Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1012.28 KB, 20 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Lời giới thiệu |
<b>Biên soạn </b>
Đỗ Hồng Thơm – Vũ Công Giao
<b>Biên tập </b>
Lời giới thiệu |
ĐẠI HỌC QUỐC GIA H\ NỘI
(S[CH THAM KHẢO)
Cuốn s{ch n|y được xuất bản trong khn khổ Chương trình
Quản trị Nh| nước v| Cải c{ch h|nh chính – trụ cột Quản trị
Nh| nước, hợp phần 3 – hợp t{c giữa Việt Nam v| Đan Mạch
giai đoạn 2007 – 2011.
Lời giới thiệu |
Trong luật nh}n quyền quốc tế, phần nội dung về quyền của
c{c nhóm xã hội dễ bị tổn thương chiếm vị trí rất quan trọng.
Kể từ khi Liên Hợp Quốc th|nh lập (1945), nhiều văn kiện quốc
tế về nh}n quyền đã được tổ chức n|y thơng qua, trong đó có
một số lượng ng|y c|ng nhiều văn kiện đề cập đến quyền của
các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Hiện đã có h|ng trăm văn
kiện ph{p luật quốc tế đề cập đến quyền con người của c{c
nhóm xã hội như phụ nữ, trẻ em, người sống chung với HIV,
người lao động di trú, người khuyết tật, người nước ngo|i,
người tỵ nạn... Một số văn kiện n|y được thông qua dưới dạng
c{c điều ước quốc tế như công ước, nghị định thư, trong khi
một số kh{c ở dưới dạng c{c văn kiện ‛mềm‛ (soft law) tức c{c
tuyên bố, nguyên tắc, khuyến nghị...
Ở nước ta từ trước tới nay Đảng v| Nh| nước luôn quan t}m
tới bảo vệ v| thúc đẩy sự hưởng thụ c{c quyền con người nói
chung, quyền của c{c nhóm xã hội dễ bị tổn thương nói riêng.
Trên thực tế, vấn đề quyền của một số nhóm xã hội dễ bị tổn
thương đã được thể hiện trong ph{p luật v| chính s{ch của nước
ta từ rất sớm, trước khi Việt Nam tham gia, thậm chí trước khi
Liên Hợp Quốc thông qua c{c điều ước quốc tế có liên quan.
Mặc dù vậy, về cơ bản, nhận thức về c{c tiêu chuẩn quốc tế về
vấn đề n|y ở nước ta hiện vẫn còn rất hạn chế, dẫn đến việc bảo
vệ v| thúc đẩy quyền của một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương
chưa thực sự hiệu quả.
Để khắc phục hạn chế kể trên, cần thiết phải nghiên cứu s}u
c{c tiêu chuẩn quốc tế về vấn đề n|y. Xuất ph{t từ nhận thức đó,
mặc dù đã có một số cơng trình nghiên cứu có liên quan, trong
khn khổ Chương trình Quản trị Nh| nước v| Cải c{ch h|nh
chính - hợp t{c giữa Việt Nam v| Đan Mạch giai đoạn 2007 -
2011, Khoa Luật Đại học Quốc gia H| Nội đã tổ chức nghiên cứu
đề t|i ‚Luật quốc tế về quyền của c{c nhóm xã hội dễ bị tổn
thương‛ do Thạc sĩ Đỗ Hồng Thơm l|m chủ nhiệm, nhằm l|m
l|m rõ hơn những vấn đề lý luận, ph{p lý v| cơ chế quốc tế về
bảo vệ v| thúc đẩy quyền của một số nhóm dễ bị tổn thương
(phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người sống chung với
HIV/AIDS, người thiểu số, người bản địa<).
