giao, những đặc điểm thuận lợi khó khăn
và khả năng thực hiện của đơn vị tới mọi thành viên. Từ đó dân chủ bàn bạc để đi
đến thống nhất mục đích hoạt động trước mắt và lâu dài của tập thể.
Trên cơ sở mục đích hoạt động chung được thống nhất, lãnh đạo chỉ huy
đơn vị cần làm tốt công tác quán triệt, triển khai tổ chức thực hiện. Thơng qua
đó làm cho mọi quân nhân quán triệt chuyển mục đích chung của tập thể thành
mục đích hoạt động của bản thân. Đồng thời, chú trọng làm tốt việc tổ chức
21



phân công, giao nhiệm vụ, đặt kế hoạch cụ thể cho từng bộ phận, từng cá nhân,
phát động thi đua hướng vào thực hiện mục đích hoạt động đã được vạch ra.
Hình thành ở mỗi thành viên, mỗi bộ phận xu hướng vươn tới mục đích hoạt
động chung của tập thể.
b, Tổ chức tốt các hoạt động chung của tập thể quân nhân
Tập thể cơ sở quân nhân chỉ có thể trưởng thành và phát triển thông qua
các hoạt động chung, mặt khác thông qua tổ chức tốt các hoạt động chung mà
các hiện tượng tâm lý xã hội trong tập thể hình thành và phát huy tác dụng ảnh
hưởng của nó.
Để thực hiện biện pháp này đòi hỏi người lãnh đạo, chỉ huy cần nắm vững
tình hình, đặc điểm nhiệm vụ của đơn vị; trình độ giác ngộ chính trị, tư tưởng,
đạo đức, năng lực nghiệp vụ và đặc điểm tâm lý lứa tuổi của các quân nhân
trong đơn vị. Trên cơ sở đó căn cứ vào nội dung, chương trình huấn luyện, giáo
dục; kế hoạch cơng tác và yêu cầu sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu của đơn vị để
tổ chức tốt các hoạt động chung của tập thể. Trong quá trình tổ chức phải hướng
mọi mặt hoạt động và đời sống vật chất tinh thần của tập thể vào mục đích
chung của tập thể; quan tâm đầy đủ đến nhu cầu, nguyện vọng và sự tiến bộ của
mọi thành viên; giáo dục cho mọi thành viên nêu cao tinh thần làm chủ tập thể,
chống mọi biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bản vị địa phương đi ngược với
yêu cầu, nhiệm vụ của tập thể. Cần phát huy tốt vai trò của hệ thống tổ chức
lãnh đạo, chỉ huy, các tổ chức quần chúng, các cá nhân có uy tín trong tập thể.
Đồng thời, thực hiện sự quản lý chặt chẽ, thực hành công bằng, dân chủ; cán bộ
phải thường xuyên lắng nghe ý kiến của quần chúng, đáp ứng được các nhu cầu,
nguyện vọng chính đáng của quần chúng.
c, Xây dựng và củng cố mối quan hệ qua lại tích cực
giữa các quân nhân
Sự phát triển của tập thể cơ sở quân nhân phụ thuộc vào tính chất của mối
quan hệ qua lại giữa các quân nhân trong tập thể. Mối quan hệ qua lại tích cực,
lành mạnh sẽ góp phần củng cố tập thể đồn kết, nhất trí cao, phát triển nhân

cách qn nhân qua đó nâng cao hiệu suất hoạt động của tập thể. Ngược lại mối
22


quan hệ tiêu cực, không lành mạnh là một tiền đề nảy sinh những hiện tượng
tâm lý tập thể tiêu cực, là nhân tố kìm hãm sự phát triển của tập thể.
Trong xây dựng mối quan hệ qua lại cần đặc biệt coi trọng làm cho quân
nhân hiểu biết nhau sâu sắc, có tình cảm chân thành và sự hợp tác trong hoạt
động. Tập trung vào xây dựng các mối quan hệ giữa cán bộ với hạ sĩ quan, chiến
sĩ; quan hệ hạ sĩ quan chiến sĩ với hạ sĩ quan, chiến sĩ; quan hệ giữa cán bộ sĩ
quan với nhau mang bản chất xã hội chủ nghĩa, bản chất của qn đội cách
mạng, của tình đồng chí, đồng đội thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau.
d, Định hướng và điều khiển các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh
trong tập thể quân nhân
Các hiện tượng tâm lý xã hội trong tập thể cơ sở quân nhân có vai trò to
lớn trong định hướng, điều chỉnh sự phát triển nhân cách của mỗi quân nhân và
tạo nên tính đồng nhất trong tập thể. Tuy nhiên, các hiện tượng tâm lý xã hội nảy
sinh trong tập thể đối với quân nhân và tập thể qn nhân có thể tích cực hoặc
tiêu cực tùy theo tính chất của các hiện tượng đó. Vì vậy, người cán bộ chỉ huy ở
đơn vị cần tích cực, chủ động định hướng, điều khiển các hiện tượng tâm lý xã
hội trong tập thể theo hướng tích cực để phát huy vai trò to lớn của các hiện
tượng này hướng vào xây dựng tập thể quân nhân và nhân cách quân nhân đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao của đơn vị.
Thực hiện biện pháp trên người, chỉ huy đơn vị cần nắm chắc đặc điểm,
quy luật, cơ chế vận hành, các nhân tố tác động và sự biến đổi của các hiện tượng
tâm lý xã hội; biết tìm hiểu, đánh giá đúng nguyên nhân, diễn biến, thực trạng của
nó; có kĩ xảo, kĩ năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo các cách thức, biện pháp định
hướng, điều khiển các hiện tượng tâm lý xã hội theo hướng tích cực phù hợp với
từng điều kiện sống, đặc điểm hoạt động và đặc trưng tâm lý của các quân nhân
để gắn kết các thành viên với nhau, tạo nên tính đồng nhất trong tập thể.


