Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

HINH 76 LUOC DO QUAN DUC ANH CHIEM CHAU AU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.66 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<i><b>Kịch bản dự thi kể chuyện 1000 năm Thang Long Hà Nội và học tập</b></i>


<i><b>Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ</b></i>



<b>PhÇn I</b>


TiÕng ru tõ hËu trêng :


<i>Khi con võa míi sinh ra</i>


<i>Mẹ hiền thơi đã lìa xa cõi đời </i>(ảnh làng quê)


<i>Ân tình nghĩa phụ con ơi</i>
<i>Mai sau trí lớn đáp lời nớc non</i>


Chuyện kể rằng, cách đây hơn 1000 năm về trớc, ở châu Cổ Pháp, tỉnh Bắc
Ninh, có ngời đàn bà họ Phạm. Một đêm, bà nằm mơ thấy giao duyên với thần và
có thai. Vào đêm trở dạ, bỗng cả một vùng xung quanh sáng rực ánh hào quang ,
h-ơng thơm ngào ngạt. Sau cơn vật vã, bà sinh hạ đợc một bé trai mặt mũi khơi ngơ,
sáng sủa. Khi cậu bé vừa cất tiếng khóc chào đời thì bà mẹ cũng mất vì kiệt sức.
Nhà s Vạn Hạnh đã đem cậu về nuôi và đặt tên là Cơng Uẩn, mang họ Lí.


Lên ba tuổi,( ảnh) Công Uẩn đợc s Vạn Hạnh gửi cho s đệ của mình là Lí
Khánh Văn ni dỡng


Lí Khánh Văn khơng qn lời căn dặn của s huynh, ( ảnh) ông đã ra sức dạy
dỗ Cơng Uẩn bằng tất cả tình u thơng của một ngời cha dành cho con.( ảnh)
Ngôi chùa Minh Châu trầm mặc nằm giữa một khu vờn xanh mớt lá, dịng
sơng Tiêu êm đềm chảy bên cái làng Dơng Lôi nhỏ bé đã chở che cho tuổi thơ
trong sáng, giàu ớc mơ lớn lao của Công Uẩn. Cậu bé tuy nhỏ tuổi nhng đã sớm
bộc lộ t chất của một bậc hào kiệt.


Hàng ngày, ngồi những giờ đàm đạo trong trai phịng, s Lí Khánh Văn cịn


truyền dạy cho Cơng Uẩn những bài võ lợi hại của nhà Phật.


Một hôm, hai thầy trò đang luyện tập thì một chú tiểu vào báo ( ảnh) : <i> Bạch</i>
<i>thầy ! Thiền s Vạn Hạnh mới về và có lời mời thầy tới chùa ứng Tâm</i>


<i> </i>Ngụi chùa nhà s Vạn Hạnh chủ trì ẩn hiện trong khung cảnh của khu rừng đại
ngàn. Từ lúc ở kinh s về, s Vạn Hạnh vẫn lặng lẽ nh đang suy nghĩ một điều hệ
trọng (ảnh)


Sau mấy năm trời xa cách, nỗi nhớ s đệ và Công Uẩn không lúc nào nguôi trong
lòng s Vạn Hạnh. Hai nhà s gặp nhau, trong lịng ngập tràn cảm xúc mà khơng nói
nên lời.


Sau một tuần trà, hai vị s cùng nhau bàn về thế sự. S Vạn Hạnh nhỏ nhẹ : “ <i>Giờ</i>
<i>đây, đang lúc thái bình thịnh trị, vua sáng, tơi hiền, chính là lúc cho nhân tài thi</i>
<i>thố gây dựng sự nghiệp. Ta về đây là để …”</i>


ThÊy s huynh ngËp ngõng, LÝ Khánh Văn chợt hiểu : <i>Dạ, tha có phải ý s huynh</i>
<i>muèn C«ng UÈn lai kinh ?”</i>


S Vạn Hạnh gật đầu :“ <i>Triều đình rất cần những nhân tài nh Công Uẩn. Mảnh</i>
<i>đất nhỏ bé này đâu phảilà nơi cho phợng hoàng tung cánh. Ngày mai, ta muốn</i>
<i>Công Uẩn theo ta lên đờng”…</i>


Vậy là Công Uẩn đã theo s Vạn Hạnh về kinh đô.( ảnh) Chẳng mấy chốc, Công
Uẩn đã là một chàng trai 18 tuổi. Ngày ngày, chàng cùng các vơng tôn, công tử đọc
sách thánh hiền, luyện tập võ nghệ, ( ảnh) hồi hộp chờ đến hội thi chọn ngời tài
giỏi thống lĩnh cấm vệ quân.


