ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC
--------
PHẠM THỊ HỒNG NHUNG
HIỆN TƯỢNG “ÂU HÓA” Ở VIỆT NAM
TỪ GĨC NHÌN VĂN HĨA
(PHẢN ÁNH QUA VĂN HỌC GIAI ĐOẠN 1930-1945)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
MÃ SỐ: 60 31 70
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC
--------
PHẠM THỊ HỒNG NHUNG
HIỆN TƯỢNG “ÂU HÓA” Ở VIỆT NAM
TỪ GĨC NHÌN VĂN HĨA
(PHẢN ÁNH QUA VĂN HỌC GIAI ĐOẠN 1930-1945)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
MÃ SỐ: 60 31 70
Người hướng dẫn khoa học
TS NGUYỄN VĂN HIỆU
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009
2
3
MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................. 1
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 2
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 2
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................. 2
3. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................ 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu.............................................................. 9
6. Ý nghĩa khoa học .................................................................................................. 10
7. Bố cục của luận văn.............................................................................................. 11
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ............................................................ 12
1.1. Cơ sở lý luận ..................................................................................................... 12
1.1.1. Văn hóa và tiếp biến văn hóa ............................................................................... 12
1.1.2. Khái niệm “Âu hóa” ............................................................................................. 16
1.2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................................. 18
1.2.1. Bối cảnh văn hóa - lịch sử ................................................................................... 18
1.2.2. Thực tiễn văn học 1930-1945 ................................................................................24
CHƯƠNG 2: HIỆN TƯỢNG “ÂU HÓA” TRÊN BÌNH DIỆN VĂN HĨA
VẬT CHẤT............................................................................................................. 29
2.1. Quan điểm của các nhà văn về hiện tượng “Âu hố” trên bình diện văn hoá
vật chất ................................................................................................................... 30
2.1.1 Trang phục ...................................................................................................... 30
2.1.2 Tiện nghi vật chất ........................................................................................... 38
2.2. Nguyên nhân của những xu hướng phản ánh hiện tượng “Âu hóa” trên bình
diện văn hoá vật chất................................................................................................ 49
2.2.1 Xu hướng ủng hộ ............................................................................................. 49
2.2.21 Xu hướng phê phán........................................................................................ 52
CHƯƠNG 3: HIỆN TƯỢNG “ÂU HÓA” TRÊN BÌNH DIỆN VĂN HĨA
TINH THẦN........................................................................................................... 54
3.1. Quan điểm của các nhà văn về hiện tượng “Âu hố” trên bình diện văn hố
tinh thần ................................................................................................................... 54
3.1.1 Ngơn ngữ ......................................................................................................... 55
3.1.2 Các hình thức giải trí và nghệ thuật..............................................................…59
3.1.2.1 Các hình thức giải trí.................................................................................... 59
3.1.2.2 Nghệ thuật ................................................................................................... 65
3.1.3 Các mối quan hệ trong gia đình và xã hội ....................................................... 67
3.1.3.1 Quan hệ gia đình .......................................................................................... 67
3.1.3.2 Quan hệ xã hội ............................................................................................. 77
3.2. Nguyên nhân của những xu hướng phản ánh hiện tượng “Âu hóa” trên bình
diện văn hố vật chất ................................................................................................ 82
3.2.1 Xu hướng ủng hộ ........................................................................................... ..82
3.2.2 Xu hướng phê phán.......................................................................................... 84
KẾT LUẬN............................................................................................................. 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 90
PHỤ LỤC................................................................................................................ 96
3
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiếp xúc và tiếp biến văn hoá phương Tây ở Việt Nam từ nửa sau thế kỉ XIX
là một vấn đề lớn trong lịch sử văn hoá Việt Nam, đặc biệt là vào những năm từ
1930-1945, khi q trình tiếp xúc văn hố Việt Nam – phương Tây đã trải qua một
thời gian tương đối dài và đi vào thời kỳ tiếp biến “mạnh”, toàn diện nhất.
Hiện thực xã hội của giai đoạn 1930-1945 được phản ánh sinh động và
phong phú qua văn học Việt Nam thời kỳ này. Trong bức tranh hiện thực khá đa
dạng đó nổi lên hiện tượng “Âu hóa”, chủ yếu gắn với cái nhìn phê phán của nhiều
tác giả nổi tiếng như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Ngơ Tất
Tố…, trong đó nổi bật nhất là Vũ Trọng Phụng.
Nhưng tại sao lại có hiện tượng “Âu hóa”? Điều này phản ánh đặc điểm gì
của văn hóa Việt Nam giai đoạn 1930–1945 trong quá trình tiếp xúc với văn hóa,
văn minh phương Tây và tại sao hiện tượng này chủ yếu gắn với cái nhìn phê phán
của nhiều nhà văn, nhiều trí thức đương thời?
Nhằm tìm hiểu văn hóa Việt Nam trong q trình giao lưu và tiếp biến văn
hóa phương Tây giai đoạn 1930-1945 và nhằm góp phần trả lời những câu hỏi trên,
chúng tôi chọn đề tài Hiện tượng “Âu hóa” ở Việt Nam từ góc nhìn văn hóa
(Phản ánh qua văn học giai đoạn 1930–1945) để làm luận văn tốt nghiệp cao học
văn hóa học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Thơng qua hiện tượng “Âu hóa” được phản ánh trong tác phẩm văn học
Việt Nam giai đoạn 1930-1945, luận văn góp phần tìm hiểu tiếp xúc văn hóa Việt
Nam - phương Tây gắn với bối cảnh văn hóa, lịch sử - xã hội của Việt Nam giai
đoạn này.
- Góp phần lý giải những đặc điểm có tính quy luật của giao lưu và tiếp biến
văn hóa gắn với trường hợp văn hóa Việt Nam.
- Góp phần tìm hiểu vai trị của văn học với tư cách là một bộ phận của văn
hóa trong việc phản ánh hiện thực và định hướng giá trị, cụ thể là trong bối cảnh
văn hóa, văn học Việt Nam giai đoạn 1930–1945.
4
5
3. Lịch sử vấn đề
3.1 Những nghiên cứu chung về ảnh hưởng của văn hoá phương Tây với
văn hoá Việt Nam
Vấn đề giao lưu văn hóa Việt Nam với phương Tây (đặc biệt là với văn hóa
Pháp) là vấn đề quan trọng trong q trình phát triển của văn hóa Việt Nam. Giai
đoạn tiếp biến này cũng giống như giai đoạn tiếp biến văn hóa Việt Nam – Trung
Hoa, hình thành nên một lớp văn hóa mới, làm phong phú thêm cho nền văn hóa
Việt Nam. Chính vì vậy, có khơng ít cơng trình nghiên cứu về giai đoạn này ở tất cả
các lĩnh vực.
Đối với những chuyên ngành như tôn giáo, kiến trúc, hội họa, âm nhạc, sân
khấu, kinh tế… đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về ảnh hưởng của phương
Tây đối với Việt Nam đầu thế kỉ XX. Có thể kể một số cơng trình nghiên cứu sau
đây:
Về tôn giáo:
- Đỗ Quang Hưng 1991: Một số vấn đề về lịch sử Thiên chúa giáo ở Việt
Nam, ĐHTH Hà Nội, 1991. Trong cơng trình này, tác giả đã tổng kết lại lịch sử của
Thiên Chúa giáo ở Việt Nam, q trình du nhập và phát triển khó khăn của Thiên
chúa giáo trước rào cản vững chắc của tơn giáo bản địa đã hình thành từ hàng ngàn
năm. Trong q trình đó, những vấn đề mà Thiên chúa giáo gặp phải trên đường đi
cũng chính là những vấn đề văn hóa: hịa hợp với cuộc sống của cư dân bản địa,
thay đổi cho phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của họ, hài hịa với các tơn giáo
khác….
- Nguyễn Văn Kiệm, “Vai trò của Giáo hội Thiên chúa giáo trong cuộc xâm
lược Việt Nam của thực dân Pháp nửa sau thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử
số 3, 1998. Tác giả đã nhìn nhận vai trò của Thiên chúa giáo trong cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam như một công cụ dẫn đường hữu hiệu. Thiên chúa giáo là bước
chân đầu tiên người phương Tây đặt lên lãnh thổ Việt Nam dưới danh nghĩa hịa
bình. Về khía cạnh văn hóa, nó cũng là phần khởi đầu cho một kế hoạch đồng hóa
văn hóa lâu dài phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa của chủ nghĩa Tư bản
phương Tây.