Lời giới thiệu |
to|n bộ kết quả nghiên cứu chủ yếu của đề t|i kể trên. Phù hợp
với giới hạn nghiên cứu của đề t|i, cuốn s{ch n|y chỉ đề cập đến
những tiêu chuẩn ph{p lý v| cơ chế bảo đảm quyền của c{c
nhóm xã hội dễ bị tổn thương theo ph{p luật quốc tế, khơng
trình b|y c{c quy định ph{p luật quốc gia v| tình hình thực hiện
c{c tiêu chuẩn quốc tế, c{c quy định ph{p luật quốc gia về
quyền của c{c nhóm xã hội dễ bị tổn thương ở Việt Nam. Bên
cạnh đó, để bạn đọc dễ tham khảo, cuốn s{ch có một phần Phụ
lục bao gồm những văn kiện quốc tế chủ yếu nhất về quyền của
một số nhóm người dễ bị tổn thương.
Do những giới hạn về nguồn lực v| thời gian, đề t|i nghiên
cứu kể trên m| kết quả thể hiện ở cuốn s{ch n|y, chỉ có thể đề
cập đến những kiến thức cơ bản, chưa thể đi s}u ph}n tích
nhiều nội dung của luật quốc tế về quyền của c{c nhóm người
<i>Hà Nội, tháng 12 năm 2010 </i>
Mục lục |
Các từ viết tắt trong sách |
<b>Chữ viết tắt </b> <b>Tên/cụm từ đầy đủ </b>
CHR Ủy ban quyền con người Liên Hợp Quốc
(Commission on Human Rights - CHR)
ĐHĐ Đại hội đồng (Liên Hợp Quốc)
ECOSOC Hội đồng Kinh tế- Xã hội (Liên Hợp Quốc)
HĐBA Hội đồng Bảo an (Liên Hợp Quốc)
HĐQT Hội đồng Quản th{c (Liên Hợp Quốc)
HRC Hội đồng quyền con người Liên Hợp Quốc
(Human Rights Council)
ICJ Tịa {n Cơng lý quốc tế (International Court of
Justice)
ILO Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour
Organization)
IOM Tổ chức Di cư Thế giới (International
LHQ Liên Hợp Quốc
PCIJ Tịa {n Cơng lý quốc tế thường trực (Permanent
Court of International Justice)
UNESCO Tổ chức Văn hóa, Khoa học, Gi{o dục của Liên
Hợp Quốc (United Nations Educational,
Scientific and Cultural Organization)
WHO Tổ chức Y tế thế giới (World Health
Organization)
CEDAW Công ước về xo{ bỏ mọi hình thức ph}n biệt đối
xử chống lại phụ nữ (Convention on the
Elimination of All Forms of Discrimination
Against Women)
CRC Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em
(The UN Convention on the Rights of the Child)
ICCPR Công ước quốc tế về c{c quyền d}n sự, chính trị
(International Covenant on Civil and Political
Rights)
ICESCR Công ước quốc tế về c{c quyền kinh tế, xã hội,
văn hóa (International Covenant on Economic,
Social and Cultural Rights)
Khái lƣợc vấn đề quyền của nhóm trong luật quốc tế |
Do chủ thể chính của quyền con người l| c{c c{ nh}n nên khi
nói đến quyền con người về cơ bản l| nói đến c{c <i>quyền cá nhân</i>
<i>(individual rights)</i>. Dù vậy, bên cạnh c{c c{ nh}n, chủ thể của
quyền con người cũng bao gồm c{c nhóm xã hội nhất định, do
đó, bên cạnh c{c quyền c{ nh}n, người ta còn đề cập đến c{c
<i>quyền của nhóm (group rights). </i>
Kh{i niệm quyền của nhóm đầu tiên được dùng để chỉ c{c
quyền của một d}n tộc (<i>people’s rights)</i> cụ thể như quyền tự
quyết d}n tộc, quyền được bảo tồn t|i nguyên v| đất đai truyền
thống của c{c d}n tộc bản địa<1<sub>, sau đó được mở rộng để chỉ cả </sub>
những <i>nhóm xã hội</i> dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người
khuyết tật< (mặc dù có một số ý kiến chưa t{n th|nh sự mở
rộng tới quyền của một số nhóm nhất định).
