Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.32 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>TÍCH LŨY SINH HỌC KIM LOẠI NẶNG TRONG CƠ THỂ </b>
<b>MỘT SỐ LOÀI HÀU VÀ NGHÊU </b>
Trần Tuấn Việt1,2*, Trương Ngọc Việt2, Nguyễn Phước Dân2
<i><b>Tóm tắt: </b>Hàu và nghêu là những loài thuộc lớp hai mảnh vỏ được sử dụng làm </i>
<i>thực phẩm cung cấp cho con người. Tuy nhiên, các loài này thường sống ở các vùng </i>
<i>ven biển, cửa sơng là nơi có khả năng tiếp xúc với môi trường ô nhiễm kim loại từ </i>
<i>đất liền đưa ra. Thêm vào đó, khả năng tích lũy các kim loại trong cơ thể các sinh </i>
<i>vật hai mảnh vỏ này đã được công bố nhiều trên thế giới. Bài báo này nhắm tới việc </i>
<i>hệ thống lại các kết quả nghiên cứu về mức độ tích lũy sinh học một số kim loại </i>
<i>trong cơ thể các loài hải sản hai mảnh vỏ cũng như một số nghiên cứu về khả năng </i>
<i>ứng dụng những loài sinh vật này trong quan trắc mơi trường. </i>
<b>Từ khóa</b>: Tích lũy sinh học; Quan trắc sinh học; Kim loại nặng; Hai mảnh vỏ.
<b>1. MỞ ĐẦU </b>
Độc tố của các kim loại được xem như một trong những nguyên nhân gây ra
các vấn đề về sức khỏe cho con người và môi trường [1]. Nồng độ các kim loại
trong rất nhiều loài sinh vật biển, đặc biệt là lớp hai mảnh vỏ (Bivalvia class),
thường ở mức cao do khả năng tích lũy trong cơ thể của chúng [2–4]. Hơn thế nữa,
những lồi này có thể được tiêu thụ trực tiếp bởi con người hoặc đi vào cơ thể gián
tiếp thơng qua các lồi ăn thịt bậc cao hơn những sinh vật nêu trên. Mặt khác, do
khả năng tích lũy kim loại và một số chất ô nhiễm trong cơ thể, những loài hai
mảnh vỏ thường được nghiên cứu để sử dụng như một công cụ theo dõi chất lượng
môi trường [5–7]. Trong nhiều năm qua, có rất nhiều tác giả đưa ra định nghĩa,
nhưng có thể hiểu một cách tổng qt những lồi sinh vật có khả năng phản ánh
mức độ ô nhiễm của môi trường thường được gọi là chỉ thị sinh học
indicator), chúng được ứng dụng trong lĩnh vực quan trắc sinh học
(bio-monitoring) [8]. Chính vì vậy, nghiên cứu về mức độ và khả năng tích lũy kim loại
<b>2. NỒNG ĐỘ KIM LOẠI TRONG SINH VẬT HAI MẢNH VỎ </b>
<b> 2.1. Nồng độ kim loại trong các loài hàu </b>
<i><b>Nghiên cứu khoa học công nghệ </b></i>
trong cơ thể hàu đã được thực hiện nhiều ở các vùng biển khác nhau trên thế giới
trong rất nhiều các loài hàu khác nhau (xem bảng 1).