5
6
- Khổng Đức Thiêm, “Vài nét về tình hình cơng giáo ở Liên khu IV trong
những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số
3, 2002. Trong bài nghiên cứu này, tác giả đã thống kê cụ thể số giáo dân ở liên khu
IV trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sự gia tăng của giáo dân,
tuy chậm nhưng ổn định là minh chứng cho sự phát triển của Thiên chúa giáo ở Việt
Nam. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá khách quan: sự phát triển của Thiên chúa
giáo khơng hồn tồn phục vụ cho kế hoạch đồng hóa văn hóa của người phương
Tây mà nó hịa nhập với cuộc sống của người Việt như một yếu tố văn hóa mới,
người Việt bắt đầu tiếp nhận nó trên nền tảng của văn hóa bản địa, tiếp nhận nó mà
khơng đánh mất văn hóa của mình.
- Nguyễn Ngun Hồng, “Thử bàn về vấn đề đổi đạo hay nguyên nhân du
nhập và tiếp nhận đạo cơng giáo ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 5,
2006….
Trong những nghiên cứu về tôn giáo ở Việt Nam thời kỳ đầu tiếp xúc với văn
hóa Pháp đều xem sự ra đời và phát triển của Thiên chúa giáo là một trong những
chuyển biến quan trọng trong lịch sử. Dưới góc nhìn văn hóa, sự phát triển của
Thiên chúa giáo bản thân nó vừa là biểu hiện của tiếp xúc văn hóa Việt Nam –
phương Tây giai đoạn đầu, vừa là tiền đề cho cuộc tiếp biến lớn hơn ở giai đoạn
1930-1945.
Về kiến trúc
- Lê Quang Minh, Sài Gòn - ba thế kỉ phát triển và xây dựng, NXB Tổng hợp
TP HCM, 2004. Cơng trình này tổng hợp những bài nghiên cứu về phong cách kiến
trúc và xây dựng của Sài Gòn xưa và nay, đặc biệt vào những năm đầu thế kỉ XX.
- Bertrand de Hartigh, Anna Craven và nhiếp ảnh gia Luca Invernizzi
Tettoni, VietNam style, NXB Periplus, 2008. Đây là cơng trình đầu tiên viết về kiến
trúc cổ và đương đại của Việt Nam. Theo các tác giả, kiến trúc Việt Nam có sự ảnh
hưởng rất lớn của Trung Hoa và phương Tây, nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng của
nó.
- UBND Tp HCM & Tổng lãnh sự Pháp, Sài gòn 1698- 1998 Kiến trúc – quy
hoạch, NXB TP HCM, 1998. Cơng trình này tổng hợp kiến trúc và quy họach của
Sài Gòn trong một giai đoạn rất dài. Một phần quan trọng trong khoảng thời gian đó
6
7
là từ 1858 đến 1954. Những bản quy hoạch đô thị (kiến trúc, đường sá, cầu cống,
kênh rạch…) của Pháp đã hoặc chưa kịp áp dụng đều được công bố đầy đủ và chi
tiết. Những dự án xây dựng Sài Gịn của người Pháp đã để lại dấu ấn khó phai nhạt
trong diện mạo của Sài Gịn, riêng về khía cạnh kiến trúc và quy hoạch đơ thị.
Ngồi ra cịn nhiều cơng trình sưu tầm hình ảnh lịch sử, văn hố, xã hội Việt
Nam thời kì giao lưu với văn hố Pháp. Tiêu biểu phải kể đến:
- Tạp chí Xưa và nay tổng hợp và giới thiệu, Hà Nội - Huế - Sài Gịn đầu thế
kỷ XX, NXB Văn hố Sài Gòn 2007. Hà nội - Huế - Sài Gòn là ba thành phố đặc
trưng tiêu biểu của Việt nam trong những năm đầu thế kỷ XX, mỗi thành phố đều
có bề dày lịch sử riêng nhưng ln gắn liền với những thăng trầm của lịch sử dân
tộc. Hà nội - Huế - Sài gòn đầu thế kỷ XX tập hợp một số ảnh về ba thành phố này,
qua đó dựng lại một bức tranh gợi lên nhưng nét đổi thay trên ba thành phố tiêu biểu
cho ba miền đất nước. Sự bảo tồn những nét truyền thống gắn với lịch sử của Hà
Nội trong bước đầu chuyển mình; những nét cổ kính của Huế gắn liền với một triều
đại đã qua; những cái mới của Sài gòn trên con đường xây dựng một thành phố hiện
đại. Qua những bức ảnh này, thực tế của xã hội Việt Nam trong buổi giao thời đầu
thế kỷ XX được hình dung rõ ràng và chân thật.
Những nghiên cứu này dựa trên quan điểm của từng chun ngành, chứ
khơng chủ đích thơng qua đó để nghiên cứu văn hóa. Nhưng những tư liệu này giúp
ích rất nhiều cho chun ngành văn hóa học.
Về văn hóa
Khi văn hố học đã trở thành một ngành khoa học được chú trọng ở Việt
Nam, trong các công trình nghiên cứu văn hố, các nhà nghiên cứu đã đề cập đến
vấn đề giao lưu văn hoá Việt Nam - phương Tây, nhất là ảnh hưởng của văn hóa
phương Tây đối với q trình hiện đại hóa của văn hóa Việt Nam trong nửa đầu thế
kỷ XX, tiêu biểu như các cơng trình:
- Phan Ngọc, Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, NXB Văn hóa thơng
tin, 1994; Bản sắc văn hóa, NXB Văn hóa thơng tin, 1998; Một cách tiếp cận văn
hố, NXB Văn hóa thơng tin, 1999. Tác giả Phan Ngọc đưa ra một số khái niệm
mới như: văn hóa, tiếp xúc văn hóa, khúc xạ, giao lưu, bản sắc, tâm thức… Phan
Ngọc đề ra một hướng nghiên cứu mới cho văn hóa, đặc biệt là văn hóa Việt Nam,
7
8
đó là xuất phát từ các quan hệ, xác định kiểu lựa chọn của một dân tộc hay cộng
đồng người để tìm ra được cái bất biến trong tâm thức của họ, từ đó xác định cái
riêng, cái độc đáo của mình. Từ quan điểm này, ơng đã vận dụng vào văn hóa Việt
Nam, xác định cái khác, cái riêng của văn hóa Việt Nam q trình giao lưu và hội
nhập văn hóa.
- Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB TP HCM, 2006.
Trần Ngọc Thêm đã đưa ra một khuynh hướng mới trong nghiên cứu văn hóa. Tác
giả đã vận dụng lý thuyết này để nêu lên được đặc trưng của văn hóa Việt Nam,
khơng chỉ vậy cịn có thể xác định được bản sắc văn hóa của các nền văn hóa khác
hay xác định được sự khác nhau giữa các nền văn hóa. Hệ thống loại hình của Trần
Ngọc Thêm là một phương pháp nghiên cứu văn hóa mới, là một cơng cụ để nghiên
cứu văn hóa. Tác giả đã xác định có hai loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp và văn
hóa gốc du mục, chỉ ra những đặc trưng chung của hai loại hình; khi nghiên cứu bất
kỳ nền văn hóa nào chúng ta chỉ cần xác định được gốc của nền văn hóa thì sẽ suy
ra được đặc trưng và quy luật phát triển của nó.
Ngồi ra, có thể kể đến những cơng trình nghiên cứu văn hóa khác như:
- Trường Lưu (Chủ biên), Văn hoá và phát triển, NXB Văn hố - Thơng tin,
1995
- Trần Quốc Vượng (Chủ biên), Cơ sở văn hố Việt Nam, NXB Giáo dục,
1999
- Nguyễn Đình Chú, “Sự áp đảo của phương Tây đối với phương Đơng trên
phương diện văn hố tinh thần truyền thống”, Tạp chí nghiên cứu Đơng nam Á số 3
- Đỗ Quang Hưng, “Con người Việt Nam trong mơi trường văn hố phương
Tây cưỡng chế (1897-1945): những giải pháp tiếp nhận”, Tạp chí Văn hố Nghệ
thuật số 2/1995 v.v...
