Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Phát triển du lịch văn hoá Sơn La qua lễ hội mùa xuân, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.65 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

120

TẠP CHÍ KHOA HỌC



Khoa học Xã hội, Số 7 (12/2016) tr 120 - 131



<b>PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HOÁ SƠN LA QUA LỄ HỘI MÙA XUÂN, </b>


<b>THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP</b>



<b>Nguyễn Thị Huyền, An Thị Hồng Hoa</b>


<i>Trung tâm Nghiên cứu văn hoá các dân tộc Tây Bắc, Trường Đại học Tây Bắc</i>


<i><b>Tóm tắt</b>: Bài báo đề cập đến phát triển du lịch văn hóa thông qua một số lễ hội mùa xuân của dân tộc </i>


<i>Thái trên địa bàn tỉnh Sơn La: Lễ hội đền Nàng Han và đua thuyền truyền thống trên sông Đà huyện Quỳnh </i>
<i>Nhai, lễ hội đền vua Lê Thái Tông, lễ hội Mùa hoa ban thành phố Sơn La, lễ hội Hết Chá tại Mộc Châu. Bài báo </i>
<i>cũng phân tích thực trạng lễ hội hiện nay và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch văn hóa trên địa bàn </i>
<i>tỉnh Sơn La.</i>


<i><b>Từ khố: </b>du lịch văn hoá, lễ hội truyền thống, các dân tộc Sơn La </i>
<b>1. Mở đầu</b>


Sơn La được biết đến là vùng đất chứa đựng nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc về
ẩm thực, phong tục tập quán, các di tích lịch sử văn hố, trong đó lễ hội là một thành tố quan
trọng cấu thành nên đặc trưng văn hoá các tộc người. Lễ hội đã trở thành một phần khơng thể
thiếu, là món ăn tinh thần có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống của đồng bào các dân tộc nơi
đây. Bởi vậy, nghiên cứu và giới thiệu về một số lễ hội mùa xuân tiêu biểu ở Sơn La có ý
nghĩa thiết thực nhằm phát hiện những nét đặc trưng, riêng biệt của các dân tộc Sơn La; góp
phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp đó; đồng thời góp phần quảng bá cho các lễ
hội nhằm thu hút khách du lịch đến với Sơn La nói riêng và vùng Tây Bắc nói chung ngày
càng nhiều hơn.



<b>2. Nội dung </b>


<b>2.1. Lễ hội và du lịch văn hoá </b>
<b>2.1.1. Du lịch văn hoá</b>


Hiện nay, du lịch có rất nhiều hình thức như du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du
lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục, du lịch chữa bệnh… trong đó du lịch văn hóa được xác định
là loại hình phù hợp với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong
đó có Việt Nam. Du lịch văn hóa được hiểu là <i>“hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa </i>
<i>dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền </i>
<i>thống” </i>[3]. Du lịch văn hóa có vai trị quan trọng trong q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển; đồng thời mang lại nguồn lợi lớn cho cư dân, góp
phần vào cơng cuộc xóa đói giảm nghèo của địa phương; cùng với đó, du lịch văn hóa cịn
nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng đồng, quảng bá hình ảnh tươi
đẹp của quê hương đất nước đến với du khách từ khắp mọi nơi.


Với loại hình du lịch văn hóa, <i>“tiềm năng phát triển chủ yếu dựa vào những sản phẩm </i>
<i>văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng… để tạo ra </i>
<i>sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới” </i>[3]. Như vậy, để phát
Ngày nhận bài: 16/9/2016. Ngày nhận đăng: 25/12/2016


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

121
triển được loại hình du lịch này yếu tố chính là phải dựa vào nguồn du lịch tự nhiên và sự đa
dạng trong bản sắc văn hoá tộc người, trong đó lễ hội – nơi kết tinh các giá trị văn hoá, tinh
thần từ ngàn xưa để lại của mỗi tộc người trở thành thành tố quan trọng nhất.