Theo các nghiên cứu này, có thể nhận thấy nồng độ Cd dao động rất lớn theo
các vùng biển khác nhau. Nồng độ Cd cao nhất trong hàu được tìm thấy nhiều ở
Trung Quốc với số lượng các nghiên cứu công bố nồng độ Cd trên 10 mg/kg khô
cao hơn hẳn các khu vực khác. Nồng độ này vượt nhiều lần so với giới hạn Cd
trong thực phẩm ở nhiều nước trên thế giới là 2 mg/kg khô (FAO/WHO, Trung
quốc, Úc, Newzealand, Việt Nam). Bên cạnh đó, một vài nghiên cứu đã chỉ ra rằng
nồng độ Cd trong cơ thể hàu có thể gia tăng khi lượng Zn tích lũy trong chúng lớn
[11]. Chính vì vậy, nồng độ Cd tích lũy cao tìm thấy trong cơ thể hàu ở các vùng
Trung Quốc (TQ) có thể do sự ơ nhiễm Zn ở nhiều vùng cửa sông nước này. Một
nghiên cứu năm 2014 của Liu và Wang đã chỉ ra rằng khi hàu bị phơi nhiễm trong
môi trường nồng độ Cu và Zn cao có thể gia tăng khả năng tích lũy sinh học kim
loại Hg, trong khi đó, chỉ có phơi nhiễm Zn mới làm gia tăng khả năng tích lũy
sinh học Cd trong hàu [12]. Điều đó chứng tỏ rằng, khơng nhất thiết Cd hay Hg
trong mơi trường có nồng độ cao mới cho kết quả các kim loại này tích lũy cao
trong cơ thể hàu.
Theo kết quả trình bày trong bảng 1, cả hai kim loại Cu và Zn, được biết đến
như thành phần thiết yếu cho các lồi thân mềm, đều có nồng độ cao. Cụ thể, nồng
độ cao nhất của hai kim loại này phát hiện ở Trung Quốc và châu Úc. Những kết
quả này có thể xem là kết quả từ môi trường ô nhiễm tại các khu vực này [13].
Nồng độ Pb trong các mẫu hàu cũng khá được quan tâm do những tác động xấu
của chúng đến sức khỏe con người. Các kết quả cho thấy thường nồng độ Pb trong
hàu ở mức nhỏ hơn 4 mg/kg khô. Nồng độ thấp của Pb trong cơ có thể hàu được lý
giải do sự giảm nồng độ Pb trong môi trường những năm gần đây khi các chế tài
kiểm soát Pb trong nhiên liệu được thực thi hiệu quả. Tuy nhiên, vẫn có một số khu
vực phát hiện mẫu cao đột biến trên 40 mg/kg khô như tại Cảng Legeh, Iran cho
thấy những khả năng tiềm ẩn ô nhiễm Pb trong công nghiệp gây ra các tác động
đến sinh vật vẫn lớn.
Đối với Ni và Cr, số lượng các nghiên cứu về các kim loại này trong hàu không
nhiều. Nồng độ Ni và Cr trong các mẫu hàu tìm thấy dao động trong mức thấp
tương đương nhau quanh khoảng 1 mg/kg khơ. Thường thì tích lũy tổng Cr trong
mẫu hàu ít được quan tâm lắm do kim loại này trong môi trường tồn tại ở những
hóa trị khác nhau rất phức tạp (Cr III và Cr IV), mỗi dạng cũng có những ảnh
hưởng khác nhau đối với các loài hàu. Hầu hết các nước khơng có quy định về
nồng độ Cr và Ni trong sinh vật hai mảnh vỏ làm thực phẩm, riêng Mỹ có quy định
cho các thực phẩm là các loài vỏ cứng (shellfish) nhập khẩu phải đáp ứng nồng độ
Ni ≤ 80 mg/kg ướt và Cr ≤ 13 mg/kg ướt (thường tỉ lệ khối lượng ướt gấp 6-10 lần
khối lượng khô đối với hàu [13]).