Và ngày đó đã đến, ( ảnh) Kinh đô Hoa L hôm nay sôi động trong ngày hội lớn,


các đạo quân rầp rập trẩy về từ các ngả. Nét mặt các tráng sĩ ai nấy đều rạng rỡ chờ
đợc vào ứng thí


Cơng Uẩn đã trải qua ba vòng thi một cách xuất sắc, (ảnh) đứng đầu trong các
tráng sĩ dự hội thi. Chàng đã đợc trao bộ phẩm phục Điện tiền chỉ huy quân cấm vệ,
đạo quân tinh nhuệ bậc nhất kinh thành.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Thời gian thấm thắt trôi qua. Giờ đây, Khi vua Lê Đại Hành đã băng hà, Lí Cơng
Uẩn vơ cùng xót xa trớc sự bạo tàn của đơng kim hoàng đế Lê Ngoạ Triều.( ảnh)
Nhiều đêm trằn trọc, thao thức, ông tự hỏi : <i>Phải chăng vì rờng cột, xã tắc đã lung</i>
<i>lay mà lịng dân sinh loạn.</i>


Lần đó, ơng cất quân đi dẹp đám dân nổi loạn ở Hồi Quan – Tam Điệp. Khi vào
đến nơi, nhìn thấy đội ngũ lố nhố của đám loạn quân – những ngời nơng dân miễn
cỡng phải cầm vũ khí, vị tớng triều đình thở dài buồn bã.( ảnh) Chợt một ngời dờng
nh là thủ lĩnh tiến ra hơ lớn : “ <i>Có phải tớng qn Lí Cơng Uẩn đó khơng</i> ?”


Lý Công Uẩn cất tiếng hỏi : “ <i>Nhà ngơi lợng sức ra sao mà dám đem quân</i>
<i>chống lại triều đình ?”</i>


Kẻ đầu lĩnh khảng khái : <i>Chúng tôi cũng biết tớng quân oai danh bốn bể, nhân</i>
<i>nghĩa lừng lẫy cả chốn thâm sơn cùng cốc này, nhng cũng vì dân đen bị bóc lột</i>
<i>trăm bề khổ cực mµ sinh biÕn lµm cµn”</i>


Lí Cơng Uẩn nghe hết sự tình, ( ảnh) rồi hớng về những ngời khốn khổ hô lớn<i> :</i>
<i> Hỡi dân chúng Hồi Quan, ai về nhà nấy, đừng động binh nữa, ta sẽ đem đầu mình</i>




<i>về triều tâu bày để đổi lấy sự bình yên cho đất này .”</i>



Dân nổi loạn ai nấy nghe vậy ( ảnh) đều quỳ sụp xuống để bày tỏ tấm lịng
thành kính. Thế là khơng tốn một mũi tên, hịn đạn, Lí Cơng Uẩn đã dẹp yên đợc
đất Hồi Quan.


Lí Công Uẩn thu binh về triều.( ảnh) Chuyến này ông quyết tâm tâu bày mọi
nhẽ sớm mong nhà vua tỉnh ngộ mà giữ vững kỉ cơng phép níc


Khi vua Lê Ngoạ Triều qua đời, quan chi hậu Đào Mộc đã tâu với Lí Cơng Uẩn :
“ <i>Một ngày trong nớc khơng thể khơng có vua. Triều đình đồng lịng tơn tớng qn</i>
<i>lên ngôi báu”</i>


Lời tâu vừa dứt, ( ảnh) toàn thể quan lại , tớng sĩ quỳ phục xuống, tung hơ vang
trời. Lí Cơng Uẩn biết đã đến lúc mình phải ra tay gánh vác sơn hà xã tắc,


Năm 1009, ( ảnh) Lí Cơng Uẩn lên ngơi vua, lấy hiệu là Lí Thái Tổ, đặt niên
hiệu là Thuận Thiên. Vua ra lệnh đại xá cho thiên hạ, từ nay ai có việc tranh kiện
cho phép đến triều tâu bày, vua sẽ đích thân phán quyết


Năm 1010, tại điện Trờng Xuân, các quan lại tề tựu đông đủ, ai ai cũng hồi hộp
chờ đợi đức vua ban bố một dự định lớn mà Ngời suy ngẫm đã lâu.