Dù xuất phát từ quan điểm nào, các nhà nghiên cứu văn hoá đều gặp nhau ở
một điểm chung: đều cho rằng giai đoạn giao lưu tiếp biến văn hoá Việt Nam phương Tây là một giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển của văn hố Việt
Nam, góp phần hình thành nên bản sắc của văn hoá Việt Nam hiện đại ngày nay. Có
thể xem nó tương đương như giai đoạn giao lưu với văn hố Trung Hoa trước đó, dù
8
9
thời gian ngắn hơn rất nhiều, nhưng ảnh hưởng của văn hố phương Tây với văn
hố Việt Nam là khơng thể phủ nhận, rất sâu rộng.
3.2 Nghiên cứu về hiện tượng “Âu hoá” phản ánh trong tác phẩm văn
học giai đoạn 1930-1945
Vì hiện tượng “Âu hóa” xuất hiện trong các tác phẩm văn học giai đoạn
1930-1945, nên khi nghiên cứu giai đoạn văn học này, các nhà nghiên cứu ít nhiều
đều nhắc đến hiện tượng “Âu hóa” như một trong những nội dung cơ bản.
Tương tự như trên, các nghiên cứu xung quanh hiện tượng “Âu hóa” cũng
dựa trên phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành Văn học.
Hiện tượng “Âu hóa” được phản ánh trong giai đoạn văn học Việt Nam
1930–1945 được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm:
- Phan Cự Đệ, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1, NXB Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, HN 1974. Phan Cự Đệ đã phân tích và nhận định những thành
cơng và hạn chế của tiểu thuyết Việt Nam qua các thời kỳ trước 1930, 1930 - 1945,
1945 -1975, và sơ bộ đánh giá tiểu thuyết thời kỳ đổi mới. Trong mỗi thời kỳ, tác
giả vừa phân tích các đề tài chính vừa giới thiệu một số phong cách tiêu biểu. Trong
đó, tác giả nhắc đến hiện tượng “Âu hóa” với vai trò là một trong những nội dung
quan trọng của văn học hiện thực phê phán. Thông qua nội dung này, tác giả, theo
đúng chuyên ngành văn học, đã làm rõ những vấn đề về bút pháp, tư tưởng và
phong cách của nhà văn.
- Nguyễn Đăng Mạnh, Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam (1930-1945),
NXB Đại học Quốc gia, 2000. Tác giả Nguyễn Đăng Mạnh tổng hợp quá trình phát
triển của văn học Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945 và xem “Âu hóa” khơng
những là nội dung của văn học hiện thực phê phán mà còn là nội dung của thơ ca
giai đoạn này. Riêng về khía cạnh văn học, tác giả cho rằng “Âu hóa” đã ảnh hưởng
đến sự phát triển của văn học nói riêng, cho ra đời những thể loại văn học mới,
những cách thể hiện mới và làm đổi thay tư tưởng của giới văn nghệ sĩ đương thời.
Và các bài nghiên cứu đăng trên tạp chí văn học :
- Phong Lê, “Thời kì 1932-1945 và diện mạo hiện đại của văn học dân tộc”,
Tạp chí văn học số 9-2002
9
10
- Lê Dục Tú, “Phóng sự Việt Nam 1932-1945 – những đóng góp đặc sắc về
mặt nghệ thuật”, Tạp chí văn học số 2 – 2003
- Phạm Quang Long, “Về sự hình thành của chủ nghĩa hiện thực trong văn
học Việt Nam”,Tạp chí văn học số 1-2005…
Đặc biệt là những cơng trình nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng, một trong
những tác gia phản ánh sâu sắc hiện tượng “Âu hóa” trong đời sống xã hội Việt
Nam giai đoạn 1930–1945:
- Trần Hữu Tá tuyển chọn và giới thiệu, Vũ Trọng Phụng Về tác gia và tác
phẩm, NXB Văn học, 2000
- Phong Lê, Vũ Trọng Phụng Những tác phẩm tiêu biểu, NXB Giáo dục, Tái
bản lần thứ nhất 2001
- Hoàng Ngọc Hiến, Tìm hiểu lịch sử cái gọi là “vấn đề Vũ Trọng Phụng”,
Tạp chí văn học số 12-2002, Dị ứng với cái rởm – một phương diện của trào phúng
Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học số 10-2002…
Đặc biệt ở nhà văn Vũ Trọng Phụng, hiện tượng “Âu hóa” gần như gắn liền
với sự nghiệp sáng tác của ông. Nghiên cứu Vũ Trọng Phụng và hiện tượng “Âu
hóa”, các nhà phê bình văn học đều nhìn nhận dựa trên những đánh giá về bút pháp
trào phúng, nghệ thuật tiểu thuyết và phóng sự của ơng.
Những cơng trình nghiên cứu kể trên đã nhìn nhận, đánh giá văn học Việt
Nam từ cái nhìn của chun ngành văn học. Dưới cái nhìn đó, các tác phẩm văn học
Việt Nam đầu thế kỷ được nghiên cứu trên nhiều khía cạnh: nghệ thuật ngơn từ,
nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật cấu trúc tác phẩm… Hiện tượng “Âu hóa”
được xem là một trong những nội dung quan trọng của văn học thời kỳ này. Các tác
giả: Phan Cự Đệ, Nguyễn Đăng Mạnh… là những nhà phê bình văn học tiên phong
phân tích những biểu hiện của phong trào “Âu hóa” dưới góc độ văn học. Các tác giả
đã đi từ cuộc đời và hoàn cảnh sống của nhà văn để lý giải những quan điểm của các
nhà văn trong cách phản ánh xã hội của họ. Cũng như Phan Cự Đệ, Nguyễn Đăng
Mạnh,… hầu hết các nhà nghiên cứu khi đánh giá về xã hội Việt Nam thời kì 19301945 đều cho rằng đây là thời kì rất quan trọng trong quá trình phát triển của văn học
Việt Nam. Xã hội Việt Nam được phản ánh sinh động qua tác phẩm văn học với đầy đủ
10
11
mọi khía cạnh của nó, đặc biệt là trong tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng như: Vũ
Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan…
Tuy vậy, hiện tượng “Âu hóa” được phản ánh trong văn hóa giai đoạn 1930–
1945 vẫn chủ yếu được nghiên cứu từ góc độ nghiên cứu văn học. Trong luận văn
này, trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu của người đi trước, chúng tơi cố gắng tập
trung tìm hiểu hiện tượng này từ góc nhìn văn hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu hiện tượng “Âu hóa” được phản ánh
trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 ở cả hai khía cạnh tích cực và tiêu
cực đối với sự phát triển của văn hóa Việt Nam nhưng tập trung vào khía cạnh tiêu
cực (là nội dung phản ánh chủ yếu của văn học thời kỳ này).
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hiện tượng “Âu hóa” được phản ánh trong
tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn 1930–1945 trên các bình diện: văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần.
- Về phạm vi tư liệu: Tập trung ở một số tác phẩm tiêu biểu: tiểu thuyết và
phóng sự của Vũ Trọng Phụng, các tác phẩm của nhóm Tự lực văn đồn, tác phẩm của
Nguyễn Cơng Hoan, tác phẩm của Nam Cao… Ngồi ra, chúng tơi cịn khảo sát ở
những thể loại khác của văn học như thơ, kịch nói,… và báo chí đương thời: Nam
phong tạp chí, Phong hóa…
5. Phương pháp nghiên cứu & nguồn tư liệu
5.1 Phương pháp nghiên cứu
Quan điểm nghiên cứu: chú ý đến đặc trưng của văn học trong phản ánh hiện
thực. Hiện thực trong tác phẩm văn học là hiện thực đã được sàng lọc qua quan điểm
chủ quan của tác giả. Vì thế, khơng thể trực tiếp tìm hiểu văn hố thơng qua văn học,
mà phải qua một bước trung gian nữa, đó là hiểu được nhãn quan của tác giả, từ đó tìm
hiểu văn hố.