<i><b>Bảng 1</b>. Nồng độ kim loại trong hàu ở các vùng trên thế giới. </i>
<b>Thời </b>
<b>gian </b>
<b>Vị trí </b> <b>Lồi </b> <b>Cd </b> <b>Cu </b> <b>Zn </b> <b>Ni </b> <b>Pb </b> <b>Cr </b> <b>Hg </b> <b>Đơn </b>
<b>vị </b>
<b>Tham </b>
<b>khảo </b>
<b>Châu Á </b>
2013 Hàn quốc 0,19 11,1 46,8 0,06 0,06 0,10 0,00 ướt
10/2010 Cảng Lengeh,
Iran <i>S. cucullata </i>
11,1
± 1,6
324±
111
748 ±
73,8 -
41,2±
18,0 - -
mg/kg
khô [15]
10-11/2012
Cửa sông
Bakam,
Malaysia
<i>S. cucullata </i> -
63,0
±
0,14
109 ±
0,2 - - - -
mg/kg
khơ [16]
3-7/2013
Hải Phịng
(HP) & Hạ
Long, Việt
Nam (VN)
0,79
–
6,20
0,81
–
4,47
- mg/kg
khô [17]
4/2011 Cửa sông
Pearl, TQ
<i>Crassostrea </i>
<i>hongkongensis </i>
14,4
± 7,8
923
±
477
2.894
1,6 ±
0,4 - -
mg/kg
khô
[18]
6,5 ±
23,3
511
±
4.966
1.974
±
4.897
- 1,1 ±
2,3 - -
mg/kg
khô
7/2014 Vịnh
Liaodong, TQ <i>C. gigas </i>
61,5
mg/kg
khô [19]
5-9/2011
Cửa sông
Jiulongjiang
TQ
<i>C. sikamea </i> 10 3.600 7.000 4,9 2,7 5,9 - mg/kg
khô [20]
<b>Châu Phi </b>
Atlantic,
Morocco <i>C. gigas </i> 4,54 25,9 481,7 25,8 4,2 7,1 0,4
mg/kg
khô [21]
<b>Châu Mỹ </b>
2000-2011
Cửa sông
Savannah Mỹ <i>C. virginica </i> -
90,1
±
14,8
1.531
± 464 - - -
0,3 ±
0,3
mg/kg
2008-2009
Vịnh
California,
Mexico
<i>C. </i>
<i>corteziensis </i>
6,05
±
2,77
60,0
±
33,4
777 ±
528 -
1,11
±
0,63
-
0,38
±
0,17
mg/kg
khô [23]
2012-2013
Santa
Catarina,
Brazil
<i>C. gigas </i> <0,5 1,71 - 0,05 <0,5 - - mg/kg
khô [24]
5-12/2009
Caroni
Swamp,
Trinidad
<i>C. </i>
<i>rhizophorae </i>
0,56
–
1,12
23,5
-
68,8
690 –
3.696
0,56
–
30,8
0,56
–
5,04
1,12
- mg/kg
khô [25]
<b>Châu Âu </b>
1990-2010
Basque
Country, Tây
Ban Nha
<i>C. gigas </i> 0,01–
2,06
17,6–
1.253
52 –
6.077
0,01–
5,81
0,03–
7,85
0,01–
4,73
0,02–
0,53
mg/kg
khô [26]
4/2012
Cửa sông
Thames, Anh
Quốc
<i>C. gigas </i>
2,19
±
0,73
391
±
143
1.972
± 617 -
1,14
±
0,44
- - mg/kg
khô [27]
<b>Châu Úc </b>
2005-2006
Cửa sông
Sydney, Úc <i>S. glomerata </i> - 1.419 6.518 - 8,9 - -
mg/kg
khô [28]
01/1991
Sông
Hawkesbury
Úc
<i>C. </i>
<i>commercialis </i>
0,8 –
2,1
160 -
180
1.440-5.440 -
0,1 –
0,5 -
0,12-0,27
mg/kg
khô [29]
<b>2.2. Nồng độ kim loại trong các loài nghêu </b>
<i><b>Nghiên cứu khoa học công nghệ </b></i>
loại nặng trong 12 loài nghêu tại 34 vị trí lấy mẫu vùng ven biển Malaysia đã được
Ở Việt Nam, nghêu Bến Tre <i>Meretrix lyrata</i> là một trong những loại hải sản
phổ biến ở khu vực phía Nam. Trong những năm 2003-2007, Phạm Kim Phương
và cộng sự đã công bố kết quả thực hiện đề tài cấp Sở Khoa học Công nghệ và luận