<b>2.1.2. Lễ hội</b>


Lễ hội có thể hiểu là<i>“hoạt động sinh hoạt văn hoá cộng đồng diễn ra trên địa bàn dân </i>


<i>cư trong thời gian và không gian xác định nhằm nhắc lại một sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử </i>
<i>hay một huyền thoại, đồng thời là dịp để hiểu biết cách ứng xử văn hoá của con người với </i>
<i>thiên nhiên thần thánh và con người với xã hội” </i>[3]. Lễ hội thường gồm 2 phần, phần lễ và
phần hội. “Lễ <i>là những nghi thức nhằm đánh dấu hoặc kỉ niệm một sự việc, sự kiện có ý nghĩa </i>
<i>nào đó”</i> [2], <i>“Hội là cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người dự, theo phong tục hoặc </i>


<i>nhân dịp đặc biệt”</i> [2]. Như vậy có thể thấy, <i>“lễ”</i> và <i>“hội”</i> là hai yếu tố có <i>“mối quan hệ </i>


<i>tương hỗ tồn tại trong sự thống nhất” </i>[1]. Trong một cuộc lễ với quy mô từ cấp làng bản trở
lên bao giờ cũng phải có <i>“phần hội”</i>, đồng thời khơng có hội nào khơng kèm theo lễ. Lễ và
hội luôn quyện vào nhau, bổ sung cho nhau, cùng phản ánh hiện thực của cuộc sống. Vì thế,
có người gọi là <i>“lễ hội”</i> nhưng cũng có người gọi là <i>“hội lễ”</i> tuỳ thuộc vào từng loại lễ hội
mà nhấn mạnh mặt này hay mặt kia.


Trong thực tế, xã hội ngày càng phát triển, lễ hội càng đóng vai trị quan trọng trong
đời sống văn hoá của cộng đồng, nhất là đối với khu vực miền núi nơi có đơng thành phần
dân tộc thiểu số sinh sống. Mỗi cộng đồng, mỗi tộc người đều có những lễ hội khác nhau về
nội dung, phương thức, cách thức thể hiện song nét chung của các lễ hội đều nhằm thoả mãn
các nhu cầu về đời sống văn hoá tinh thần không chỉ đối với bản thân các dân tộc khởi thuỷ
của lễ hội mà cịn có ý nghĩa đối với cả cộng đồng. Tham dự lễ hội, du khách sẽ cảm nhận
được các sắc thái văn hoá khác nhau của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền.


<b>2.2. Một số lễ hội mùa xuân tiêu biểu của người Thái tỉnh Sơn La </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

122


<b>2.2.1. Lễ hội đền Nàng Han và đua thuyền truyền thống trên sông Đà huyện Quỳnh Nhai </b>


Quỳnh Nhai là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Sơn La, cách trung tâm tỉnh
lỵ khoảng 60 km dọc tuyến quốc lộ 279 theo hướng đông bắc đi Than Uyên (Lai Châu). Từ


lâu, vùng đất Quỳnh Nhai đã được biết đến với nhiều lễ hội truyền thống độc đáo như lễ Gội
đầu, lễ Kin pang then (ăn mừng mệnh trời), tết Xíp xí (tết 14 tháng 7 âm lịch)… trong đó, lễ
hội đền Nàng Han và đua thuyền truyền thống trên sơng Đà là lễ hội văn hố tiêu biểu nhất
trong năm. Thực chất, ban đầu đây chỉ là lễ hội của người Thái trắng được tổ chức với quy
mơ nhỏ trong các bản làng. Vì cuộc sống của cư dân nơi đây phần lớn gắn liền với dịng sơng
Đà, vì thế sơng nước có mối quan hệ mật thiết với đời sống người dân. Bà con nơi đây quan
niệm rằng, những ai giỏi chèo thuyền là những người có khả năng chinh phục sông nước và
thuận lợi trong làm ăn. Bởi vậy, ngay từ rất sớm các cuộc đua thuyền với quy mô nhỏ đã dần
xuất hiện. Từ năm 2011, sau khi được tỉnh Sơn La lựa chọn, nghiên cứu phục dựng, lễ hội đền
Nàng Han và đua thuyền trên sông Đà đã trở thành lễ hội thường niên, là ngày hội lớn của
toàn thể các dân tộc trong huyện.