Luận văn sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp hệ thống - cấu trúc: nhìn nhận văn học trong hệ thống cấu
trúc của văn hóa để tìm ra cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa.
- Phương pháp so sánh văn hoá: so sánh giữa văn hoá Việt Nam và văn hố
Phương Tây trong q trình tiếp biến…
11
12
- Phương pháp duy vật lịch sử: đánh giá những sự kiện lịch sử ở những tác
động của nó đến q trình giao lưu, tiếp biến văn hóa Việt Nam – phương Tây.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: tìm hiểu những mối quan hệ giữa văn
học và văn hóa để có cơ sở đánh giá khách quan những vấn đề văn hóa trong giai đoạn
1930-1945.
5.2 Nguồn tư liệu
- Các tác phẩm văn học trong giai đoạn 1930-1945, có tham khảo thêm
những tác phẩm văn học ra đời từ khi thực dân Pháp xâm lược (1858)
- Báo chí Việt Nam giai đoạn 1930–1945
- Các cơng trình lý luận văn hóa và nghiên cứu văn hóa Việt Nam
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6.1 Ý nghĩa lý luận
- Luận văn góp phần tìm hiểu sự giao lưu, tiếp biến của Văn hố Việt Nam
với văn hố phương Tây thơng qua các tác phẩm văn học giai đoạn 1930-1945.
- Qua việc tìm hiểu giao lưu văn hố Việt Nam - phương Tây, luận văn góp
phần tìm hiểu mối quan hệ giữa văn hóa với văn học và vai trị của văn học trong
việc phản ánh những vấn đề nổi bật của văn hóa.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Giao lưu, tiếp biến văn hóa Việt Nam – phương Tây là phần quan trọng trong
q trình phát triển của văn hóa Việt Nam. Trên cơ sở tìm hiểu hiện tượng “Âu hóa”
trong văn học dưới góc nhìn văn hóa, luận văn góp phần làm phong phú và toàn
diện thêm những nghiên cứu về ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đối với văn hóa
Việt Nam, từ đó có những nhìn nhận khách quan về văn hóa Việt Nam đương đại
trong q trình hội nhập với văn hóa thế giới. Xã hội Việt Nam hiện nay cũng đang
trải qua giai đoạn giao lưu tiếp biến với văn hóa ngoại lai. Mặc dù đối tượng tiếp
biến rộng hơn và phong phú hơn rất nhiều, nhưng chủ yếu vẫn là văn hóa phương
Tây. Việc tìm hiểu về giai đoạn tiếp biến với văn hóa phương Tây trước đó sẽ góp
phần tìm ra những đặc điểm riêng của từng giai đoạn cũng như quy luật phát triển
chung của nó, để có tác động kịp thời, giúp văn hóa dân tộc tránh được nguy cơ
đồng hóa, vừa học hỏi được những tiến bộ từ bên ngoài, vừa giữ được nền tảng ở
bên trong.
12
13
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Luận văn trình bày cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của hiện
tượng “Âu hóa”, đồng thời cũng đề cập đến q trình giao lưu, tiếp biến văn hóa
Việt Nam – phương Tây.
Chương 2: Luận văn phân tích những xu hướng đánh giá khác nhau của các
nhà văn giai đoạn 1930-1945 đối với hiện tượng “Âu hóa” trên bình diện văn hóa
vật chất và tìm hiểu ngun nhân của những xu hướng đó.
Chương 3: Tương tự như chương 2, luận văn phân tích những xu hướng
đánh giá của các nhà văn đương thời trên một bình diện khác của văn hóa: văn hóa
tinh thần và xem đây là biểu hiện quan trọng nhất của hiện tượng “Âu hóa”. Từ đó,
chúng tơi sẽ phân tích nguyên nhân những quan điểm khác nhau của các nhà văn để
thấy được những biểu hiện của “Âu hóa” khơng chỉ trong văn học và trong tồn bộ
cuộc tiếp biến văn hóa lớn: Việt Nam – phương Tây giai đoạn 1930-1945.
13
14
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Văn hóa và tiếp biến văn hóa
Về khái niệm văn hóa, có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Riêng ở Việt Nam
cũng đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về văn hóa.
Từ đầu thế kỷ XX, Đào Duy Anh đã quan niệm về nghiên cứu văn hoá :“Các
điều kiện địa lý có ảnh hưởng lớn đối với cách sinh hoạt của con người, song người
là giống hoạt động cho nên trở lại cũng có thể dung sức mình mà xử trí và biến
những điều kiện ấy cho thích hợp với những điều kiện cần thiết của mình. Cách sinh
hoạt vì thế mà cũng biến chuyển và khiến văn hóa cũng biến chuyển theo. Nghiên
cứu xem sự hoạt động để sinh hoạt về các phương diện của một dân tộc xưa nay
biến chuyển thế nào, là nguyên cứu văn hóa lịch sử của dân tộc ấy!” [Đào Duy Anh
1992: tr.3]. Đào Duy Anh đã nhận thấy văn hoá là cách sinh hoạt của con người nảy
sinh trong quá trình lao động trong hồn cảnh địa lý nhất định. Ơng cịn nhấn mạnh
đến sự khác nhau giữa văn hoá của từng dân tộc.
Một nhà nghiên cứu văn hóa khác, tác giả Phan Ngọc, trong Bản sắc văn hóa
Việt Nam đã nêu ra định nghĩa về văn hóa: “Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới
biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều
đã bị cá nhân này hay tộc người này mơ hình hóa theo cái mơ hình tồn tại trong biểu
tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình
thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc
người, khác các kiểu lựa chọn của cá nhân hay tộc người khác.” [Phan Ngọc 2004:
18]. Tác giả Phan Ngọc chú trọng đến “kiểu lựa chọn” của mỗi nền văn hóa. Phan
Ngọc xác định đối tượng nghiên cứu của văn hóa là quan hệ giữa cái mơ hình trong
óc con người với cái mơ hình mà họ tạo ra trong hiện thực. Nghĩa là, nghiên cứu
văn hóa là nghiên cứu ở cấp độ quan hệ chứ không phải ở cấp độ hiện tượng.
Trong “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, tác giả Trần Ngọc Thêm định
nghĩa văn hóa: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
14
15
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [Trần Ngọc Thêm
2004: tr.25].
Từ định nghĩa của Trần Ngọc Thêm, có thể thấy bốn đặc trưng cơ bản của
văn hố: tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh và tính lịch sử. Ở đây, chúng tơi
căn cứ và tính giá trị của văn hố. “Các giá trị văn hóa theo mục đích có thể chia
thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ
cho nhu cầu tinh thần)” [Trần Ngọc Thêm 2004: 26]. Văn hố có tính hệ thống, và
là đối tượng bao trùm mọi hoạt động của xã hội. Nếu đánh giá theo giá trị, thì có thể
chia giá trị văn hố làm hai loại: giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Tuy nhiên, cũng
theo quan điểm của Trần Ngọc Thêm, bất cứ một yếu tố nào trong cùng một hệ
thống đều không thể phân định rạch ròi, bất biến và độc lập tồn tại. Giữa các yếu tố
trong hệ thống ln có sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau.
Chúng tôi dựa trên hai định nghĩa về văn hóa của tác giả Phan Ngọc và tác
giả Trần Ngọc Thêm để định hướng cho việc tìm hiểu hiện tượng “Âu hóa” phản
ánh trong văn học giai đoạn 1930-1945.
Xuất phát từ quan điểm trên, chúng tơi sẽ tiếp cận hiện tượng “Âu hố” trong
văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 trên hai bình diện: văn hoá vật chất (chương
2) và văn hoá tinh thần (chương 3). Trên cơ sở phân định như vậy, hiện tượng “Âu
hố” sẽ được đánh giá một cách tồn diện và rõ ràng hơn. Tuy nhiên, vì văn hố vật
chất và văn hoá tinh thần chỉ là cách phân định các yếu tố trong cùng một hệ thống
giá trị, nên chúng tơi cũng đánh giá cả hai bình diện này trong một mối quan hệ chặt
chẽ, và đặt chúng trong mối tương quan với lịch sử, xã hội, văn học Việt Nam 19301945.