Nếu như quyền c{ nh}n được hiểu l| <i>các quyền thuộc về mỗi cá </i>
<i>nhân, bất kể họ có hay khơng là thành viên của bất kỳ một nhóm xã hội </i>
<i>nào, và việc hưởng thụ các quyền này là tùy thuộc ý chí của mỗi cá nhân</i>
thì ngược lại, theo nghĩa rộng của nó, quyền của nhóm được hiểu
là <i>những quyền đặc thù, chung của một tập thể hay một nhóm xã hội </i>
<i>nhất định, mà để được hưởng thụ các quyền này cần phải là thành viên </i>
<i>của nhóm, và đơi khi cần phải thực hiện cùng với các thành viên khác </i>
<i>của nhóm. </i>Ví dụ, quyền tự quyết của c{c d}n tộc không thể được
thực hiện bởi một hoặc một số c{ nh}n, m| phải được thực hiện
bởi cả d}n tộc...2<sub> Tuy nhiên, cần lưu ý l| không phải tất cả c{c </sub>
quyền của nhóm đều đòi hỏi phải thực hiện bằng c{ch thức tập
thể, m| có thể được thực hiện cả với tư c{ch tập thể hoặc c{ nh}n.
Đơn cử, một th|nh viên của một d}n tộc thiểu số có thể cùng với
cộng đồng mình yêu cầu được bảo đảm c{c quyền về sử dụng
tiếng nói, chữ viết của d}n tộc trên c{c phương tiện truyền thơng,
nhưng đồng thời có thể một mình thực hiện quyền chung của d}n
tộc thiểu số l| được nói tiếng nói hay mặc trang phục của d}n tộc
mình.
Mặc dù đã được thể hiện trong nhiều văn kiện của luật nh}n
quyền quốc tế, hiện vẫn còn những tranh luận xung quanh nhận
thức về quyền của nhóm. Ngo|i khía cạnh chủ thể (như đã đề
cập ở trên), tranh luận còn liên quan đến bản chất của loại quyền
Khái lƣợc vấn đề quyền của nhóm trong luật quốc tế |
n|y. Cụ thể, có quan điểm cho rằng, quyền của nhóm không
thực sự l| c{c quyền con người, bởi lẽ:
<i>Thứ nhất,</i> c{c quyền của nhóm khơng phải l| những quyền {p
dụng cho mọi th|nh viên của nh}n loại, do đó khơng phù hợp
với tính chất phổ qu{t của quyền con người.
<i>Thứ hai</i>, việc quy định c{c quyền đặc thù cho một nhóm nhất
định l| đi ngược với nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế về
quyền con người, đó l| tất cả c{c quyền con người được {p dụng
một c{ch bình đẳng với tất cả mọi người, không ph}n biệt d}n
tộc, chủng tộc, sắc tộc, m|u da, giới tính, tơn gi{o, độ tuổi, ngơn
ngữ, xuất th}n, quan điểm chính trị<v| bất kỳ yếu tố n|o kh{c.
người cao tuổi< đều đã được ghi nhận trong c{c văn kiện quốc
tế về quyền con người, dưới c{c hình thức điều ước hoặc tuyên
bố, khuyến nghị... Bởi vậy, có thể khẳng định rằng, c{c quyền
của nhóm cũng chính l| quyền con người.
Mặc dù nhìn chung c{c quyền c{ nh}n v| quyền của nhóm hỗ
trợ, bổ sung cho nhau, song cũng có trường hợp m}u thuẫn
nhau. Đơn cử, một c{ nh}n l| th|nh viên của một cơng đo|n có
thể muốn ký kết hợp đồng lao động dưới danh nghĩa c{ nh}n
thay cho việc cùng với c{c th|nh viên kh{c của công đo|n tiến
h|nh đ|m ph{n với người sử dụng lao động để ký kết một thỏa
ước tập thể< Trong những trường hợp như vậy, việc theo đuổi
c{c quyền c{ nh}n có thể l|m tổn hại đến quyền của nhóm v|
ngược lại. Điều n|y cho thấy sự cần thiết v| tầm quan trọng của
việc nghiên cứu tìm ra c{c biện ph{p giải quyết c{c xung đột có
thể xảy ra, l|m h|i hịa c{c quyền của nhóm v| quyền c{ nhân.