văn tiến sỹ nghiên cứu vế sự tích tụ và tự đào thải kim loại nặng Cd, As, Pb trong
môi trường nuôi nhân tạo cũng như những phân bố ngoài tự nhiên khu vực Cần
Giờ của các kim loại này. Đối với nghêu lấy tại bãi nghêu Cần Thạnh (lấy trong 1
đợt), nghiên cứu này phân tích các kim loại trong thịt nghêu và toàn bộ nội tạng
cho thấy nồng độ các kim loại Cd và Pb trong nội tạng cao hơn trong thịt rõ rệt
(Cd: 0,07 mg/kg trong thịt và 0,20 mg/kg trong nội tạng; Pb: 0,04 mg/kg trong thịt
và 0,13 mg/kg trong nội tạng) cịn As thì phân bố đồng đều (1,50 mg/kg trong thịt
và 1,70 mg/kg trong nội tạng). Kết quả trong phịng thí nghiệm cho thấy lồi nghêu
này tích lũy Pb cao nhất sau đó đến Cd và As; Đào thải nhiều nhất là As (đi từ As
(V) sang As (III) và về dạng phức hữu cơ và thải ra ngồi) sau đó đến Pb và Cd
(trong đó Cd hưu cơ thì đào thải nhiều hơn Cd vô cơ). Với Pb và Cd mặc dù cơ chế
giảm độc tự nhiên có trong cơ thể nghêu nhưng 2 kim loại này lại tích lũy lâu dài
trong nghêu và có thể nguy hại khi làm thực phẩm [31]–[33]. Từ năm 2010-2016
cũng có một số các nghiên cứu rải rác về nồng độ kim loại trong loài nghêu này ở
các vùng biển ở Việt Nam được thực hiện bởi Nguyễn Phúc Cẩm Tú và cộng sự
[34], Nguyễn Thị Kim Phương và cộng sự [35], và Lê Xuân Sinh [36]. Tuy nhiên
những nghiên cứu này có quy mơ về số lượng mẫu và thời gian lấy mẫu hạn chế
hơn so với nghiên cứu tại Tân Thành và Cần Giờ (Kết quả thể hiện trong bảng 2).
Những kết quả nồng độ kim loại trong mẫu nghêu này ở Việt Nam cũng tương
đồng như ở Malaysia và một số loài nghêu khác ở Trung Quốc cho thấy hầu hết
nồng độ kim loại nằm trong mức cho phép đối với thực phẩm.
Nồng độ Cd trong hầu hết các mẫu nghêu đều nằm trong giới hạn cho phép của
thực phẩm ở nhiều nước trên thế giới là 2 mg/kg khô. Tuy nhiên, một số mẫu vẫn
phát hiện cao, điển hình là nghêu Nam cực. Kết quả cho thấy Cd cao hơn 2 mg/kg
khô ở hầu hết các bộ phận của nghêu Nam Cực, trong đó, thận và tuyến tiêu hóa có
nồng độ Cd cao hơn nhiều so với mang (bảng 2). Một kết quả thú vị từ nghiên cứu
này cho thấy nồng độ Cd và Fe trong nghêu Nam Cực cỡ lớn cao hơn trong các
con nhỏ, minh chứng cho khả năng tích lũy các kim loại này. Mặt khác, nồng độ
Mn, Zn và Cu trong các con nhỏ lại cao hơn. Kết quả tương quan nghịch có lẽ liên
quan đến tốc độ lọc của các cá thể nhỏ thì cao hơn các cá thể trưởng thành nên
lượng kim loại thông qua thức ăn và vật chất lơ lửng đi vào cơ thể sinh vật nhiều
hơn [37].