Tiếp biến văn hóa
Tiếp biến văn hóa là một hiện tượng tất yếu khi có sự giao lưu gặp gỡ giữa
các nền văn hóa. “Âu hóa” là một trong những biểu hiện của sự tiếp biến văn hóa
trong quá trình gặp gỡ giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa phương Tây. Ở đây,
chúng tơi nhìn nhận việc tiếp biến văn hóa phương Tây ở Việt Nam dựa trên lý luận
về tiếp biến văn hóa của tác giả Phan Ngọc.
Phan Ngọc cho rằng, khơng có một nền văn hóa nào tồn tại biệt lập, tự thân,
tách rời với những nền văn hóa khác. Trong q trình phát triển của một nền văn
15
16
hóa, dù ít dù nhiều, nó cũng có quan hệ với các nền văn hóa khác. “Văn hóa phát
triển theo quy luật riêng của nó. Phát triển văn hóa trước hết dựa vào giao lưu…
Chính giao lưu khiến mỗi nền văn hóa phải điều chỉnh mình để mở rộng ảnh hưởng
cả về nội dung lẫn hình thức, phải tự đổi mới để có sức lơi cuốn mạnh mẽ” [Phan
Ngọc 2004: 136].
Đối với những cuộc gặp gỡ văn hóa do di cư, giao thương… thì sự tiếp biến
văn hóa diễn ra tự nguyện và thường diễn ra theo cả hai chiều, cả văn hóa bản địa và
văn hóa ngoại lai. Trường hợp giao lưu văn hóa qua “con đường tơ lụa ” hay “con
đường gia vị ” là ví dụ… Các nhà bn mang văn hóa theo trên con đường bn
bán, rồi mang về nước mình nét văn hóa của những nơi họ đi qua. Đối với những
cuộc gặp gỡ văn hóa do chiến tranh xâm lược, sự tiếp xúc văn hóa là do cưỡng bức
và thường là một chiều. Xuất phát từ nhu cầu cai trị thuộc địa lâu dài, các quốc gia
xâm lược đều sử dụng các biện pháp đồng hóa văn hóa. Nếu nước bị xâm chiếm có
nền văn hóa mà sức mạnh nội tại yếu, thường sẽ bị đồng hóa văn hóa dễ dàng, đánh
mất bản sắc văn hóa dân tộc. Cịn ngược lại, thì nước bị xâm chiếm sẽ sàng lọc
những cái có lợi cho xã hội của họ, thậm chí cịn ảnh hưởng ngược trở lại văn hóa
của nước đi xâm lược. Tiếp biến văn hóa khơng phải là hiện tượng có thể xảy ra
một sớm một chiều, nó cần cả một q trình dài để sàng lọc và hấp thụ. Tác giả
Phan Ngọc gọi quá trình này là “vượt gộp ”, dịch từ khái niệm aufheben của Đức
hay dépassement của Pháp. “ ‘Vượt gộp’ có nghĩa là tiếp thu được cái mới nhưng
đổi mới được nó trên cơ sở một cái cũ đã được đổi mới cho thích hợp với hồn cảnh
mới. Nó có nghĩa là bảo vệ được cả cái cũ lẫn cái mới sao cho thích hợp với sự đổi
mới cần phải tiến hành. Như vậy, ‘vượt gộp’ không phải là nhắm mắt chạy theo cái
mới, vứt bỏ cái cũ, cũng không phải là khư khư giữ lấy cái cũ, từ bỏ cái mới ” [Phan
Ngọc 2004: 29]. Ở luận văn này, trong q trình phân tích và đánh giá những hiện
tượng liên qua đến khái niệm “Âu hố ”, chúng tơi dựa trên lý thuyết về tiếp biến
văn hoá của tác giả Phan Ngọc.
Con đường tiếp biến văn hóa thường chia làm nhiều giai đoạn, trừ trường
hợp tiếp biến bằng con đường hịa bình (ở đây chỉ xét đến trường hợp tiếp biến van
hóa qua con đường chiến tranh xâm lược – là trường hợp giao lưu văn hóa Việt
Nam – phương Tây đầu thế kỷ XX), chủ yếu phải qua những giai đoạn sau :
16
17
Giai đoạn chống đối: Nước xâm lược sẽ mang văn hóa của họ vào nước bị
xâm lược, dùng văn hóa như một công cụ phục vụ cai trị. Thông thường, những
biện pháp đồng hóa văn hóa là : pha trộn dịng máu, truyền bá tơn giáo, tư tưởng
triết học, chính trị… Ban đầu, dân bản địa sẽ chống đối quyết liệt, đối xử với văn
hóa của đế quốc bằng thái độ bài trừ.
Giai đoạn bắt chước máy móc: Giai đoạn này là giai đoạn kế tiếp trong quá
trình tiếp biến văn hóa (đối với trường hợp tiếp biến trên cơ sở hịa bình, thì giai
đoạn này diễn ra đầu tiên). Dân bản địa chạy theo những yếu tố văn hóa ngoại lai
mà khơng cần suy nghĩ hay sàng lọc gì. Có thể thấy biểu hiện này ở tất cả những
cuộc tiếp xúc và tiếp biến văn hóa điển hình trên thế giới : Văn hóa Trung Hoa ảnh
hưởng đến Việt Nam thời Bắc thuộc, văn hóa phương Tây ảnh hưởng tới các nước
châu Á và châu Phi trong quá trình xâm chiếm thuộc địa…
Giai đoạn sàng lọc: Trải qua thời kì bắt chước máy móc, q trình sàng lọc
này cũng khơng tránh khỏi những vấp váp. Văn hóa bản địa cần trải qua giai đoạn
này để nhận ra cái gì cần, cái gì khơng, chấp nhận cái gì, loại bỏ cái gì. Đây là giai
đoạn "kết hợp một yếu tố nước ngoài với một yếu tố bản địa, nhưng kết quả của sự
kết hợp làm người ta cảm thấy có gì lai căng" [Phan Ngọc 2004: 30].
Tiếp biến văn hóa cũng không diễn ra đồng thời và tương tự nhau về mức độ
giữa nông thôn và thành thị. Thành thị, nơi tập trung kinh tế, chính trị, văn hóa sẽ là
nơi đầu tiên xảy ra tiếp biến văn hóa. Đặc biệt đối với những thành thị nhiều chức
năng ở các nước tư bản, quá trình này diễn ra càng nhanh và sâu rộng. Dân cư đơng
đúc, lượng trí thức tập trung đông, mức sống cao, đầu mối giao thông buôn bán… là
những điều kiện thúc đẩy nhanh chóng tiếp biến văn hóa. Ngay cả khi cuộc “vượt
gộp ” đã đi đến giai đoạn cuối cùng, tức là đạt được thành tựu, dấu ấn văn hóa ngoại
lai cịn lưu lại nhiều nhất cũng là ở thành thị. Vấn đề này đúng với tất cả các cuộc
giao lưu tiếp biến văn hóa trên thế giới.
Theo những phân tích trên đây, giai đoạn 1930-1945 có thể xem là giai đoạn
bắt chuớc máy móc và bước đầu sàng lọc những giá trị văn hoá ngoại lai. Tất nhiên,
quá trình bắt chước hay sàng lọc cũng diễn ra đầu tiên ở thành thị. Thành thị Việt
Nam chính là bối cảnh của phong trào “Âu hố ”. Qua được giai đoạn này, văn hóa
bản địa sẽ thu được thành tựu trong q trình vượt gộp khó khăn của mình. Văn hóa
17
18
mới sẽ ra đời thay thế cho những yếu tố văn hóa cũ đã khơng cịn phù hợp, vừa mới
mẻ, lại vừa giữ được bản sắc văn hóa của dân tộc.