Ở mọi quốc gia v| khu vực, do những nguyên nh}n xã hội,
lịch sử< ln tồn tại những nhóm người có trình độ ph{t triển,
vị thế v| năng lực kh{c nhau. Mặc dù vậy, tất cả đều l| thành
viên của cộng đồng nh}n loại, đều bình đẳng về c{c quyền v| tự
do của con người.
Khái lƣợc vấn đề quyền của nhóm trong luật quốc tế |
tế phổ qu{t về c{c quyền v| tự do c{ nh}n. Ở đ}y, quyền của
nhóm phản {nh nhu cầu v| nhằm bảo đảm sự bình đẳng thực
chất về cơ hội giữa c{c tầng lớp, v| qua đó l| giữa tất cả mọi
th|nh viên trong xã hội nói chung. Thừa nhận v| bảo đảm c{c
quyền của nhóm l| hết sức cần thiết để giữ cho một xã hội ổn
định, ph{t triển. Việc phủ nhận, coi nhẹ c{c quyền của bất cứ
nhóm n|o đều có thể dẫn đến mất ổn định trong xã hội.
Năm 1977, nh| luật học người Czech tên là Karel Vasak đã đề
cập đến c{c mốc trong sự ph{t triển về nhận thức nói chung v|
việc ph{p điển hóa c{c quyền con người v|o luật quốc tế nói
riêng, theo đó chia sự ph{t triển n|y th|nh ba giai đoạn hay thế
hệ nh}n quyền (<i>generations of human rights</i>).
Karel Vasak cho rằng, thế hệ quyền con người thứ nhất tập
<i>to communicate; communication rights</i>); quyền được hưởng thụ c{c
gi{ trị văn hóa (<i>right to participation in cultural heritage</i>)... Những
văn kiện cơ bản phản {nh thế hệ quyền n|y bao gồm: Tuyên
ngôn về bảo đảm độc lập cho c{c quốc gia v| d}n tộc thuộc địa,
1960; hai Công ước quốc tế về c{c quyền d}n sự, chính trị v| về
c{c quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, 1966; Tuyên bố về quyền của
c{c d}n tộc được sống trong hịa bình, 1984; Tun bố về quyền
ph{t triển, 1986...
Tuy nhiên, cần thấy rằng, c{c quyền kể trên chưa phải l| tất
cả c{c quyền của nhóm theo nghĩa rộng của thuật ngữ n|y. Như
vậy, nếu như thời điểm c{c quyền tự quyết d}n tộc, quyền ph{t
triển... đã được x{c định, thì c{c quyền của nhóm kh{c như
quyền phụ nữ, quyền trẻ em... được đề cập trong luật quốc tế từ
khi n|o? Liên quan đến c}u hỏi n|y, dưới đ}y nêu ra một số
nhận xét có thể sẽ g}y tranh cãi.