<i><b>Bảng 2</b>. Nồng độ kim loại trong nghêu ở các vùng trên thế giới.</i>
<b>Thời </b>
<b>gian </b>
<b>lấy </b>
<b>mẫu </b>
<b>Vị trí </b> <b>Loài </b> <b>Cd </b> <b>Cu </b> <b>Zn </b> <b>Ni </b> <b>Pb </b> <b>Cr Hg </b> <b>Đơn vị Tham </b>
Trước
2015 Malaysia
<i>12 loài khác </i>
<i>nhau </i>
0,18-8,51
0,13-19,10 - -
mg/kg
khô [30]
5/2010 Vịnh Gamak,
Hàn quốc
<i>Ruditapes </i>
<i>philippinarum </i>
0,5 ±
0,2
13,6 ±
0,0
76,8 ±
0,3
2,9 ±
0,3 0,8 ± 0,2
3,6 ±
0,5 -
mg/kg
khô [38]
3-4/2014
Tiền Giang, VN <i>Meretrix </i>
<i>lyrata </i>
1,06 ±
0,23
10,3 ±
0,6
81,9 ±
15,8 - - - -
mg/kg
khô
[39]
6-8/2014
1,34 ±
0,65
9,27 ±
6,1
82,8 ±
24,7 -
0,55 ±
0,58 - -
mg/kg
khô
2015 Cần Giờ, VN
<i>M. lyrata (>24 </i>
<i>tháng) </i>
0,11-0,79
20,26-35,76
117,4-302,55 -
0,10-0,79
0,35-0,45 -
mg/kg
khô
[40]
<i>M. lyrata </i>
<i>(6-24 tháng) </i>
0,21-1,17
15,75-33,43
128,6-311 -
0,15-0,33
0,12-0,41 -
mg/kg
khô
<i>M. lyrata (<6 </i>
<i>tháng) </i>
0,07-0,73
15,78-49,5
152,5-315 -
0,11-0,40
0,10-0,27 -
mg/kg
khô
3/2012
Phù Long, HP,
VN
<i>Meretrix </i>
<i>lyrata </i>
0,78
±0,25
13,14
±6,55
60,14 ±
4,54 -
1,31
±0,53
2,10
±0,23 -
mg/kg
khô
[41]
Quần Mục, HP,
VN
<i>Meretrix </i>
<i>lyrata </i>
1,15
±0,24
10,57
±5,56
58,18 ±
7,48 -
1,08
±0,71
2,33
±1,14 -
mg/kg
khô
2013-2014 Xiamen, TQ <i>M. petechialis </i>
0,04-0,05
- -
- 0,02-<sub>0,10 </sub> ND - mg/kg <sub>khô </sub> [42]
11/2011 6 thành phố
biển, Bắc TQ <i>S. subcrenata </i>
1,93±
0,29
1,21±
0,33
16,8±
3,78 -
0,14±
0,01
0,30±
0,16
0,06±
0,03
mg/kg
ướt [43]
<b>Châu Phi </b>
4/2007 Địa Trung Hải,
Hy Lạp
<i>Tapes </i>
<i>decussata </i> 0,09 3,82 21,87 10,28 0,24 8,47 -
mg/kg
khô [44]
8/2004-5/2005
Sidi Moussa,
Morocco
<i>Venerupis </i>
<i>decussatus </i> 2,2 11,1 103,1 22,4 4,1 9,6 0,3
mg/kg
khô [21]
<b>Châu Mỹ </b>
7/1993
Cửa sông Rio de
la Plata,
Argentina
Corbicula
fluminea
0,5-1,9 28-89 118-316
1,3-
5,8 - 1,3-11 -
mg/kg
khô <sub>[45] </sub>
10/2006
Sông
Choctawhatchee
Mỹ
<i>C. fluminea </i> 0,25 9,8 14 - 1,2 - -
mg/kg
ướt <sub>[46] </sub>
<b>Châu Âu </b>
11-12/2009
Poole Harbour,
Anh <i>C. edule </i> 0,2-0,8 6-13,8 40-160 5,5-14 ND-3,4
1,4-8,5
ND-0,47
mg/kg
khô [47]
7/2006 Cửa sông Alb,
Đức
<i>Corbicula </i>
sp. 0,1 38 128 0,78 0,28 2 -
mg/kg
khô [48]
<b>Nam Cực </b>
2005-2006
Potter Cove
(Nam Cực)
<i>L. elliptica </i>
<i>(mang) </i>
2,9 ±
0,8
8,6 ±
5,5
107 ± 17
- - 0,78 ± <sub>0,5 </sub> <sub>±0,30 </sub>0,70 mg/kg <sub>khơ </sub>
[37]
<i>L. elliptica </i>
<i>(tuyến tiêu </i>
<i>hóa) </i>
11 ± 3 73 ± 14 120 ± 8
- -
2,1 ±
2,4
1,4
±0,6
mg/kg
khô
<i>L. elliptica </i>
<i>(thận) </i>
129 ±
27
7,3 ±
3,8
2650 ±
750 - -
0,9 ±
0,6
68 ±
97
mg/kg