1.1.2 Khái niệm “Âu hóa”
Từ “Âu hóa” xuất hiện trong ngơn ngữ của rất nhiều nước. Trong tiếng Anh,
“Âu hóa” là Europeanize (động từ) được định nghĩa: denationalize and subject (a
territory) to the supervision of an agency of a European community of nations (làm
mất tính dân tộc và phụ thuộc vào sự tác động của hệ thống các nước châu Âu) hoặc
make (continental) European in customs, character, or ideas (làm cho giống châu
Âu ở khía cạnh văn hóa, đặc tính hoặc tư tưởng) [Oxford advanced leaner’s
Dictionary]. Cùng một nghĩa đó, tiếng Pháp có từ Européaniser. Trong tiếng Việt,
“Âu hóa” nghĩa là: làm cho trở thành có tính chất châu Âu [Từ điển tiếng Việt
1995]. Trong ngôn ngữ của các quốc gia châu Á khác như Nhật Bản, Trung
Quốc…, từ này cũng được dùng với nghĩa tương tự như trên. Khái niệm “châu Âu”
trong nghĩa của từ “Âu hóa” chỉ các quốc gia thuộc lãnh thổ châu Âu. Khái niệm
này cũng trùng với từ “phương Tây” theo cách hiểu của các nước thuộc khu vực
châu Á như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... nên một số trường hợp
người Việt vẫn dùng “Tây hóa” với nghĩa tương tự như Âu hóa (cả trường hợp bị
ảnh hưởng bởi văn hóa Mỹ - dù nước Mỹ không nằm trong lãnh thổ châu Âu nhưng
cư dân châu Mỹ có nguồn gốc từ châu Âu, văn hóa bản địa của người da đỏ khơng
cịn thống thị nữa). Chủ nghĩa tư bản hình thành đầu tiên ở châu Âu và làm phát
sinh nhu cầu mở rộng thuộc địa. Các nước châu Âu hầu hết đều có thuộc địa tại
châu Á, Phi và Mỹ Latinh. Trong q trình xâm chiếm và khai thác thuộc địa, văn
hóa châu Âu ảnh hưởng và làm thay đổi diện mạo văn hóa của các nước thuộc địa.
Đó là thời kỳ ảnh hưởng rất mạnh mẽ của văn hóa phương Tây trên thế giới, mạnh
hơn bất cứ con đường ảnh hưởng nào: giao thương bn bán, di dân… Đến thời kỳ
tồn cầu hóa ngày nay, vấn đề thuộc địa đã được giải quyết nhưng sức ảnh hưởng
của phương Tây vẫn rất mạnh. Đó là nguồn gốc ra đời của từ “Âu hóa” hiểu theo
nghĩa phổ biến nhất trong ngơn ngữ của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Xét về mặt ảnh hưởng đối với văn hóa bản địa, ở bất kỳ quốc gia nào, “Âu
hóa” cũng có hai mặt: tích cực và tiêu cực. Như đã nói ở chương 1, tiếp biến văn
hóa là hiện tượng tất yếu xảy ra khi có sự gặp gỡ giữa các nền văn hóa. Việc tiếp
18
19
biến văn hóa ngoại lai cũng là động lực và cơ hội để đổi mới văn hóa bản địa, khiến
văn hóa bản địa tiến bộ hơn, phù hợp hơn với thay đổi của lịch sử. Nhưng mặc
khác, nếu văn hóa bản địa khơng có nội lực chống lại sự “hịa tan”, thì bản sắc văn
hóa dân tộc sẽ biến mất và bị văn hóa ngoại lai “nuốt chửng” (nằm trong đồ đồng
hóa văn hóa của đế quốc). Hiện tượng “Âu hóa” xảy ra ở các nước thuộc địa, xét
trong trường hợp Việt Nam cũng khơng nằm ngồi quy luật đó. Trong q trình tiếp
biến văn hóa Việt Nam – phương Tây, hiện tượng “Âu hóa” gây ra những ảnh
hưởng tiêu cực đồng thời đem lại những ảnh hưởng tích cực cho văn hóa Việt Nam.
Những ảnh hưởng tích cực là động lực của sự phát triển đất nước, “Âu hóa” mở
rộng và làm phong phú nền kinh tế, cải tổ giáo dục, xây dựng cơ sở hạ tầng, sản
sinh nhiều ngành nghệ thuật… Nhưng bên cạnh đó, việc chạy theo văn hóa phương
Tây một cách mù quáng lại khiến cho nền văn hóa bị mai một.
Ở đây, chúng tơi dùng khái niệm “Âu hóa” ở đây theo nghĩa lịch sử - cụ thể
của nó. Đó là cách dùng của nhiều người đương thời (giai đoạn 1930 – 1945), đặc
biệt là các nhà văn. Đây không phải là khái niệm chỉ những biểu hiện của cả q
trình giao lưu văn hóa Việt Nam – Phương Tây càng không phải xét về mặt ngữ
nghĩa để phân tích và đánh giá. Chúng tơi xem xét nó với tư cách là một khái niệm
xuất hiện trong văn học. “Âu hóa” xuất hiện trong văn học Việt Nam 1930-1945
như một trong những nội dung quan trọng nhất. Vì văn học, cũng như các mơn nghệ
thuật khác, đều không phải là gương soi nguyên bản của cuộc sống. Quan điểm và
cá tính sáng tạo của nhà văn ảnh hưởng rất nhiều đến cách nhìn nhận vấn đề của họ.
Vì thế, đối với hiện tượng “Âu hóa”, mỗi nhà văn có một cách nhìn khác nhau, và
cách dùng khái niệm “Âu hóa” trong tác phẩm cũng khác nhau. Các nhà văn hiện
thực chủ yếu xem “Âu hóa” là phong trào “vui vẻ trẻ trung”, chạy theo lối sống
phương Tây mù quáng, xã hội “Âu hóa” trong mắt họ đầy rẫy những trò lố bịch và
suy đồi. Ngược lại, các nhà văn lãng mạn lại xem “Âu hóa” là phương tiện để họ
bộc lộ “cái tôi” và khát vọng giải phóng con người… Chính những xu hướng khác
nhau đó là biểu hiện của sự xáo trộn tất yếu trong nội bộ một nền văn hóa đang tiếp
biến với văn hóa ngoại lai.
Ảnh hưởng của phương Tây đối với văn hóa Việt Nam có thể kể ra rất nhiều
mặt: kinh tế, giáo dục, nghệ thuật, khoa học… và ở mặt nào cũng có những biểu
19
20
hiện tiêu cực lẫn tích cực. Như đã nói ở trên, đến thời kì 1930-1945, do những chính
sách văn hóa “mị dân” của thực dân Pháp, một bộ phận dân thành thị Việt Nam rơi
vào cuộc sống suy đồi cả về đạo đức lẫn văn hóa. Thành phần chủ yếu tạo ra phong
trào này là tầng lớp tư sản và tiểu tư sản thành thị, đặc biệt là giới trẻ. Khái niệm
“Âu hóa” trong văn học 1930-1945 là khái niệm bao gồm cả văn hóa vật chất và
văn hóa tinh thần.
Văn hóa vật chất trong phong trào “Âu hóa” biểu hiện ở những thay đổi,
cách tân về trang phục, tiện nghi sinh hoạt, các phương tiện vui chơi giải trí... Văn
hóa tinh thần biểu hiện ở những chuyển đổi trong tư tưởng và quan niệm sống. Văn
hóa phương Tây du nhập vào Việt Nam ý thức đề cao cái “tôi”, từ đó, nảy sinh khát
vọng được tự do thể hiện bản thân, tự do yêu đương, quyết định cuộc sống của giới
trẻ. Xét theo quan điểm tiến bộ, thì những khát vọng đó là chính đáng, góp phần xóa
bỏ dần dần những hủ tục của văn hóa phong kiến, đưa xã hội tiến đến văn minh.
Nhưng trong giai đoạn 1930-1945, người ta cịn thấy bên cạnh khát vọng chính
đáng đó vẫn còn những tư tưởng suy đồi, xuống cấp: hám danh, trọng đồng tiền, đi
ngược lại đạo lý truyền thống của dân tộc, quan hệ gia đình, dịng tộc, cộng đồng
hỗn loạn… Hai mặt này đều nằm trong khía cạnh văn hóa tinh thần của phong trào
“Âu hóa”.