Vào triều, đức vua cất lời : “ <i>Ta thấy thành Hoa L chật hẹp, không đủ làm chỗ ở</i>
<i>của đế vơng, muốn dời đi nơi khác,(</i><b>ảnh Chiếu dời đô) </b><i>tự tay ta viết Chiếu dời</i>“


<i>đô , nay truyền các khanh xem xét”</i> <i>…”</i>


Nghe xong chiếu chỉ, bày tơi đều nói : “ <i>Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên</i>
<i>cho nghiệp đế đợc thịnh vợng lớn lao, dới cho dân đợc đông đúc giàu có, điều lợi</i>
<i>nh thế, ai dám khơng theo”</i>



Vua nghe vậy rất mừng. Tháng 7 năm đó. Lí Thái Tổ từ thành Hoa L dời đô ra
Đại La. ( ảnh) Thuyền đỗ trên sông dới thành, nhân dân nơ nức đón đợi nhà vua
tun đọc “<i>Thiên đô chiếu”)</i>


Giọng nhà vua sang sảng trong tiếng trống vang trời, ngời ngựa thuyền bè rầm
rộ tiến về phía Bắc thành Đại La. Ngự trên thuyền Rồng, Lí Thái Tổ nhìn ra xa, và
kìa, ( ảnh) trong đám mây ngũ sắc cuồn cuộn ẩn hiện một bóng rồng vàng. Thăng
Long kinh thành đợc đặt tên từ đấy


Kính tha quý vị đại biểu
Tha tòan thể các bạn.


Kể lại chuyện xa mà không bao giờ cũ, chúng ta càng cảm phục và biết ơn đức
vua Lí Thái Tổ, tài cao chí lớn đã khai sáng đất Thăng Long.


Hôm nay, ( ảnh tợng đài Lí Thái Tổ)đứng dới chân tợng đài của Ngời uy
nghiêm, sừng sững, nghe dòng máu quật cờng bất khuất của cha ông chảy trong
huyết quản, cảm nhận tinh hoa của đất Thăng Long văn ngàn năm văn vật hồ thấm
trong mỗi ngời dân Hà Nội. Bằng tình u từ muôn triệu con tim, bằng sức lực từ
muôn triệu bàn tay, bằng trí tuệ từ mn triệu khối óc, chúng ta hãy góp phần làm
cho thủ đơ nớc Việt ngày càng văn minh hiện đại. ( Video)Hãy thắp sáng lên cột
mốc vàng 1000 năm Thăng Long – Hà Nội rực chiếu tơng lai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>Phần II</b>


Kính tha các vị đại biểu


Tha toàn thể các bạn.


Thời khắc lịch sử 1000 năm Thăng Long – Hà nội đang đến, rất gần.



( ảnh Tháp Rùa) Ngắm nhìn một Hà Nội hôm nay hiện đại, rạng rỡ,( ảnh Hồ
<b>Tây) hào hoa, trong tâm thức mỗi chúng ta mãi mãi biết ơn đức vua Lí Thái Tổ anh</b>
minh 10 thế kỉ trớc ( VIDEO)đã tuyên “ <i>Chiếu dời đô”</i>, bỏ lại sau lng kinh đô Hoa
L hùng vĩ, trùng điệp núi non, để tìm đến vùng đất mới, dựng nghiệp cho muôn đời
: ( ảnh thành Đại La ) Thành Đại la.