Đền Nàng Han hiện toạ lạc trên khu vực đồi Pú Nghịu xã Mường Giàng, cách trung
tâm huyện Quỳnh Nhai khoảng 2 km và cách địa điểm tổ chức hội đua thuyền truyền thống
tại khu vực chân cầu Pá Uôn xã Chiềng Ơn khoảng 3 km. Từ lâu, đền thờ Nàng Han đã được
biết đến là một di tích lịch sử, văn hố nổi tiếng của vùng đất Quỳnh Nhai. Ngôi đền là nơi
ghi dấu chiến công oanh liệt của vị nữ tướng Nàng Han đã có cơng lãnh đạo nhân dân 16 châu
Thái đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm phương Bắc, giành lại bình yên cho xứ sở, bản
mường. Truyền thuyết về Nàng Han như một bản anh hùng ca ăn sâu vào đời sống tín ngưỡng
của đồng bào Thái nói riêng và đồng bào các dân tộc vùng Tây Bắc nói chung. Câu chuyện đó
được lưu truyền qua các thế hệ và trở thành một mạch nguồn xuyên suốt nối liền quá khứ,
hiện tại và tương lai. Nàng Han đã trở thành một biểu tượng thiêng liêng, bất tử về chủ nghĩa
anh hùng và lịng tự tơn dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

123


<b>2.2.2.Lễ hội đền thờ vua Lê Thái Tông và lễ hội Mùa hoa ban thành phố Sơn La</b>


Lễ hội đền thờ vua Lê Thái Tông và lễ hội Mùa hoa ban là hai lễ hội lớn, lần đầu tiên
được UBND thành phố Sơn La tổ chức với quy mô cấp thành phố vào năm 2015. Đây là <i>“lễ </i>


<i>hội kép”</i> được tổ chức song song nhau trong khoảng thời gian từ ngày 15 đến hết ngày 17
tháng Giêng với mục tiêu vừa đảm bảo trang trọng về phần lễ được tổ chức tại khu vực đền
thờ vua Lê Thái Tông, vừa tạo nên không khí vui tươi phấn khởi cho bà con nhân dân trong
ngày hội với các hoạt động văn hoá, văn nghệ, các trò chơi dân gian truyền thống được tổ
chức tại lễ hội Mùa hoa Ban.


Lễ hội đền thờ vua Lê Thái Tông được tổ chức tại khu di tích lịch sử - văn hố đền thờ
vua Lê Thái Tông và văn bia Quế Lâm ngự chế. Khu di tích nằm phía bên trái (hướng đi
huyện Mường La), cách trục đường Lò Văn Giá khoảng 500 m, thuộc địa bàn tổ 3, phường
Chiềng Lề, thành phố Sơn La.


Đền thờ vua Lê Thái Tông và văn bia Quế Lâm ngự chế là khu di tích nổi tiếng, có giá
trị lịch sử thiêng liêng của thành phố Sơn La. Nơi đây minh chứng cho một thời kì hào hùng,
oanh liệt của vị minh quân Lê Thái Tông, khi ông lần đầu tiên thân chinh đưa quân lên miền
biên giới của Tổ quốc dẹp loạn quân phản nghịch Thượng Nghiễm ở châu Mường Muổi (nay
là Thuận Châu - Sơn La) năm 1440. Sau chiến thắng, trên đường trở về Thăng Long, vua
cùng quân sĩ đã dừng chân nghỉ tại Động La (người dân địa phương còn gọi bằng một tên gọi
khác là Thẳm Báo Ké – hang Báo Ké). Trước khung cảnh non sơng hùng vĩ, với tầm nhìn
chiến lược cùng tâm hồn thi sĩ của một vị vua yêu nước, ông đã cho quân sĩ khắc lên vách núi
bài thơ gồm 56 chữ Hán, làm với thể thất ngôn bát cú Đường luật với tựa đề <i>“Quế Lâm ngự </i>
<i>chế” </i>(Nơi vua Quế Lâm ngự chế). Bởi thế, khu đền thờ vua Lê Thái Tơng cịn được nhiều
người biết đến với cái tên <i>Đền Quế Lâm ngự chế</i>. Di tích văn bia <i>Quế Lâm ngự chế</i> được phát
hiện năm 1965 và được Bộ Văn hố Thơng tin xếp bằng di tích lịch sử - văn hố cấp quốc gia
ngày 5/2/1994. Ngày nay khi có dịp đến thăm khu đền, chúng ta vẫn sẽ được chiêm ngưỡng
bút tích của bài thơ trên vách đá cao thẳng đứng với những nét khắc còn khá rõ ràng. Từ di
tích văn bia đi xuống, rẽ theo hướng bên phải khoảng 200 m, chúng ta sẽ đến được khu đền
thờ vua Lê Thái Tông. Khu đền này được được khởi công xây dựng vào tháng 9 năm 2001 và
khánh thành vào ngày 22/1/2003 với diện tích 800 m2<sub> theo hướng nam chếch đông và được </sub>