23


KẾT LUẬN
Đồng nhất dân tộc là quá trình đối chiếu và so sánh của cá nhân hay nhóm
người với các đặc điểm hay tính chất của dân tộc nào đó nhằm xác định tính dân
tộc của đối tượng. Nghiên cứu tính đồng nhất dân tộc là cơ sở để khẳng định
tính cố kết dân tộc, hòa hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất của dân tộc
Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ Quốc và xây
dựng đất nước. Đồng thời, chứng minh đường lối quan điểm đúng đắn của
Đảng, Nhà nước ta về vấn đề dân tộc mang tính tồn diện, tổng hợp tất cả các
lĩnh vực đời sống xã hội. Thể hiện tính cách mạng, tiến bộ và mang tính nhân
đạo, bởi vì chủ trương, quan điểm của Đảng khơng bỏ sót một dân tộc nào, luôn
luôn tôn trọng quyền làm chủ của mỗi con người và quyền tự quyết của các dân
tộc. Mặt khác, nó còn nhằm phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự
giúp đỡ có hiệu quả của các dân tộc anh em trong cả nước.
Tập thể quân nhân là một nhóm xã hội đặc thù, là tổ chức của các quân
nhân được có mục đích hoạt dộng chung thống nhất là vũ trang bảo vệ Tổ quốc
và xây dựng đất nước. Quân đội nhân dân Việt Nam là một tập thể lớn, được
hợp thành bởi nhiều tập thể quân nhân thuộc các quân, binh chủng, qn khu,
qn đồn, sư đồn, tổng cơng ty,binh đồn, học viện nhà trường... và các đơn vị
cơ sở trong tồn qn. Trong q trình sống, hoạt động cùng nhau, trong các tập
thể quân nhân tất yếu sẽ nảy sinh, hình thành phát triển các hiện tượng tâm lý xã
hội. Những hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trong tập thể quân nhân vừa phản
ánh những điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa... của xã hội nói chung, vừa
phản ánh tính chất, đặc điểm đặc trưng của môi trường hoạt động quân sự, của
tập thể và tác động mạnh mẽ đến sự hình thành phát triển nhân cách quân nhân
và mọi mặt hoạt động diễn ra trong tập thể. Do đó, nghiên cứu lý luận về đồng
nhất dân tộc là cơ sở quan trọng để xây dựng tập thể quân nhân vững mạnh.


24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
2. Trần Hiệp (Chủ biên), Tâm lý học xã hội, Những vấn đề lý luận, Nxb
Khoa học xã hội, H.1997.
3. Phạm Bích Hợp, Tâm lý dân tộc, Tính cách và bản sắc, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, 1993.
4. Đỗ Long, Tâm lý học dân tộc, Nxb Khoa học xã hội, H.2001.
5. Đỗ Long, Tính cộng đồng, tính cá nhân và khái niệm cái “tơi” của con
người Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, H.2002.
6. Đỗ Long, Trần Hiệp, Tâm lý cộng đồng làng và di sản, Nxb Khoa học
xã hội, H.1993.
7. Nguyễn Hồng Phong, Tìm hiểu tính cách dân tộc, Nxb Khoa học xã
hội, H.1983.
8. H.Hipsơ và H.phorvéc, Nhập môn Tâm lý học xã hội mác xít, Nxb
Khoa học xã hội, H.1984.
9. Paul Giran, Tâm lý dân tộc An Nam, Phan Tín Dụng dịch, Nxb Hội Nhà
Văn, 2019.

25


×