Sự kiện dời đô tuy trong sử sách là một công việc bình thờng, tuỳ thuộc vào ý
trời, vận nớc, vào tầm nhìn của ngời chèo lái. Nhng ở vào thời điểm Lí Thái Tổ, thì
đó là một dấu mốc, một bớc ngoặt lớn lao. Phải có một khát vọng, một ý chí mới có
thể thốt ra khỏi cái vỏ bọc giam mình trong cái thế dậm chân tại chỗ, để gồng
mình vơn tới, điều đó chứng tỏ dân tộc Đại Việt


( ảnh chùa Một cột) đã đủ sức xây dựng một nền độc lập tự cờng, ngang hàng với
các quốc gia khác, nhất là đối với các quốc gia phong kiến phơng Bắc.( ảnh Khuê
<b>Văn Các) Đó là ý thức độc lập tự cờng của một dân tộc vừa thức tỉnh sau 10 thế kỉ</b>
trong đêm trờng nô lệ, để đợc phát huy rực rỡ từ thời đại Lí triều.


Giá trị của “<i>Chiếu dời đô</i>” ( ảnh Chiếu dời đô) trớc hết và chủ yếu là t tởng
yêu nớc. T tởng ấy sáng ngời trong từng câu, từng chữ : “ <i>Huống gì thành Đại La,(</i>


<b>ảnh Thành Đại La </b><i>) kinh đô cũ của Cao Vơng : ở vào nơi trung tâm trời đất; đợc</i>
<i>cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hớng nhìn sơng</i>
<i>dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân c khỏi chịu cảnh khốn</i>
<i>khổ ngập lụt ; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tơi. xem khắp đất Việt ta, chỉ</i>
<i>nơi này là thắng địa. Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phơng đất nớc; cũng là</i>
<i>nơi kinh đô bậc nhất của đế vơng mn đời”</i>. Chỉ nói về Đại la, nhng lời văn sang
sảng một niềm tự hào về đất nớc. Chọn Đại La làm đất đóng đơ, Lí Thái Tổ đã chọn
đợc “ <i>nơi thắng địa</i>” của “ <i>khắp đất Việt ta</i>”. Khi nói đây là “ <i>chốn hội tụ trọng yếu</i>
<i>của bốn phơng đất nớc ; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vơng muôn đời</i>”, nhà


vua đã bày tỏ một khát vọng thống nhất giang sơn rộng lớn về một mối, khát vọng
và khí phách của cả dân tộc đang trên đà lớn mạnh. ( ảnh Chiếu dời đô)Sức truyết
phục của “Chiếu dời đô” là ở chỗ, tuy là tiếng nói của một ngời nhng là hội tụ của
mn triệu tấm lịng. Đó khơng chỉ là một văn kiện lịch sử, mà còn là một áng văn
nghị luận đặc sắc, với cách lập luận chặt chẽ khơng thừa một ý, khơng lãng phí một
câu, nội dung và hình thức gắn kết với nhau vơ cùng hàm súc. Tình cảm của ngời
viết dù khơng muốn lộ ra, vẫn ngập tràn trong tiết tấu, nhịp điệu, trong từng chữ,
từng câu, lại đợc diễn tả bằng lối biền văn chuẩn mực.


Xuất hiện vào đầu thế kỉ thứ XI, “<i>Chiếu dời đô”</i> đợc xem là tác phẩm mở đầu
cho truyền thống t tởng yêu nớc trong nền văn học Việt nam, xứng đáng là áng
“<i>thiên cổ hùng văn</i>” bất hủ của muôn đời.


Lịch sử nghìn năm đã chứng minh tính đúng đắn của việc định đơ tại Thăng
Long, và đó là một bí ẩn, bí ẩn ấy chỉ có thể lí giải bằng câu chuyện của một thiên
tài.


Vâng ! Nếu khơng có thiên tài , hay ít ra là linh cảm về tơng lai của Thăng Long
và Đại Việt, thì làm sao vị quân vơng ba mơi sáu tuổi ấy có thể thấy trớc đợc cơ đồ
của đất nớc mà trớc đó nào đã có vơng triều nào thấy đợc. Phải là ngời biết trớc vận
nớc, biết trớc tơng lai, tiền đồ dân tộc, Ngời mới có quyết định dời đơ, hành động
đó nh một sự lựa chọn tất nhiên, không thể khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>chốn hội tụ của bốn phơng đất nớc, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vơng muôn</i>
<i>đời</i>”, lựa chọn nơi đây làm đất đóng đơ là một toan tính vơ cùng đúng đắn.