khô
<i>Ghi chú: ND – Không phát hiện. </i>
<b>3. HÀU VÀ NGHÊU TRONG QUAN TRẮC SINH HỌC </b>
<i><b>Nghiên cứu khoa học công nghệ </b></i>
thị môi trường. Với đặc điểm thường sống vùi trong bùn cát, các nghiên cứu về
nghêu thường tập trung vào tương quan nồng độ các chất ô nhiễm trong cơ thể và
trong vật chất lơ lửng và trầm tích đáy. Trong khi đó, tương quan một số các chất ô
nhiễm trong cơ thể hàu với môi trường nước và vật chất lơ lửng thường được công
bố hơn so với các môi trường khác.
Phát hiện năm 2013 của Rejomon George và cộng sự cho thấy khả năng áp
dụng loài nghêu <i>Villorita cyprinoides</i> làm quan trắc sinh học tại vùng nước tù
(backwater) Cochin ở Ấn độ là khả thi khi kết quả nồng độ các kim loại Fe, Co, Ni,
Cu, Zn, Cd và Pb có sự biến động liên quan đến dịng chảy hay thời gian gió mùa
(monsoon) và vị trí lấy mẫu tại khu vực nghiên cứu. Kết quả phân tích ANOVA
cho thấy sự khác biệt có tính thống kê của nồng độ các kim loại nghiên cứu trong
sinh vật ở những vị trí chịu tác động khác nhau và trong mùa khác nhau (Mùa gió
mùa-monsoon vào 9/2011 lượng mưa >200mm tương đương mùa mưa vùng nhiệt
đới; trước gió mùa – pre monsoon vào tháng 4/2011 khi bắt đầu mùa mưa và sau
gió mùa-post monsoon vào tháng 12/2010 khi kết thúc mùa mưa). Kết quả cho
thấy nồng độ kim loại tăng theo mùa với thứ tự
monsoon<post-monsoon<pre-monsoon. Kết quả này được lý giải do khu vực cửa sơng bị vùng địa hình bao bọc
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu khác cũng đã phân tích việc ứng dụng các loài
nghêu khác nhau làm chỉ thị sinh học cho phát hiện ô nhiễm kim loại nặng trong
mơi trường trầm tích đáy như nghêu Manila <i>Venerupis philippinarum </i>[5], nghêu
<i>Polymesoda erosa</i> [6] hay nghêu Nam cực [37].
Cũng như nghêu, mỗi loại hàu ở các vùng khác nhau cũng có những mức tích
lũy sinh học các kim loại khác nhau và khả năng áp dụng trong quan trắc sinh học
một số các kim loại khác nhau. Ở Tây Ban Nha, diễn biến nồng độ của nhiều kim
loại trong cơ thể hàu Thái Bình Dương <i>C. gigas</i> được thực hiện từ năm 1990 đến
2010 đã đưa ra nhiều những bằng chứng cho thấy khả năng áp dụng loài này như
một sinh vật quan trắc [26]. Mặt khác, các nghiên cứu độc lập khác nhau trên thế
giới cũng cho các kết quả tương quan có ý nghĩa thống kê cao giữa nồng độ một số
kim loại với kích thước, tuổi, trọng lượng với cả con hàu hoặc từng bộ phận, cụ thể
một số loài hàu khác có thể ứng dụng trong quan trắc sinh học như <i>C. virginica </i>
[22]<i> Crassostrea corteziensis</i> và <i>Crassostrea palmula</i> [23], <i>Crassostrea </i>
<i>rhizophorae</i> [25], <i>Saccostrea glomerata</i> [28].