xây theo lối kiến trúc của những ngôi đền cổ Việt Nam gồm các hạng mục: cổng tam quan,


sân đền, nhà tả hữu mạc, toà đại bái và hậu cung.


Đối với bà con nhân dân thành phố Sơn La nói riêng và tồn thể cộng đồng các dân
tộc tỉnh Sơn La nói chung, từ lâu khu di tích đền thờ vua Lê Thái Tơng đã trở thành điểm văn
hoá tâm linh thiêng liêng. Theo lệ, cứ đến ngày rằm, mùng 1 hay dịp lễ tết, các chư hội, tăng
ni phật tử cùng đông đảo bà con nhân dân lại tụ hội về đây, dâng nén hương thơm cầu bình an
may mắn hay đơn giản chỉ là vãn cảnh đền để mỗi người có thời gian tĩnh tâm, cân bằng lại
cuộc sống sau những bộn bề lo toan thường ngày.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

124
riêng. Lễ hội chính là dịp để ơn lại truyền thống cách mạng cho nhân dân các dân tộc thành
phố Sơn La, phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, khơi dậy lòng tự hào dân tộc và kế
thừa sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, lễ hội góp phần thiết thực phục vụ nhu cầu
hưởng thụ các giá trị văn hoá tinh thần, đời sống tâm linh của nhân dân các dân tộc trong và
ngồi tỉnh. Tạo ra các hoạt động văn hố, thể thao sôi nổi lành mạnh, phát huy tinh thần đoàn
kết, sáng tạo của nhân dân.


Với mục tiêu như vậy nên lễ hội đền Lê Thái Tông và lễ hội Mùa hoa Ban không tổ
chức rườm rà về phần lễ mà phần lớn chú trọng vào phần hội với các trò chơi dân gian phong
phú. Trong thời gian diễn ra lễ hội, nhiều hoạt động văn hoá dân gian được tổ chức đã thu hút
sự quan tâm và nhiệt tình tham gia của đơng đảo quần chúng nhân dân. Chương trình ca múa
nhạc luôn là những tiết mục mở màn của lễ hội, bên cạnh đó cịn nhiều hoạt động khác như
trưng bày sinh vật cảnh, thi ẩm thực, thi xoè, thi đấu các mơn thể thao và trị chơi dân gian
truyền thống như kéo co, đi cà kheo, tó má lẹ, tung còn, thi bắt cá, chọi gà, chọi chim… Đây
đều là những hoạt động hết sức quen thuộc, gắn liền với đời sống văn hoá thường ngày của
đồng bào các dân tộc tỉnh Sơn La. Bởi vậy, lễ hội khơng chỉ nhằm gìn giữ và phát huy các nét
đẹp văn hố truyền thống vốn có của đồng bào nơi đây mà cịn góp phần tăng cường tình đồn
kết trong cộng đồng các dân tộc. Đồng thời, qua các hoạt động này, du khách tham dự lễ hội
cũng phần nào có thể thấy được các nét đẹp văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc
Sơn La.