Nếu trong truyền thuyết có một Phù Đổng vơn vai đánh giặc giữ nớc thì hành
động của Lí Cơng Uẩn chẳng phải là hành động đó hay sao? Sự nghiệp ấy, áng
hùng văn ấy nh hai hiện tợng sóng đơi đã đi vào lịch sử và văn chơng nh một sự kế
tục và khơi nguồn, để con sông “<i>đỏ nặng phù sa</i>” của lòng yêu nớc thêm sâu, thêm


nặng.


Kính tha Quý vị đại biểu !
Tha toàn thể các bạn.


Giờ phút thiêng liêng của Đại lễ đang đến, chúng ta nh nghe trong sâu thẳm
lịng mình những âm vang xơn xao của lịch sử vọng về, vẫn nh nghe vang vọng lời
“<i>chiếu dời đô .”</i> Mãi mãi in sâu trong tâm thức chúng ta biết ơn ngời khai sáng. Từ
1000 năm về trớc, đức vua Lí Thái Tổ khi dời đơ từ Hoa L về Đại La,( Video)
thuyền vừa cập mạn thành đã nhìn thấy dáng Rồng bay lên từ phía dịng sơng Mẹ.
Từ đờng chân trời lịch sử tít tắp, dù muôn trùng bể dâu biến động, nhng Ngời vẫn
thấy ánh lên rạng rỡ vầng dơng của vận nớc, của tơng lai dân tộc. Chúng ta vơ
cùng biết ơn đức vua Lí Thái Tổ đã lựa chọn một quyết định sáng suốt và dũng cảm
mang tầm vóc của một chiến cơng, ( ảnh Tháp Rùa)để ngày hơm nay con cháu
Ngời có một Hà Nội văn hiến, Hà Nội anh hùng, Hà Nội - thành phố “ <i>vì hồ</i>
<i>bình</i>”, thân thiện và mến khách trong lòng bè bạn.( ảnh đền Ngọc Sơn)


Với tình yêu tha thiết dành cho Hà nội- Trái tim của Tổ quốc, nơi “ Lắng hồn
sông núi ngàn năm”, chúng ta, mỗi tập thể, mỗi cá nhân, bằng những việc làm cụ
thể, thiết thực nhất,( (Chân dung Hồ Chí Minh) nguyện ra sức “ Học tập và làm
theo tấm gơng đạo đức Hồ Chí Minh”, đóng góp phần mình làm cho Thủ đơ ngày
càng văn minh, hiện đại.


Trải bao thăng trầm lịch sử, cái thế Rồng lên của kinh đô nớc Việt là cái thế
thăng thiên bất tử, là nguồn cảm hứng bất tận, là cội nguồn sức mạnh vơ song bồi
đắp ý chí quật cờng và sức lao động sáng tạo của các thế hệ ngời Việt Nam hôm
nay. Biết bao máu xơng, biết bao mồ hơi, trí tuệ, tâm sức đã đổ xuống trong cuộc
kiến tạo ngàn năm trờng kì gian lao mà chói sáng, để hơm nay con cháu Lạc Hồng
thế hệ Hồ Chí Minh hiên ngang làm chủ một giang sơn hùng vĩ, một non sơng gấm
vóc rạng ngời.



Ơi ! Thủ đơ Thăng Long – Hà Nội ( Video)
Mãi muôn đời rạng rỡ thế Rồng bay !


<i><b>( Màn múa hát)</b></i>


<i><b> Chng trỡnh tham d hi thi kể chuyện “</b>1000 năm Thăng Long Hà Nội</i>” và học
tập “<i>Chiếu dời đô”</i> của trờng THCS Khánh Thợng đến đây kết thúc.
Một lần nữa chúng em xin kính chúc các vị đại biểu mạnh khoẻ.


Chúc hội thi thành công rực rỡ.


TáC GIả: ĐINH VĂN NHO


</div>

<!--links-->

×