Tất nhiên khơng thể tách bạch giữa tinh thần và vật chất, giữa chúng có mối
quan hệ chặt chẽ và biện chứng. Nhưng phân biệt chúng thành hai khía cạnh riêng
biệt trong phong trào “Âu hóa” là cần thiết, vì mỗi khía cạnh sẽ được phản ánh cụ
thể trong từng khuynh hướng văn học khác nhau.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1 Bối cảnh văn hóa – lịch sử
Vào giai đoạn 1930-1945, Việt Nam đã trải qua một thời gian dài tiếp xúc
với văn hóa phương Tây. Giai đoạn này, theo nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cũng
như văn hoá, là chặng cuối của quá trình tiếp biến văn hóa do cưỡng bức. Dấu ấn
của q trình giao lưu với văn hố phương Tây thể hiện khá rõ nét.
Về kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam trước 1958 là lấy nông nghiệp làm chủ đạo. Phương
thức sản xuất lạc hậu và trì trệ. Nhằm đẩy nhanh quá trình khai thác thuộc địa,
20
21
phương Tây đã mang vào Việt Nam những thành tựu khoa học tiên tiến phục vụ cho
đời sống và sản xuất: các phương tiện giao thông, cơ sở hạ tầng, thiết bị sản xuất,
vật dụng sinh hoạt… Những tiện nghi văn minh này tập trung ở các thành thị, nơi
thực dân phương Tây tập trung quân sự, khai thác thuộc địa. Cùng với cuộc khai
thác thuộc địa, sự ra đời của các thành thị “nhiều chức năng” ở Việt Nam đầu thế kỉ
XX cũng là mốc lịch sử rất quan trọng. Trước đây, “về mặt chức năng, đô thị Việt
Nam có hai chức năng là chức năng hành chính và chức năng kinh tế, trong đó chức
năng hành chính là chủ yếu. Đô thị là do nhà nước đặt ra với mục đích để làm một
trung tâm quản lý hành chính. Chức năng kinh tế chỉ là thứ yếu” [Trần Ngọc Thêm
2004: 220]. Đến thời điểm này, thành thị có thêm nhiều chức năng kinh tế, dịch vụ
khác nữa. Các thành thị đã trở thành trung tâm kinh tế, thương mại, cơng nghiệp…:
Sài Gịn, Hà Nội, Hải Phịng,… Kinh tế Việt Nam trở nên đa dạng cùng với sự phát
triển của thương nghiệp, dịch vụ, cơng nghiệp v.v…
Sài Gịn là thành phố tiêu biểu cho sự phát triển kinh tế theo hướng đa dạng
hóa nhằm đáp ứng nhu cầu khai thác của thực dân Pháp. Ngay sau khi đặt chân đến
Sài Gịn, mặc dù tình hình chưa ổn định, thực dân Pháp đã quyết định thành lập
cảng Sài Gòn (22-2-1860). Tài nguyên Nam Kỳ đã được liệt kê ngay và một chương
trình khai thác cụ thể trong lĩnh vực cơng nghiệp, nơng nghiệp, và thương nghiệp
được Phó Đơ đốc Bonard vạch ra đã gửi về Pháp và được chấp thuận. (Số liệu dẫn
theo trang web của TP HCM: www.hochiminhcity.gov.vn)
Thương nghiệp:
Năm 1860, cảng Sài Gịn chính thức mở cửa. Ngày 25-8-182, quy chế của
thương cảng được ban hành. "Tất cả tàu biển, trừ tàu Pháp và Y Pha Nho, đều phải
nộp thuế bỏ neo, tính 50 xu trên 1 tonneau hàng". Sài Gòn được mở cửa, tàu bè các
nước ra vào buôn bán, thương vụ mỗi ngày một tăng.
Năm 1860, Sài Gịn tiếp nhận 246 tàu, trong đó có 111 tàu từ châu Âu mang
đến nửa triệu quan thuốc phiện và một triệu quan các loại hàng hóa khác cùng chở
đi 535.939 tấn gạo trị giá hơn 5 triệu quan và 1 triệu quan các loại hàng hóa khác.
Doanh số mậu dịch năm 1860 của cảng Sài Gòn là 7,7 triệu franc.
Nhiều tàu buôn châu Âu thường xuyên thực hiện những chuyến đi về Sài Gòn với
các thương cảng khác trong vùng như Singapore, Amoy, Quảng Đông, Macao, Hong
21
22
Kong... Vào thời gian có gió mùa Đơng Bắc trong năm, thuyền bè từ miền Bắc Trung
Quốc chở những chuyến hàng đầu tiên đến Sài Gịn để từ đó đưa đi Singapore và khi gió
mùa Tây Nam bắt đầu thổi, họ đưa hàng từ Singapore đến Sài Gòn rồi về lại Trung
Quốc.
Cơng nghiệp:
Nhằm mục đích hiện đại hóa nơng nghiệp, các nhà máy xay lúa được xây dựng
phục vụ cho việc xuất cảng gạo mỗi năm một tăng. Nhà máy Xóm Chiếu, thành lập
năm 1869, do cơng ty Alphonse Cahusac quản lý. Đây là nhà máy xay lúa đầu tiên của
Sài Gịn. Cơng ty Speidel của Đức có hai nhà máy xay lớn là Riserie de l'Union và
Riserie de l'Orient.
Đến năm 1895, Nam Kỳ có 200 xưởng thủ cơng và nhà máy xay thì phần
nhiều tập trung ở Sài Gịn - Chợ Lớn. Riêng nhà máy xay chạy bằng hơi nước thì
Sài Gịn có 2, Chợ Lớn có 7. Ước tính đến năm 1906, số cơng nhân ở Sài Gịn đã
lên đến 25.000 người.
Để đáp ứng nhu cầu thợ lành nghề, Pháp mở trường Bá Công Kỹ Nghệ năm
1897, đào tạo thợ vừa lành nghề vừa có ít nhiều văn hóa phương Tây. Đây là
trường kỹ thuật dạy nghề đầu tiên ở Nam Kỳ đã đào tạo các công nhân kỹ thuật đầu
tiên của nước ta.
Giao thông
Giao thông là huyết mạch của kinh tế. Năm 1881 Pháp bắt đầu làm đường xe
lửa Sài Gòn - Mỹ Tho, bắc hai cầu lớn qua sơng Vàm Cỏ.
Năm 1902, cầu Bình Lợi được xây dựng. Năm sau, đường tàu điện Sài Gòn Gò Vấp, Sài Gịn -- Chợ Lớn, Gị Vấp - Hóc Mơn được thiết lập và vào năm 1910
Sài Gịn được nối với Nha Trang bằng đường xe lửa.
Chính sự ra đời của các thành thị này đã thúc đẩy quá trình tiếp xúc với
những cái mới lạ của văn hóa phương Tây, cũng chính tại đây, cuộc giao lưu văn
hóa Việt Nam - phương Tây diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc nhất.
Vào những năm 1930-1945, xã hội Việt Nam bước vào thời kì rối ren và đen
tối về kinh tế cũng như kiến trúc thượng tầng. Kinh tế phát triển nhưng lợi nhuận
của nó lại phục vụ cho chính quốc. Dân bản địa chỉ cung cấp nguồn nhân công dồi
dào và rẻ mạt. Mâu thuẫn xã hội gay gắt hơn bao giờ hết: Mâu thuẫn giữa thực dân
22
23
với phong kiến, mâu thuẫn giữa phong kiến với tư sản, mâu thuẫn giữa tư sản với
thực dân. Giai cấp tư sản Việt Nam phát triển khó khăn yếu đuối. Giai cấp này một
mặt mâu thuẫn với đế quốc và phong Kiến, mặt khác lại phụ thuộc vào chúng. Một
tâm lí mới lan tràn, tư sản thành thị chịu ảnh hưởng của phương Tây, thích hưởng
lạc, chạy theo lối sống mới vui vẻ trẻ trung, sinh hoạt theo lối mới, là thành phần
chủ yếu của cuộc “Âu hóa” rầm rộ được phản ánh trong văn học 1930-1945. Thực
dân Pháp cổ vũ cho phong trào văn hóa có xu hướng cải lương tư sản (phong trào
Âu hóa, “vui vẻ trẻ trung ”, hội Ánh sáng, hội Hướng đạo…) và những hoạt động
tôn giáo nhằm ru ngủ và đánh lạc hướng thanh niên. Thống sứ Châtel rất chăm lo tổ
chức thi sắc đẹp và gây phong trào chợ phiên. Châtel đích thân đi dự Hội Đồ Sơn,
có tổ chức thi basket, khúc côn cầu, thi bơi, thi xe đạp, chọn hoa hậu Đồ Sơn 1938.