<b>2.2.3. Lễ hội Hết chá của người Thái trắng xã Đông Sang huyện Mộc Châu</b>


Mộc Châu là cao nguyên rộng lớn và xinh đẹp bậc nhất khu vực miền núi phía bắc,
với khí hậu mát mẻ quanh năm. Nơi đây nổi tiếng với nhiều địa điểm du lịch nổi tiếng như
hang Dơi, thác Dải Yếm, khu hồ sinh thái và rừng thông bản Áng (xã Đơng Sang), đồi chè,…
hàng năm đón hàng triệu lượt khách đến thăm quan và nghỉ dưỡng. Mộc Châu hiện có 12 dân
tộc anh em cùng sinh sống, trong đó cộng đồng người Thái chiếm số lượng khoảng 1/3 dân số
toàn huyện. Đến với Mộc Châu, du khách không chỉ được thưởng thức những cảnh quan thiên
nhiên đẹp, ẩm thực phong phú, bên cạnh đó lễ hội cũng là một phần quan trọng làm nên nét
văn hoá độc đáo của vùng đất và con người nơi đây. Mộc Châu có nhiều lễ hội như lễ hội
Mùa hoa ban, lễ hội Hết chá, lễ hội Cầu mùa… thường được tổ chức vào mùa xuân hàng năm.


Lễ hội Hết chá là lễ hội đặc sắc của người Thái trắng bản Áng, xã Đông Sang (huyện
Mộc Châu, tỉnh Sơn La) được tổ chức vào ngày 26 tháng 3 hàng năm, tại gốc đa trên đồi gần
trung tâm bản. Lễ hội Hết chá thực chất là <i>“lễ tạ ơn của những người được thầy mo chữa cho </i>
<i>khỏi bệnh, lễ tạ ơn trời đất, tổ tiên, thần sông, thần núi, thần thổ địa đã giúp cho con người </i>
<i>sống ở trần gian duy trì được cuộc sống, đoàn kết xây dựng bản làng, cầu cho người khang </i>
<i>vật thịnh, mưa thuận gió hịa để mùa màng bội thu…”</i> [4].


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

125
nhưng thời điểm đó đang bận rộn chuẩn bị đón tết nên thầy mo ấn định lễ tạ ơn sẽ tổ chức vào
tháng 3 hàng năm. Cũng từ đó lễ hội Hết chá được hình thành.


Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, những lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu
số vùng Tây Bắc hầu như khơng cịn được duy trì và dần bị mai một theo năm tháng. Lễ hội
Hết chá cũng không nằm ngồi quy luật đó. Thực hiện theo Nghị quyết Trung ương 5 khố
VIII của Bộ Chính trị về <i>“Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân </i>
<i>tộc”</i>, năm 2005 cấp uỷ, chính quyền bản Áng xã Đông Sang đã ra nghị quyết phải khôi phục
các phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình. Lễ hội Hết chá là một trong


những lễ hội truyền thống của người Thái trắng bản Áng được chi bộ lựa chọn để khôi phục,
bảo tồn và truyền lại cho con cháu đời sau.


Lễ hội Hết chá gồm hai phần là phần lễ và phần hội. Phần lễ được tổ chức tại Nhà văn
hoá bản Áng, ngay bên gốc đa cổ thụ do thầy mo thực hiện. Lễ vật dâng cúng được các già
làng và dân bản sắp, bày gồm có gà, vịt, lợn, xơi, rượu, các cơng cụ trừ tà và đặc biệt không
thể thiếu là dâng hoa ban, hoa mạ thể hiện khát khao của người dân về cuộc sống ấm no, hạnh
phúc, đoàn kết; đồng thời phê phán những cái xấu và khích lệ những cái hay, cái đẹp trong
cuộc sống. Phần hội diễn ra ngay sau khi phần lễ kết thúc. Phần hội thường diễn ra các hoạt
động vui chơi giải trí như thi đánh trống xoè, múa sạp; thi ẩm thực, nấu cơm; thi các môn thể
thao, các trò chơi dân gian như kéo co, tung còn… với sự tham gia của toàn thể bà con dân
bản.


Lễ hội Hết chá là một hình thức sinh hoạt văn hóa quan trọng, mang đậm bản sắc của
tộc người Thái trắng bản Áng xã Đông Sang, huyện Mộc Châu. Một mặt lễ hội là một nghi lễ
mang tính tâm linh, là niềm tin của con người đối với cuộc sống, với thiên nhiên. Mặt khác lễ
hội cũng thể hiện tính nhân văn, tơn vinh thầy thuốc với những nghi lễ bày tỏ lòng biết ơn,
cảm tạ người đã chữa khỏi bệnh cho người dân, bản làng, các gia đình... để cuộc sống nhân
dân được n bình. Với những ý nghĩa đặc biệt đó, ngày 26/3/2016, Uỷ ban nhân dân huyện
Mộc Châu đã làm lễ đón nhận lễ hội Hết chá bản Áng xã Đơng Sang là di sản văn hố phi vật
thể cấp quốc gia.