Nghiên cứu lịch sử ph{t triển của ph{p luật về nh}n quyền,
có thể thấy rằng c{c quyền của nhóm, theo nghĩa rộng của thuật
ngữ n|y, được đề cập đồng thời, hoặc nếu khơng thì cũng gần
như đồng thời với c{c quyền c{ nh}n. Điều đó l| bởi trong một
số trường hợp, rất khó t{ch bạch giữa quyền của nhóm v| c{c
quyền c{ nh}n. Cụ thể, khi nói về quyền bình đẳng (về vị thế
ph{p lý, về bầu cử, ứng cử, trong quan hệ d}n sự, trong hơn
nh}n... ), người ta đã nói đến c{c quyền d}n sự chính trị của c{
Khái lƣợc vấn đề quyền của nhóm trong luật quốc tế |
c{ nh}n v| quyền của nhóm thơng qua những văn kiện ph{p
luật quốc tế riêng rẽ, cần thấy rằng những văn kiện ph{p lý quốc
tế đầu tiên về vấn đề n|ycó nội dung cơ bản về c{c quyền của
nhóm chứ khơng phải c{c quyền c{ nh}n. Cụ thể, trong 20 năm
tồn tại của Hội Quốc Liên (1919-1939), tổ chức n|y đã thông qua
một số văn kiện quốc tế về vấn đề người thiểu số v| người bản
địa, v| đặc biệt l| Tuyên ngôn về quyền trẻ em (1924). Hoặc
trước năm 1945, Tổ chức Lao động quốc tế đã thông qua một số
điều ước nhằm bảo vệ c{c quyền lợi bình đẳng của phụ nữ trong
lao động, việc l|m...
Theo một l{t cắt kh{c m| qua đó nhìn nhận sự khởi đầu của
luật quốc tế về quyền con người gắn liền với sự ra đời của Liên
Hợp Quốc (1945), chúng ta cũng thấy sự ph{t triển gần như
đồng thời của c{c quyền c{ nh}n v| quyền tập thể. Hiến chương
Liên Hợp Quốc (Lời nói đầu) b|y tỏ sự tin tưởng v|o sự bình
đẳng khơng chỉ của mọi c{ nh}n trong gia đình nh}n loại, m| cả
sự bình đẳng giữa c{c quốc gia lớn v| nhỏ v| giữa phụ nữ với
đ|n ông. Rõ r|ng ở đ}y đã bắt đầu có sự gắn bó khơng t{ch rời
giữa c{c quyền c{ nh}n v| quyền của nhóm. C{c văn kiện quốc
tế tiếp theo về nh}n quyền do Liên Hợp Quốc thông qua, bao
gồm Tuyên ngôn to|n thế giới về nh}n quyền năm 1948 v| hai
công ước quốc tế cơ bản về c{c quyền d}n sự, chính trị v| c{c
nhóm theo nghĩa rộng của từ n|y. Trên thực tế, ở mức độ v|
góc độ kh{c nhau, hầu như tất cả c{c văn kiện quốc tế hiện
h|nh về quyền con người đều đề cập đến cả c{c quyền c{ nh}n
v| quyền của nhóm.
Liên quan đến sự ph{t triển về quyền của nhóm, hiện tại,
ngo|i c{c quyền đã được đề cập, những quyền sau đ}y đang
được vận động để ph{p điển hóa trong luật quốc tế:
−<i><b><sub> Quyền của những người đồng tính </sub></b><sub>(đồng tính nam – gay; </sub></i>
<i>đồng tính nữ - lesbian</i>); người lưỡng tính (<i>bisexual</i>), người chuyển
giới <i>(transgender)</i> thường được gọi chung l| quyền của LGBT
(<i>LGBT rights</i>): Đ}y l| một vấn đề g}y nhiều tranh cãi trên lĩnh
vực quyền con người trong v|i thập kỷ gần đ}y. Những người
ủng hộ quyền của LGBT đã lập nên c{c tổ chức v| ph{t động
những phong tr|o mang tính chất to|n cầu để vận động cho việc
thừa nhận v| ph{p điển hóa c{c quyền được kết hơn giữa những
người đồng giới; quyền của c{c cặp đồng giới nam được nhận
nuôi con nuôi; v| trên hết l| quyền của tất cả những người
LGBT không bị ph}n biệt đối xử do xu hướng tình dục v| giới
tính của họ. Tính đến th{ng 12 năm 2008, đã có nhiều quốc gia
thừa nhận một số quyền của LGBT (ví dụ như Canada), tuy
nhiên, vẫn còn 77 quốc gia coi tình dục đồng giới l| tội phạm,