<b>4. KẾT LUẬN </b>
mức lo ngại cho người tiêu dùng khi sử dụng chúng như thực phẩm, tuy nhiên nó
lại là đặc tính quan trọng trong nghiên cứu khả năng ứng dụng các loài này vào
lĩnh vực quan trắc môi trường hay nghiên cứu về mức độ ô nhiễm môi trường.
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>
[1]. S. E. Martin and W. Griswold, “<i>Human Health effects of heavy metals,</i>”
Environ. Sci. Technol. briefs citizens, <b>Vol. 15 </b>(2009)<b>,</b> pp. 1–6.
[2]. Q. Tarique, J. Burger, and J. R. Reinfelder, “<i>Metal Concentrations in Organs </i>
<i>of the Clam Amiantis umbonella and Their Use in Monitoring Metal </i>
<i>Contamination of Coastal Sediments,</i>” Water, Air, Soil Pollut., <b>Vol. 223</b>, No.
5 (2012), pp. 2125–2136.
[3]. A. Sakellari, S. KaraVoltsos, D. Theodorou, M. Dassenakis, and M. Scoullos,
“<i>Bioaccumulation of metals (Cd, Cu, Zn) by the marine bivalves M. </i>
<i>galloprovincialis, P. radiata, V. verrucosa and C. chione in Mediterranean </i>
<i>coastal microenvironments: Association with metal bioavailability,</i>” Environ.
Monit. Assess., <b>Vol. 185</b>, No. 4 (2013), pp. 3383–3395.
[4]. F. A. Otchere, “<i>Heavy metals concentrations and burden in the bivalves </i>
<i>(Anadara (Senilia) senilis, Crassostrea tulipa and Perna perna) from </i>
<i>lagoons in Ghana: Model to describe mechanism of accumulation/excretion,</i>”
African J. Biotechnol., <b>Vol. 2</b>, No. 9 (2003), pp. 280–287.
[5]. H. Wu, C. Ji, Q. Wang, X. Liu, J. Zhao, and J. Feng, “<i>Manila clam Venerupis </i>
<i>philippinarum as a biomonitor to metal pollution,</i>” Chinese J. Oceanol.
Limnol., <b>Vol. 31</b>, No. 1 (2013), pp. 65–74.
[6]. C. K. Yap, F. B. Edward, and S. G. Tan, “<i>Concentrations of heavy metals in </i>
[7]. K. W. Wong, C. K. Yap, R. Nulit, M. S. Hamzah, S. K. Chen, W. H. Cheng,
A. Karami, and S. A. Al-Shami, “<i>Effects of anthropogenic activities on the </i>
<i>heavy metal levels in the clams and sediments in a tropical river,</i>” Environ.
Sci. Pollut. Res., <b>Vol. 24</b>, No. 1 (2017), pp. 116–134.
[8]. B. A. Markert, A. M. Breure, and H. G. Zechmeister, "<i>Bioindicators and </i>
<i>biomonitors: principles, concepts and applications,"</i> The Netherlands:
Elsevier science (2003).
[9]. M. M. Helm and N. Bourne, “<i>Hatchery culture of bivalves – A practical </i>
<i>manual,</i>” Rome (2004).
[10]. X. Liu and W.-X. Wang, “<i>Time changes in biomarker responses in two </i>
<i>species of oyster transplanted into a metal contaminated estuary,</i>” Sci. Total
Environ., <b>Vol. 544</b> (2016), pp. 281–290.
[11]. F. Liu and W. X. Wang, “<i>Facilitated Bioaccumulation of Cadmium and </i>
<i>Copper in the Oyster Crassostrea hongkongensis Solely Exposed to Zinc,</i>”
Environ. Sci. Technol., <b>Vol. 47</b>, No. 3 (2013), pp. 1670–7.