<b>2.3. Thực trạng lễ hội hiện nay </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

126
triển du lịch văn hoá, du lịch lễ hội của Sơn La là rất lớn nhưng hiện vẫn chưa khai thác được
đúng mức.


<b>2.3.1. Hầu hết các lễ hội trên địa bàn tỉnh vẫn được tổ chức với quy mô nhỏ lẻ trong thời </b>
<b>gian ngắn, chủ yếu vẫn được tổ chức dưới dạng nguyên sơ chưa nhằm mục tiêu phát </b>


<b>triển du lịch, chưa có sự liên kết, phối hợp giữa các lễ hội ở các địa phương để có thể tạo </b>
<b>nên các tour du lịch liên hoàn trong tỉnh.</b>


Phần lớn các lễ hội chỉ được tổ chức với thời gian ngắn, thông thường sẽ được tổ chức
trong 1 ngày như lễ hội Nàng Han và đua thuyền truyền thống trên sông Đà, lễ hội Hết chá, lễ
Mừng cơm mới, Xên bản Xên mường (cúng bản cúng mường), Xen pang ả (lễ hội của người
Kháng do Pa ả - thầy cúng tổ chức)… hoặc cũng có lễ hội kéo dài trong khoảng 2 đến 3 ngày
như lễ hội đền Lê Thái Tông, lễ hội Mương A Ma (cầu mùa) của người Xinh Mun… nhưng
rất ít. Trong khi đó quy mơ tổ chức các lễ hội vẫn cịn giới hạn trong phạm vi hẹp. Đó có thể
chỉ là những lễ hội với quy mô gia đình, dịng họ (lễ hội của dân tộc Mơng), trong phạm vi địa
phương bản mường, huyện lỵ như phần lớn các lễ hội của người Thái, người Kháng, người
Xinh mun… hiện nay. Chính vì thế sẽ rất khó để chúng ta có thể tổ chức ra các tuyến du lịch
dài ngày, có sự phối hợp giữa các địa phương.


<b>2.3.2. Khách du lịch và nguồn doanh thu từ du lịch</b>


Theo số liệu thống kê của Cục thống kê tỉnh Sơn La trong năm 2015, tỉnh Sơn La đón
1,1 triệu lượt khách du lịch đến tham quan, nghỉ dưỡng, số lượt khách tăng 2,8% so với năm
2014. Trong đó khách quốc tế đạt hơn 7.000 lượt, khách trong nước gần 1 triệu lượt. Khách
đến du lịch chủ yếu là thăm thuỷ điện Sơn La, nhà tù Sơn La, nghỉ dưỡng cao nguyên Mộc
Châu và một số địa điểm du lịch khác. Riêng với loại hình du lịch văn hố lễ hội, lượng khách
chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Điều này có thể hiểu rằng mặc dù các lễ hội trên địa bàn Sơn La rất đa
dạng, mỗi tộc người đều có những lễ hội mang nét đặc trưng văn hóa riêng, tuy nhiên do phần
lớn các lễ hội chưa được khai thác theo hướng phát triển du lịch mà chủ yếu vẫn chỉ nhằm
mục đích phục vụ đời sống văn hố tinh thần cho nhân dân. Vì thế, tham gia lễ hội phần lớn là
người dân địa phương và khách trong tỉnh. Khách ở xa đến Sơn La trong những dịp này
không đáng kể, phần lớn là khách ghé qua nghỉ lại 1, 2 ngày tận dụng thời gian rảnh rỗi, hoặc
gặp đúng dịp lễ hội để thực hiện các chuyến thăm thú nếu họ quan tâm.


Vì lượng khách du lịch ít, thêm vào đó do chưa xây dựng được các sản phẩm du lịch


hấp dẫn, các dịch vụ chất lượng cịn kém, các sản phẩm thủ cơng, q lưu niệm hầu như vắng
bóng do đó khơng kích thích được khách chi tiêu. Từ đó, doanh thu từ du lịch lễ hội là không
đáng kể.


<b>2.3.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch </b>


</div>

<!--links-->

×