Thực dân Pháp mong muốn thanh niên rơi vào con đường ăn chơi trụy lạc. Trong
phóng sự Thanh niên trụy lạc của Nguyễn Đình Lạp, ta thấy năm 1937, Hà Nội có
6000 gái điếm trong số 18 vạn dân, 100 nhà săm, 300 tiệm hút, 7 sòng bạc lớn…
Bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam những năm 1930-1945 là một trong những
nguyên nhân chính của hiện tượng « Âu hóa » trong văn học Việt Nam thời kỳ này.
Về văn hóa – xã hội
Bước vào giai đoạn 1930-1945, các cuộc khởi nghĩa yêu nước đã dần bị dập
tắt. Kể cả phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh, phong trào Đông Du của Phan
Bội Châu… cũng lần lượt thất bại. Kháng chiến cứu nước khơng cịn sơi sục, xã hội
Việt Nam có một khoảng thời gian “tĩnh lặng” tạm thời. Thực dân Pháp sau khi
hoảng sợ trước cũng tiến hành ráo riết hơn những biện pháp cai trị mới và triệt để
hơn. Tháng 10-1930 Pôn Raynô, Bộ trưởng Thuộc địa Pháp sang Đơng Dương để
điều tra tình hình và định ra chính sách đối phó cho thích hợp. Chính quyền thực
dân thi hành một số biện pháp cải lương, tổ chức lại trường Cao đẳng Đông Dương,
trường Luật, đưa một số địa chủ, tư sản, trí thức cao cấp vào một số chức vụ “quan
trọng", cho người “bản xứ" được nhập quốc tịch Pháp một cách rộng rãi hơn... Nhân
cơ hội này những lực lượng thân Pháp bắt đầu trỗi dậy. Thực dân Pháp tiếp tục
chính sách ngu dân, bắt học sinh từ 18 tuổi trở lên phải đóng thuế thân để con em
các gia đình nghèo không được đi học. Kết quả là hơn 90% dân số mù chữ. Tất
nhiên, trong các nhà trường Việt – Pháp cũng như qua sách báo, học sinh, sinh viên
23
24
vẫn tiếp thu được một nền văn hóa tiến bộ của nước Pháp: triết học của Diderot,
Voltare,… tác phẩm của Victor Hugo, Balzac, Stendhan… nhưng một mặt họ cũng
bị đầu độc bởi chủ nghĩa siêu hình, duy tâm, hồi nghi. Bên cạnh đó, thực dân Pháp
đồng thời thực hiện chế độ kiểm duyệt gắt gao, cấm đoán tất cả sách báo tiến bộ
trong và ngồi nước.
Nhìn thấy q khứ Việt Nam nặng về Hán học, chủ tâm của người
Pháp là muốn cắt đứt liên lạc văn hóa giữa người Việt với người Tàu. Để đạt mục
đích hướng tinh thần người Việt về với Pháp, chữ Hán cũng như chữ Nôm cần phải
triệt bỏ và thay thế bằng chữ Pháp, còn văn tự cho tiếng nói người bản xứ nếu cần
đã có chữ quốc ngữ cùng một họ mẫu tự La Tinh. Thư của Paulin Vial, Giám Đốc
Nội Vụ, Súy Phủ Nam Kỳ gửi Quan Bố Sài Gòn ngày 15 tháng 1 năm 1866 viết :
"Dès les premiers jours, on a reconnu que la langue Chinois était une
barrière de plus entre nous et les indigènes; l'instruction donné par le moyen de
caractères hiéroglyphiques nous échappait complètement; cette écriture ne permet
que difficilement de transmetre à la population les notions diverses qui lui sont
nécessaires au niveau de leur nouvelle situation politique et commercial. Nous
sommes obligés en conséquence de suivre les traditions de notre propre
enseignement; c'est le seul qui puisse nous rapprocher des Annamites de la colonie
en leur inculquant les principes de la civilisation européenne et en les isolant des
influences
hostiles
de
nos
voisins"
[Dẫn
theo
Trần
Bích
San
-
] (Ngay từ những ngày đầu, chúng tôi đã nhận ra rằng:
tiếng Trung quốc lại là một rào cản giữa chúng tôi và dân bản xứ; giáo dục bằng các
kiểu chữ tượng hình hồn tồn vượt quá tầm tay của chúng tôi. Loại chữ viết này chỉ
cho phép chuyển một cách khó khăn đến dân chúng những khái niệm cần thiết cho
hồn cảnh mới về chính trị và thương mại của chính họ. Kết quả là chúng tôi buộc
phải theo cách dạy truyền thống của riêng chúng tơi. Chỉ có như thế mới có thể làm
cho người An Nam xích lại gần với thuộc địa bằng cách khắc sâu vào trí não họ
những qui tắc văn minh Châu Âu và tách họ ra khỏi những ảnh hưởng "chống đối,
thù nghịch" của nước láng giềng).
Xã hội Việt Nam rơi vào thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng do chính sách
giáo dục và kiểm sốt văn hóa của Pháp.
24
25
Những trí thức tiến bộ trước đó đã bắt đầu ngờ vực rằng: sở dĩ chúng ta mất
nước chính là vì dân ta lạc hậu, xã hội ta trì trệ, sự hiểu biết về thế giới xung quanh
quá kém, trình độ khoa học q lạc hậu… chính sự trì trệ đó đã kìm hãm phong trào
cứu nước giải phóng dân tộc. Dần dần, dù khó chấp nhận đến thế nào, người Việt
Nam cũng phải nhận ra rằng, những công nghệ tiên tiến đó rất có lợi cho cuộc sống
và sự phát triển của dân tộc. Người Việt bắt đầu chủ động học theo phương Tây, nhờ
vào sách báo, tạp chí phương Tây chuyển ngữ… (tân thư), những thành tựu văn hóa,
kĩ thuật phương Tây vào Việt Nam ngày càng nhiều. Những tiếp xúc tự nguyện ban
đầu này đã đưa nước ta vào giai đoạn mới của tiếp biến văn hóa: giai đoạn bắt chước
máy móc và bước đầu tiến hành sàng lọc giá trị văn hóa. “Khoảng lặng” trong cuộc
chiến tranh giữ nước chính là thời kỳ sơi động nhất của cuộc tiếp biến văn hóa lớn thứ
hai trong lịch sử giao lưu văn hóa ở Việt Nam.
Về văn hố nghệ thuật nói riêng
Có thể nói, giai đoạn 1930-1945 là giai đoạn chuyển biến rõ nét nhất của văn
hoá nghệ thuật Việt Nam. Ở tất cả các môn nghệ thuật, q trình hiện đại hố diễn
ra nhanh chóng và đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Âm nhạc: Đây là thời kỳ hình thành của tân nhạc Việt Nam, các nhạc sĩ đầu
tiên của nền tân nhạc hấp thụ âm nhạc phương Tây, tạo ra một diện mạo mới cho
âm nhạc Việt Nam cả về kỹ thuật, phương pháp lẫn nội dung sáng tác. Những nhạc
sĩ tân nhạc nổi tiếng có thể kể đến: Nguyễn Văn Tuyên (1909-?), Dương Thiệu
Tước (1915-1995), Hoàng Quý (1920-1946)… Những loại nhạc cụ mới du nhập
vào: guitare, violon, piano,… Những thành tựu đầu tiên đó là nền tảng cho sự phát
triển của âm nhạc Việt Nam sau này.
Sân khấu: Bên cạnh những loại hình biểu diễn dân gian, có nhiều thể loại
mới ra đời làm phong phú thêm cho nghệ thuật sân khấu: kịch nói, ballet, opera…
Hội họa: Những hoạ sĩ đầu thế kỉ như Tô Ngọc Vân (1906-1954), Bùi Xuân
Phái (1920-1988), Nguyễn Phan Chánh (1892-1984),… là những gương mặt tiêu
biểu cho nền hội hoạ Việt Nam đầu thế kỷ XX. Thành tựu của họ trong những thể loại
tranh mới như: sơn dầu, màu nước, tranh lụa… đã đưa hội họa Việt Nam bước sang
con đường hiện đại hoá.
25